BẢN TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Tên đề tài: “Hướng dẫn học sinh phân biệt văn thuyết minh với văn thuyết
minh có yếu tố nghệ thuật nhằm nâng cao chất lượng môn Ngữ văn 9”.
Người thực hiện: Cao Thuý Phượng.
Đơn vị công tác: Trường Trung học cơ sở Bàu Năng.
1. Lí do chọn đề tài:
Trước đây phân môn làm văn trong nhà trường với những phương thức cơ
bản và biệt lập: tả, kể, cảm nghĩ, nghị luận và các văn bản hành chính thông dụng...
chưa đề cập đến đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự. Đó là
phương thức thuyết minh và thuyết minh có kết hợp các yếu tố nghệ thuật vào
trong chương trình. Là phương thức mới giúp các em biết kết hợp linh hoạt và sáng
tạo các phương thức khác cũng như vận dụng các yếu tố nghệ thuật. Đây chính là lý
do thôi thúc tôi chọn đề tài: “Hướng dẫn học sinh phân biệt văn thuyết minh với
văn thuyết minh có yếu tố nghệ thuật nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ
văn 9.”
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hướng dẫn học sinh biết phân biệt văn
thuyết minh với văn thuyết minh có yếu tố nghệ thuật.
Thực hiện đề tài ở lớp 9A1, 9A2 Trường Trung học cơ sở Bàu Năng năm học
2010- 2011.
Khi thực hiện đề tài này, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu
sau:
Phương pháp thống kê.
Phương pháp đọc tài liệu.
Phương pháp so sánh.
Phương pháp khái quát, tổng hợp.
3. Đề tài đưa ra giải pháp mới:
1
Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học văn trong nhà trường đồng thời giúp
học sinh lĩnh hội kiến thức đầy đủ nhất, tối ưu nhất trong các tiết học mới và khó để
vận dụng vào thực hành đạt hiệu quả cao nhất.
4. Hiệu quả áp dụng:
Khi áp dụng đề tài, kết quả tăng dần khá cao số học sinh có sự so sánh và
biết phân biệt giữa văn thuyết minh và văn thuyết minh có yếu tố nghệ thuật.
5. Phạm vi áp dụng:
Đề tài có thể áp dụng trong môn Ngữ văn lớp 9 Trường Trung học cơ sở Bàu
Năng nói riêng và cấp Trung học cơ sở toàn ngành nói chung.
Người thực hiện
Cao Thuý Phượng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài:
Nhịp độ phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại đòi hỏi một sự đổi mới cao
độ về phương pháp dạy học nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin, đồng thời
có thể xây dựng con người năng động, sáng tạo làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại.
Đây cũng là một đòi hỏi chiến lược của chủ nghĩa xã hội trong nhiệm vụ đào tạo ra
những công dân vừa có phẩm chất chính trị, vừa có năng lực làm chủ khoa học kỹ
thuật.
Trước đây phân môn làm văn trong nhà trường với những phương thức cơ
bản và biệt lập: tả, kể, cảm nghĩ, nghị luận và các văn bản hành chính thông dụng.
Chương trình cũ dạy nhiều về tự sự, miêu tả nhưng không đề cập đến cách dạy kết
hợp tự sự với các phương thức khác như: miêu tả, nghị luận, biểu cảm… chưa đề
cập đến đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự… Đó là
những kiến thức hết sức bổ ích, không chỉ giúp học sinh viết văn tự sự hay hơn mà
2
còn cung cấp những công cụ giúp các em khám phá thêm được nhiều lý thú trong
các tác phẩm truyện, kể cả truyện thơ như: Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Đó là những phương thức biểu đạt giúp các em thể hiện cảm nhận của mình
trong quá trình lĩnh hội tác phẩm văn chương. Còn việc lĩnh hội những tri thức
khách quan để trang bị cho các em cách ứng xử, cách thuyết trình một vấn đề mang
tính khoa học sao cho tương thích với sự hội nhập trong điều kiện kinh tế của thời
đại thì chương trình cũ chưa đề cập đến. Nói như vậy để khẳng định một lần nữa
cái hay, cái mới và sự cập nhật kịp thời của chương trình hiện nay theo chuẩn kiến
thức và kỹ năng là phải đưa phương thức thuyết minh và thuyết minh có kết hợp
các yếu tố nghệ thuật vào trong chương trình.
Là phương thức mới, đòi hỏi học sinh phải vận dụng tri thức khách quan để
thể hiện, đặc biệt là phải biết kết hợp linh hoạt và có sáng tạo các phương thức khác
cũng như vận dụng các yếu tố nghệ thuật để thể hiện. Nên không tránh khỏi những
khó khăn, thậm chí bị bế tắt trong quá trình tiếp thu kiến thức cũng như vận dụng
thực hành. Đây chính là lý do thôi thúc tôi chọn đề tài: “Hướng dẫn học sinh phân
biệt văn thuyết minh với văn thuyết minh có yếu tố nghệ thuật nhằm nâng cao
chất lượng bộ môn Ngữ văn 9.”
2. Mục đích nghiên cứu:
Từ việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở tất cả các bậc học và xác định phải
khuyến khích học sinh tự học, tự nghiên cứu. Áp dụng những phương pháp dạy học
hiện đại để bồi dưỡng học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn
đề.Giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu và ứng dụng các phương pháp dạy học
có hiệu quả nhằm giúp học sinh biết so sánh, phân biệt được sự khác nhau của văn
thuyết minh và thuyết minh có kết hợp yếu tố nghệ thuật được rõ ràng và sâu sắc
hơn. Để phần nào tháo gỡ, giải quyết được những khó khăn mà thầy - trò gặp phải
trong tình hình học tập và chất lượng bộ môn hiện nay, với mục đích cuối cùng là
nâng cao chất lượng dạy – học.
3. Đối tượng nghiên cứu:
3
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Hướng dẫn học sinh biết phân biệt văn
thuyết minh với văn thuyết minh có yếu tố nghệ thuật.
Đặc biệt tập trung cho học sinh biết sắp xếp định hướng khi thực hành có
hiệu quả từ khâu tìm hiểu đề, lập dàn ý, viết đoạn, liên kết đoạn, viết văn bản thuyết
minh hoàn chỉnh theo phương thức mới, khó và hay.
Thực hiện đề tài ở lớp 9A1, 9A2 Trường Trung học cơ sở Bàu Năng năm
học 2010- 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Khi thực hiện đề tài này, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau:
4.1. Phương pháp thống kê:
Thống kê các tiết có liên quan đến thể loại văn thuyết minh và văn thuyết
minh có yếu tố nghệ thuật như :
Khối 8 các tiết: 44, 47, 51, 54, 55, 56, 61, 76, 80, 83, 84
Khối 9 các tiết: 4, 5, 9, 10, 14, 15
4.2. Phương pháp đọc tài liệu:
Tiến hành đọc các tài liệu, giáo trình, sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kĩ
năng… xác định mục tiêu cần đạt, kiến thức trọng tâm theo chuẩn kiến thức kỹ
năng… để hướng dẫn học sinh biết cách phân biệt.
4.3. Phương pháp so sánh:
Tôi dùng phương pháp tích hợp tiến hành, phân biệt so sánh để làm nổi bật
được bài văn thuyết minh với thuyết minh có kết hợp các yếu tố nghệ thuật.
4.4. Phương pháp khái quát, tổng hợp:
Khái quát, tổng hợp lại vấn đề nghiên cứu chương trình,
Dự giờ, tham khảo, tổng hợp lại ý kiến của anh, chị, em đồng nghiệp,
Hệ thống, tổng hợp, thống kê lại chất lượng.
Ngoài ra tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu hỗ trợ khác nữa để
có những kết quả cao mang tính khách quan, khoa học.
5.Giả thuyết khoa học:
4
Quá trình dạy và học sẽ bị tẻ nhạt, nhàm chán, nặng nề hơn nếu như giáo viên
không hướng dẫn cụ thể cho học sinh biết phân biệt giữa văn thuyết minh với văn
thuyết minh có kết hợp các yếu tố nghệ thuật và các em sẽ dễ nhầm lẫn khi làm bài.
Do đó việc giúp học sinh biết phân biệt được văn thuyết minh với văn thuyết minh
có kết hợp yếu tố nghệ thuật là việc làm rất quan trọng, qua đó các em sẽ có được
kỹ năng phân biệt, so sánh trong việc thực hành làm văn thuyết minh có kết hợp các
yếu tố nghệ thuật đạt được chất lượng tốt hơn.
5
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
1.1. Các văn bản chỉ đạo:
Nghị quyết Trung ương IV khoá VII năm 1993 đã đề ra nhiệm vụ: “Đổi mới
phương pháp dạy học ở tất cả các cấp bậc học và xác định phải khuyến khích tự
học, tự nghiên cứu”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định phát huy tinh thần độc lập, sáng
tạo của học sinh, sinh viên để nâng cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và
tay nghề. . . đổi mới dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo
của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức,
tránh nhồi nhét, học vẹt.
Điều 24 Luật Giáo dục (do Quốc hội khoá X thông qua) đã chỉ rõ phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học;
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
1.2.Vai trò và đặc điểm của văn thuyết minh và thuyết minh có kết hợp các
yếu tố nghệ thuật:
Văn thuyết minh là loại văn bản có khả năng cung cấp tri thức xác thực, hữu ích
cho con người.
Văn bản thuyết minh hay là một văn bản trình bày rõ ràng hấp dẫn đặc điểm cơ
bản của đối tượng thuyết minh.Sử dụng ngôn ngữ chính xác, cô đọng, chặt chẽ,sinh
động, không hư cấu, bịa đặt, tưởng tượng.
Thuyết minh có kết hợp các yếu tố nghệ thuật là một phương thức biểu đạt
mới, khó và có tính tỉ mĩ. Mới là lần đầu tiên áp dụng vào chương trình cấp Trung
học cơ sở và khó là ở chỗ đòi hỏi học sinh phải biết kết hợp các yếu tố nghệ thuật
vào,vận dụng các tri thức khách quan để thực hiện. Điều này đòi hỏi các em phải có
sự quan sát, tổng hợp sự việc hiện tượng dưới gốc nhìn của những tri thức vốn có từ
đời sống cũng như học tập qua sách vở.
6
Phương thức thuyết minh trong chương trình học gồm tất cả 14 tiết (8 tiết ở
khối lớp 8 và 6 tiết ở khối lớp 9 – có 2 tiết bài viết) có sự liên kết và tích hợp rất
chặt chẽ (từ thuyết minh đến thuyết minh có kết hợp) đòi hỏi học sinh phải có khả
năng cũng như kĩ năng phân tích, đúc kết kiến thức một cách khoa học.
Học văn, làm văn phải bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, phải rèn luyện kĩ năng
cảm thụ. Đôi khi mình phải đồng điệu với nhân vật, cùng nhập cuộc với hoàn cảnh.
Cũng như nhà văn (nhà thơ) muốn sáng tác tác phẩm thì phải có vốn sống vì “thực
tế cuộc sống chính là linh hồn của tác phẩm”. Thực tế cuộc sống đi vào trong tác
phẩm phải thông qua lăng kính chủ quan của tác giả. Tác giả tạo ra tác phẩm bằng
vốn sống không chưa đủ mà phải tạo ra tác phẩm bằng tâm hồn, sự nhạy cảm trước
cuộc sống nữa. Nhà văn muốn thực hiện tác phẩm thì phải có vốn sống, vốn tổng
hợp tri thức khách quan về cuộc sống. Điều này có ý nghĩa: dù nhìn ở góc độ nào
thì phương thức thuyết minh vẫn là phương thức biểu đạt quan trọng trong việc học
và làm văn ở trường phổ thông.
2. Cơ sở thực tiễn:
2.1. Thực tiễn vấn đề nghiên cứu:
Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 9, hiện tại tôi đang phụ trách
giảng dạy lớp 9A1, 9A2, bản thân tôi nhận thấy kĩ năng phân biệt giữa văn thuyết
minh và văn thuyết minh có kết hợp yếu tố nghệ thuật ở các em đạt mức độ thấp,
rất hạn chế, mặc dù là học sinh cuối cấp.
Cụ thể trong bài viết số 1 ở lớp 9 là văn thuyết minh có sử dụng yếu tố nghệ
thuật mà các em chỉ biết viết một bài văn thuyết minh suông, chưa kết hợp các yếu
tố nghệ thuật trong bài làm mà chỉ viết theo cảm hứng và sở thích của mình cho đủ
bài, hết giờ thì thôi- không kể đó là dạng bài gì? Kiểu bài gì? Yêu cầu ra sao? ...
Do cấu trúc chương trình, lớp 8 các em học và làm văn thuyết minh, đầu năm
lớp 9 không tìm hiểu lại mà tiếp tục nâng cao thêm việc kết hợp các yếu tố nghệ
thuật cho bài viết.
Trước tình hình thực tế như thế thì giáo viên chúng ta cần phải bám sát và
thực hiện theo chuẩn kiến thức kĩ năng đã được hướng dẫn, thực hiện. Điều lưu ý là
7
khi soạn giảng ta cần phải linh động, sáng tạo sắp xếp hệ thống kiến thức cho phù
hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh, từ đó giúp các em thoải mái, nhẹ nhàng
và có hứng thú khi học đến dạng văn này, các em hoạt động nhiều hơn, tích cực
hơn mà không có tâm trạng bị áp đặt hay nặng nề.
Nếu như giáo viên không có sự chuẩn bị để hướng dẫn học sinh biết phân
biệt, so sánh... những điểm khác nhau cơ bản giữa văn thuyết minh và văn thuyết
minh có kết hợp các yếu tố nghệ thuật thì liệu các em có được sự hứng thú trong
giờ học, kết quả cao trong thực hành không.
2.2. Sự cần thiết của đề tài:
Chính những việc đã nêu trên, bản thân của mỗi giáo viên chúng ta phải lựa
chọn cách thức truyền đạt, hướng dẫn sao cho phù hợp, nhẹ nhàng mà dễ hiểu, dễ
phân biệt, nắm bắt và so sánh được giữa văn thuyết minh khác với thuyết minh có
kết hợp yếu tố nghệ thuật. Ngoài ra, khi soạn giáo án để thực hiện tiết dạy, giáo
viên cần phải bám theo chuẩn kiến thức và theo quan điểm mới: “không phải là bản
đề cương để ghi nhận những điều thầy cảm mà là bản thiết kế những việc làm cho
học sinh nhằm phát huy được tính năng động, tư duy sáng tạo của các em trong học
tập, trong làm bài."
3. Nội dung vấn đề:
3.1.Vấn đề đặt ra là làm thế nào để hướng dẫn học sinh biết phân biệt giữa
văn thuyết minh với văn thuyết minh có kết hợp yếu tố nghệ thuật thì trước tiên
giáo viên phải cung cấp những tri thức cơ bản về văn thuyết minh và thuyết minh
có kết hợp các yếu tố nghệ thuật cho các em
3.2.Những tri thức cơ bản:
3.2.1.Văn thuyết minh:
Đặc điểm và yêu cầu của văn thuyết minh:
Trong cuộc sống, con người luôn có nhu cầu tìm hiểu các sự vật, hiện
tượng tự nhiên và xã hội. Một sự vật, một phong cảnh, một con người, một buổi
biểu diễn nghệ thuật, một bài thơ, một cuốn sách, . . . đều khơi gợi ở người tiếp xúc
những mong muốn tìm hiểu bản chất, đặc điểm, nguyên nhân, sự hình thành, . . .
8
Khi chúng ta đáp ứng những nhu cầu đó, tức là phải tiến hành trình bày, giới thiệu,
giải thích. Chúng ta đã sử dụng văn bản thuyết minh.
Những bản hướng dẫn cấu tạo, tính năng, cách dùng và bảo quản một dụng
cụ nào đó (máy bơm, quạt điện, tivi, phích, tủ lạnh,...); những hướng dẫn một cách
chế biến một món ăn theo kiểu Việt Nam, Trung Quốc, Pháp,...; những hướng dẫn
cách làm một đồ chơi cho các cháu thiếu nhi; hướng dẫn tham quan du lịch đối với
một thắng cảnh; trình bày cách làm thí nghiệm; giải thích tiểu sử nhà văn, trình bày
về đặc điểm thể loại văn học,... đều là văn bản thuyết minh.
Văn bản thuyết minh khác với văn bản tự sự ở chỗ nó không kể sự việc và
diễn biến; cũng khác với miêu tả ở chỗ nó không tả tỉ mỉ, chi tiết theo chủ quan của
người miêu tả (không nhằm mục đích làm cho người đọc cảm thấy mà chủ yếu là
cho họ hiểu được); khác với văn bản biểu cảm vì nó cố gắng trình bày một cách
khách quan, không bộc lộ tình cảm riêng của người viết; khác với văn bản nghị
luận vì nó trình bày nguyên lí, quy luật, cách thức,… chứ không trình bày luận
điểm, lí lẽ; văn bản thuyết minh cũng khác với văn bản hành chính - công vụ ở chỗ
nó không giải quyết các mối quan hệ giữa cá nhân và tổ chức, mà hướng tới việc
làm cho người ta hiểu bản chất của sự vật, hiện tượng.
Văn bản thuyết minh cung cấp tri thức khách quan về sự vật, hiện tượng,
giúp người đọc, người nghe hiểu được chúng một cách đúng đắn, đầy đủ. Cung cấp
tri thức, văn bản thuyết minh đặt mục đích làm cho người ta hiểu lên hàng đầu, yếu
tố cảm nhận hay thưởng thức được đặt xuống hàng thứ yếu. Ngôn ngữ trong văn
bản thuyết minh yêu cầu chính xác, chặt chẽ, tường minh. Nó không đa nghĩa mà
càng đơn nghĩa càng tốt; tuy nhiên không loại trừ việc thuyết minh hấp dẫn nhờ
cách đặt vấn đề, cách nêu tình huống độc đáo và một số biện pháp nghệ thuật khác.
Cách làm bài văn thuyết minh:
Tri thức để làm bài văn thuyết minh:
Bài văn thuyết minh là bài cung cấp tri thức cho người đọc (người nghe) để
họ có thể hiểu, nắm được đặc điểm, bản chất của một sự vật, hiện tượng nào đó. Vì
thế muốn thuyết minh được mạch lạc, rõ ràng, người viết phải có vốn tri thức nhất
định về điều mình viết. Muốn có tri thức, người viết phải trực tiếp tìm hiểu sự vật,
9
quan sát, ghi chép, hỏi những người am hiểu,... Đó là cách tích luỹ kiến thức trực
tiếp. Tuy nhiên, không phải mọi vấn đề cần thuyết minh đều đòi hỏi phải đi thực tế
và cũng khó mà đi thực tế. Bởi vậy, tri thức cũng có thể tích luỹ một cách gián tiếp
thông qua sách vở, thông qua mạng in-tơ-nét,… Cũng có khi phải kết hợp sử dụng
các nguồn tri thức với nhau.
Qui trình làm bài văn thuyết minh:
Bài văn thuyết minh cũng được làm theo qui trình chung của một bài tập
làm văn, gồm 4 bước: tìm hiểu đề, tìm ý; lập dàn ý; viết bài và sửa chữa. Muốn viết
được bài văn thuyết minh thành công cần phải tìm hiểu đề và tìm được các ý cho
bài viết. Sau khi tìm được ý, phải chọn phương pháp thuyết minh cho phù hợp. Sau
đó là lập dàn ý và viết bài. Trong khi viết, có thể bổ sung, thêm bớt ý cho dàn bài
hoàn chỉnh. Bước cuối cùng là sửa lại bài viết, nhất là sửa các lỗi chính tả, lỗi ngữ
pháp.
Các phương pháp thuyết minh:
Đối với bài văn thuyết minh về sự vật, hiện tượng có thể sử dụng những
phương pháp thuyết minh sau đây:
- Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích:
+ Đây là phương pháp thuyết minh khá phổ biến. Người thuyết minh sẽ xác
định đối tượng thuộc loại sự vật, hiện tượng gì, đặc điểm của nó là thế nào. Chẳng
hạn, nếu văn bản trữ tình chú ý đến vẻ đẹp của Huế: Đường vô xứ Huế quanh
quanh - Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ - Ai vô xứ Huế thì vô (Ca dao)
thì văn bản thuyết minh chú ý đến việc nêu vị trí vai trò của Huế: Huế là cố đô
của nước ta, là trung tâm một văn hoá, nghệ thuật của miền Trung và cả nước.
+ Khi nêu định nghĩa hay giải thích, người viết cần chú ý đến giới hạn chính
xác. Không định nghĩa quá hẹp hay quá rộng sự vật khiến cho người khác khó hình
dung và khó hiểu.
- Phương pháp liệt kê:
Đây là một cách để người viết trình bày những tri thức liên quan đến sự vật,
hiện tượng được thuyết minh. Chẳng hạn, thuyết minh về cây dừa, tác giả
Hoàng Văn Huyền viết: Cây dừa cống hiến tất cả của cải của mình cho con
10
người: thân cây làm máng, lá làm tranh, cọng lá chẻ nhỏ làm vách, gốc dừa già
làm chõ đồ xôi, nước dừa để uống, để kho cá, kho thịt, nấu canh, làm nước mắm, . .
. (Ngữ văn 8, tập 1). Như vậy, tác giả đã liệt kê về sự cống hiến của cây dừa.
Trong khi nói về nước dừa, tác giả lại liệt kê những ích lợi của nó: để uống, để kho
cá, kho thịt, nấu canh, làm nước mắm.
Nguyễn Trọng Tạo khi viết về cây chuối cũng sử dụng phương pháp liệt:
Chuối xanh nấu với các loại thực phẩm có vị tanh như cá, ốc, lươn, chạch có sức
khử tanh rất tốt, nó không chỉ làm cho thực phẩm ngon hơn mà chính nó cũng có
cái ngon bổ riêng không thay thế đước. Người ta có thể chế biến nhiều món ăn từ
quả chuối như chuối ép, mứt chuối, kẹo chuối, bánh chuối, . . . (Cây chuối Việt
Nam)
- Phương pháp nêu ví dụ:
Để thuyết minh, người viết có thể nêu ra một ví dụ có tính chất tiêu biểu. Ví
dụ càng độc đáo, càng chính xác và được đưa ra đúng lúc, đúng chỗ thì sức thuyết
phục càng cao. Nói về khả năng gây bệnh ung thư của thuốc lá, tác giả Nguyễn
Khắc Viện (trong bài Ôn dịch thuốc lá) nêu ví dụ: Thấm vào các tế bào, chất
hắc ín lại thường gây ra ung thư. Ta đến bệnh viện K sẽ thấy rõ: Bác sĩ viện trưởng
cho biết trên 80 % ung thư vòm họng và ung thư phổi là do thuốc lá. (Ngữ văn 8,
tập 1, trang 119)
- Phương pháp dùng số liệu (con số):
Thật ra, nêu các con số cũng là một cách nêu ví dụ. Nhưng ở đây nhấn mạnh
đến ý nghĩa của con số. Các con số thống kê tự bản thân nó đã có ý nghĩa lớn gây
ấn tượng mạnh mà không cần phải thuyết minh thêm. Trong bài Đấu tranh cho
một thế giới hoà bình, G. Mác-két sử dụng việc nêu số liệu rất ấn tượng: Một ví
dụ trong lĩnh vực tiếp tế thực phẩm: Theo tính toán của FAO, năm 1985, người ta
thấy trên thế giới có gần 575 triệu người thiếu dinh dưỡng. Số lượng ca-lo trung
bình cần thiết cho những người đó chỉ tốn kém không bằng 149 tên lửa MX... Chỉ
cần 27 tên lửa MX là đủ trả tiền nông cụ cần thiết cho các nước nghèo để họ có
được thực phẩm trong bốn năm tới. (Ngữ văn 9, tập 1, trang18)
- Phương pháp so sánh:
11
So sánh là một biện pháp nhằm làm cho người đọc, người nghe hình dung rõ
sự vật được nói tới.So sánh là một trong ba thể tiêu biểu để triển khai nội dung của
bài ca dao: phú, tỉ ( so sánh) và hứng. Diễn tả vẻ đẹp của cô gái, ca dao viết: Cổ
tay em trắng như ngà – Con mắt em sắc như là dao cau. Ngà làm cho ta cảm nhận
được màu trắng cổ tay, dao cau giúp ta cảm nhận được độ sắc của cặp mắt. Nhờ so
sánh mà đối tượng được hình dung rất cụ thể, sinh động.
Viết về thành phố Sài Gòn ba trăm năm tuổi, muốn nhấn mạnh Sài Gòn
vẫn trẻ, Minh Hương so sánh: Sài Gòn vẫn trẻ […]. Ba trăm năm so với năm
ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài gòn cứ trẻ hoài
như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt (Ngữ văn 7, tập 1, trang
168). So sánh ba trăm năm với ba ngàn năm; Sài Gòn với cây tơ đương độ nõn
nà, người đọc thấy ngay là Sài Gòn vẫn trẻ.
- Phương pháp phân loại và phân tích:
Thuyết minh là văn bản dùng cho nhiều loại đối tượng khác nhau. Có món ăn,
có đồ dùng, có danh lam thắng cảnh, có khi là một loài động vật, thực vật. Chính
điều này đã đòi hỏi phải phân loại để chọn các phương pháp và cách trình bày phù
hợp. Thêm nữa, ngay trong bản thân đối tượng thuyết minh cũng có những loại
phức tạp, nhiều bộ phận, nhiều mặt. Vì thế phải có sự phân loại, phân tách ra các bộ
phận nhỏ hơn để thuyết minh. Ví dụ về một món ăn, người ta thường thuyết
minh các phần: Nguyên liệu và dụng cụ chế biến; Cách chế biến; Yêu cầu
thành phẩm; Cách ăn món đó thế nào là ngon nhất.
Như vậy có nhiều phương pháp thuyết minh. Vấn đề đặt ra cho người viết là
biết xác định đối tượng, sử dụng phương pháp kết hợp như thế nào để làm rõ đối
tượng, làm cho người đọc, người nghe hiểu được đối tượng mà người viết trình
bày.
Một số kiểu bài thuyết minh:
- Thuyết minh về một thứ đồ dùng
- Thuyết minh về một loài vật
- Thuyết minh về một phương pháp
- Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh
12
- Thuyết minh về một thể loại văn học
- Thuyết minh về một phong tục, một đồ chơi dân gian. . . .
3.2.2 Các yếu tố nghệ thuật (tự thuật, đối thoại, ẩn dụ, nhân hoá) và miêu tả
trong văn thuyết minh:
Để văn bản thuyết minh sinh động, hấp dẫn, người thuyết minh thường sử dụng
một số yếu tố nghệ thuật như ẩn dụ, nhân hoá và yếu tố miêu tả. Cách sử dụng rất
linh hoạt và đa dạng, tuỳ thuộc vào đối tượng thuyết minh và dụng ý của người
thuyết minh.
Ví dụ như:
Trong Hạ Long – Đá và Nước, nhà văn Nguyên Ngọc đã dùng phép nhân
hoá để nói về những khối đá trên vịnh đồng thời kết hợp với việc miêu tả để
làm rõ sắc thái những con người đá: ánh sáng hắt lên từ mặt nước lung linh chảy
khiến những con người bằng đá vây quanh ta trên mặt vịnh càng lung linh, xao
động, như đang đi lại, đang tụ lại cùng nhau, hay đang toả ra. Hoặc cũng rất có
thể, khi đêm đã xuống, dưới ánh sao chi chít xao động dưới cả mặt nước bí ẩn nữa,
sẽ có cuộc tụ họp của cái thế giới người bằng đá sống động đó, biết đâu !. . .
Tường Lan khi thuyết minh về ruồi xanh đã tưởng tượng ra một phiên
toà của Ngọc Hoàng có vệ sĩ Nhện, có tội nhân Ruồi Xanh, có luật sư bào chữa.
Lời khai của Ruồi Xanh chính là một cách thuyết minh về loài ruồi, họ hàng
và nơi sinh sống của nó: Con là Ruồi Xanh, thuộc họ côn trùng hai cánh, mắt
lưới. Họ hàng con rất đông gồm Ruồi trâu, Ruồi vàng, Ruồi giấm... Nơi ở là nhà vệ
sinh, chuồng lợn, chuồng trâu, nhà ăn, quán vỉa hè…., bất kì chỗ nào mà có thức
ăn mà không đậy điệm con đều lấy làm nơi sinh sống.
Văn Hùng khi thuyết minh về chiếc kim khâu đã dùng phép nhân hoá và
tự thuật, để cho cây kim tự kể chuyện và giới thiệu về mình: Trong các dụng cụ
của con người, có lẽ chúng tôi thuộc loại bé nhất. Tuy bé nhưng nhà ai cũng cần
đến. Các bạn có biết chúng tôi là ai không ? Chúng tôi là những cái kim khâu bằng
kim loại, bề ngang độ nửa mi-li-mét, bề dài khoảng hai, ba xăng-ti-mét. . .
Nhìn chung văn bản thuyết minh ở lớp 9 vẫn là kiểu văn bản thuyết minh đã
học ở lớp 8, nhưng được nâng cao hơn về cách thức và hiệu quả thuyết minh, đặc
13
biệt là việc sử dụng một số yếu tố nghệ thuật và yếu tố miêu tả làm cho bài văn
thuyết minh sinh động, hấp dẫn. Tuy vậy, cần luôn luôn nhớ rằng các yếu tố trên
chỉ là yếu tố phụ trợ, dùng quá nhiều thì bài thuyết minh sẽ không còn là thuyết
minh nữa.
3.2.3 Quá trình thực hiện kinh nghiệm “Hướng dẫn học sinh phân biệt được
văn thuyết minh với văn thuyết minh có yếu tố nghệ thuật”
VỀ GIÁO VIÊN:
Bám sát và thực hiện theo chuẩn kiến thức kĩ năng,
Sắp xếp phân nhóm cho học sinh thảo luận,
Hỗ trợ học sinh trong quá trình thảo luận, thuyết trình,
Nhận xét, bổ sung và gút chốt kiến thức trọng tâm. . .
VỀ HỌC SINH:
Ở nhà: Chuẩn bị phần bài tập đã được định hướng và chỉ định.
Ở lớp: Tham gia thảo luận, góp ý xây dựng và thuyết trình.
Lưu ý đối với các em học sinh lớp 9 cần xem lại kiến thức ở lớp 8 về văn
thuyết minh.
Kiểu bài văn thuyết minh ở lớp 9 có yêu cầu cao hơn ở lớp 8, đòi hỏi có sự
kết hợp giữa văn thuyết minh với các yếu tố khác, nhằm làm cho bài văn thuyết
minh hay và sinh động hơn có chất lượng cao hơn và đạt hiệu quả tốt hơn.
Giáo viên cần phải
Hệ thống lại kiến thức về văn thuyết minh sao cho khoa học.
So sánh, đối chiếu và thấy được tác dụng của tính kết hợp trong văn thuyết
minh nói riêng.
Dựa vào mục “Những điểm cần lưu ý” cũng như khả năng tiếp thu của học
sinh để định hướng thật sát sao cho các em tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng mà sâu
sắc, tránh áp đặt, máy móc, rập khuôn.
Phần lí thuyết:
14
Xác định và xoáy trọng tâm bài học để học sinh nắm vững kiến thức, nhưng
quan trọng là định hướng cho các em nắm phương pháp để vận dụng thực hành có
hiệu quả.
Muốn thực hành tốt phải nắm kiến thức vững, đối với những tiết khó chúng
ta phải thật sự linh động sáng tạo sắp xếp hệ thống từ lí thuyết đến thực hành sao
cho phù hợp với tình hình về cơ sở vật chất, về khả năng tiếp thu của học sinh. . .
và trong từng bài giảng làm sao gút chốt được những trọng tâm cơ bản nhất về:
Vị trí của văn bản thuyết minh:
Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng, có phạm vi sử dụng rất
phổ biến trong đời sống, bất cứ ngành nghề nào cũng cần đến. Từ lâu nhiều
nước trên thế giới như Trung Quốc, Nhật Bản… đã đưa vào chương trình học
cho học sinh nhưng lại là văn bản lần đầu tiên đưa vào chương trình làm văn cấp
Trung học cơ sở ở Việt Nam.
Khác với văn bản nghị luận, tự sự, miêu tả, biểu cảm, hành chính - công
vụ, văn bản thuyết minh trình bày tri thức một cách khách quan, giúp ta hiểu
được đặc trưng tính chất của sự vật, hiện tượng, và biết cách sử dụng chúng vào
mục đích có lợi cho con người. Văn bản thuyết minh gắn với tư duy khoa học,
nó đòi hỏi tính chính xác rạch ròi. Muốn làm được văn bản thuyết minh phải
tiến hành điều tra, nghiên cứu, học hỏi tri thức thì mới làm được.
Đưa văn bản thuyết minh vào nhà trường là cung cấp cho học sinh một
kiểu văn bản thông dụng, rèn luyện kĩ năng trình bày các tri thức có tính khách
quan, khoa học, nâng cao năng lực tư duy biểu đạt cho học sinh. Loại văn bản
này vốn không có gì xa lạ đối với học sinh vì thực ra trong từng bài giảng của
thầy cô tất cả các bộ môn đều là lời nhận xét tốt cho văn thuyết minh mà chỉ
cần giáo viên chúng ta có ý thức hướng dẫn là các em làm được.
Sự khác biệt của văn bản thuyết minh với các văn bản khác:
Khác với văn bản tự sự vì không có sự việc và diễn biến.
Khác với miêu tả vì không đòi hỏi miêu tả cụ thể cho người đọc cảm thấy,
mà cốt làm cho người ta hiểu.
15
Khác với văn bản nghị luận vì đây cái chính là trình bày nguyên lí, qui
luật, cách thức chứ không phải là luận điểm, suy luận hay lí lẽ.
Khác với văn bản hành chính – công vụ là văn bản trình bày quyết định,
nguyện vọng, thông báo.
Thực ra trên thực tế, không có một văn bản nào tồn tại độc lập một phương
thức biểu đạt (kể cả các văn bản thuộc loại văn bản truyền miệng như truyện cổ
tích, truyện cười).Một văn bản có sức thuyết phục cao thường phải kết hợp hợp lí
với các phương thức biểu đạt khác. Nhưng chú ý, không vì phải kết hợp mà làm lu
mờ phương thức chính (tuỳ từng yêu cầu đề bài). Văn thuyết minh cũng vậy, sự kết
hợp các yếu tố nghệ thuật trong văn thuyết minh mục đích để làm phong phú, nổi
bật đối tượng, giúp văn bản hấp dẫn, thuyết phục người đọc mà vẫn đảm bảo tri
thức khách quan có tính riêng của văn thuyết minh.
Tóm lại Văn bản thuyết minh là một kiểu văn bản riêng, mà các loại văn bản
khác không thay thế được.
Tính chất của văn bản thuyết minh:
Văn bản thuyết minh tốt là văn bản trình bày rõ ràng, hấp dẫn đặc điểm cơ
bản của đối tượng đang được nói tới. Sự chính xác là tiêu chí hàng đầu của văn
thuyết minh.
Ngôn ngữ diễn đạt trong văn thuyết minh phải chính xác, chặt chẽ, cô đúc và
sinh động. Cách viết trau chuốt, dài dòng sẽ gây cho người đọc nghi ngờ, khó chịu
nên cần tránh.
Yêu cầu về phương pháp thuyết minh:
Cần hiểu chính xác điều mình cần nói, tránh nói vu vơ, không chính xác.Người
nói và người viết cần nghiên cứu, tìm hiểu sự vật, hiện tượng cần thuyết minh, nắm
chắc bản chất đặc trưng, mối tương quan của nó để có thể trình bày một cách sáng
tỏ, có sức thuyết phục, tránh xa đề.
Người nói và người viết có thể phối hợp nhiều phương pháp thuyết minh: nêu
định nghĩa, mô tả sự vật, hiện tượng, nêu ví dụ, liệt kê, so sánh, đối chiếu, phân
loại, dùng số liệu. . . .
16
Hệ thống ví dụ: khi thiết kế giáo án chú ý cho học sinh thực hành thuyết trình
và chỉ ra các em đã vận dụng phương pháp nào và tác dụng. Sau đó giáo viên cần
khẳng định: sự vận dụng các phương pháp thuyết minh đúng và linh hoạt sẽ làm
cho bài văn thuyết minh có sức thuyết minh và ngược lại.
Giới thiệu một số đề văn thuyết minh và thuyết minh có kết hợp:
Sách giáo khoa cũng như sách tham khảo có hướng dẫn rất nhiều đề về văn
thuyết minh (thuyết minh về vật nuôi, cây trồng, phong cảnh, thuyết minh thể loại
văn học, thuyết minh tác phẩm. . .) ta nhận thấy đề thuyết minh rất phong phú.
Các kì thi tuyển vào lớp 10, chọn học sinh giỏi cũng đề cập đến văn thuyết
minh dưới dạng đề mở:
VD: Đề thi chọn học sinh giỏi vòng huyện DMC - Tây Ninh năm học 20072008 ngày 13/ 01/ 2008: “Thuyết minh vẻ đẹp tư tưởng và nghệ thuật của hình ảnh
vầng trăng trong bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy… là những đề khơi gợi tính
sáng tạo không chỉ hiểu biết về cuộc sống mà còn tạo cho các em những cơ hội
giúp các em biết nhận định cũng như cảm thụ văn chương.
Những vấn đề mà đề tài đề cập trước khi qua phần thực hành không được cụ thể
trong tiết học nào cả. Chính vì thế ta cần phải vận dụng phương pháp tích hợp trong
soạn giảng, tăng cường khâu củng cố, dặn dò và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh
qua các tiết để nắm bắt kịp thời khả năng tiếp thu và vận dụng kiến thức của từng
học sinh cho sát sao.
Phần thực hành:
Xác định mục tiêu cần đạt theo chuẩn kiến thức đã được qui định để thiết kế
toàn bộ giáo án cho phù hợp với đối tượng cũng như đặc điểm trang thiết bị của
trường.
Tiết 4: “Sử dụng một biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh”
giúp học sinh hiểu rằng: để cho bài văn thuyết minh sinh động, hấp dẫn, gây ấn
tượng, người ta có thể sử dụng một số biện pháp nghệ thuật như kể chuyện, tự
thuật, đối thoại theo lối ẩn dụ, nhân hoá hoặc các hình thức vè, diễn ca…và cho học
sinh biết cách sử dụng một số biện pháp nghệ thuật vào văn bản thuyết minh.
17
Tiết 5: “Luyện tập sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản
thuyết minh” giúp học sinh biết cách vận dụng một số biện pháp nghệ thuật vào
văn bản thuyết minh.
Tiết 9: Sử dụng yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh.
Tiết 10: Luyện tập Sử dụng yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh.
Nhằm: + Củng cố kiến thức đã học về văn thuyết minh.
+ Hiểu vai trò, tác dụng của yếu tố miêu tả trong văn thuyết minh.
+ Có ý thức và biết sử dụng tốt yếu tố miêu tả trong việc tạo lập văn bản
thuyết minh.
Tiết 79, 80, 163, 164: Ôn tập và tổng kết phần làm văn.
3.2.4.So sánh văn thuyết minh và thuyết minh có yếu tố nghệ thuật:
Giữa văn thuyết minh và văn thuyết minh có kết hợp yếu tố nghệ thuật có
điểm giống nhau là đều vận dụng tri thức khách quan, thực dụng.
Điểm khác nhau:
Văn thuyết minh:
Không kết hợp các yếu tố nghệ thuật
Làm nổi bật đối tượng bằng tri thức khách quan nên không tránh khỏi sự khô
khan. . .ít thuyết phục, ít hấp dẫn.
Văn thuyết minh có kết hợp yếu tố nghệ thuật:
Có vận dụng, kết hợp các yếu tố nghệ thuật.
Bài văn thuyết minh có chất lượng, đạt hiệu quả cao hơn.
Bài văn trở nên sinh động, hấp dẫn, gây ấn tượng.
Vừa gây hứng thú nhưng không làm lu mờ đối tượng thuyết minh.
Bằng ví dụ cụ thể giáo viên hướng dẫn học sinh phân biệt giữa các đoạn văn
thuyết minh đơn thuần với văn thuyết minh có yếu tố nghệ thuật như:
Khi thuyết minh về nơi ở và làm việc của Bác thì Lê Anh Trà chỉ cần viết:
Nơi ở của Bác là một ngôi nhà sàn nhỏ với diện tích 700m 2, mái ngói, vách gỗ, vỏn
vẹn vài phòng để tiếp khách, làm việc và ngủ. . . đồ đạc hết sức ít ỏi, đơn sơ, mộc
mạc như: một chiếc quạt, một bộ bàn, ấm chén, lọ hoa, máy đánh chữ, một chiếc
đài phát thanh Liên Xô cũ,. . .
18
Chỉ mang tính cách là giới thiệu, miêu tả, liệt kê đơn thuần.
Nhưng khi đến với đoạn văn: “Đến thăm nhà Bác với địa điểm không gian
thoáng mát, yên tĩnh, thơm ngát hương hoa, . . . Đến thăm phòng ngủ của Bác càng
thương Bác hơn: chiếc giường nhỏ bằng gỗ thường, mộc mạc không mùi sơn, trên
trải chiếu cói, một chiếc gối vải đã sờn cũ. Trên gối một chiếc quạt nan nằm lặng lẽ.
Chiếc quạt nan này đã từng thức cùng vị Chủ tịch trong bao đêm hè oi ả, lòng
nặng những lo toan việc nước. Góc phòng, bộ quần áo ka ki bạc màu, giản dị
được treo gọn gàng trên móc áo. Trên ngực áo không có một tấm huân chương,
nhưng bên trong làn áo vải là một trái tim nóng bỏng, sáng ngời. . .
Đây là thuyết minh có kết hợp yếu tố nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ, vừa miêu
tả, liệt kê. . .
Bài “Hạ Long- đá và nước” là một bài giới thiệu vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long,
thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam được công nhận là di sản văn hoá thế giới.
Nội dung của bài viết là thuyết minh sự kì lạ vô tận của Vịnh Hạ Long do đá
và nước tạo nên. Thông thường, khi giới thiệu về cảnh đẹp Hạ Long người ta
thường nói Vịnh Hạ Long rộng bao nhiêu? Có bao nhiêu hòn đá? Mang hình thù kì
lạ như thế nào?…
Nhưng Nguyên Ngọc giới thiệu Hạ Long theo một phương diện mà nói tới đó,
nước đem đến cho du khách những cảm giác thú vị: thả cho thuyền nổi trôi hoặc
buôn theo dòng, hoặc chèo nhẹ, hoặc lướt nhanh… trong khi dạo chơi đó, du khách
có cảm giác hình thù của các đảo biến đổi kết hợp với ánh sáng, góc nhìn, ban ngày
hay ban đêm, các đảo đá Hạ Long biến thành một thế giới có hồn, một thập loại
chúng sinh sống động.
Trong bài này tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hoá để nói về những
khối đá trên vịnh đồng thời kết hợp với việc miêu tả để làm rõ sắc thái những
con người đá mà chủ yếu là tưởng tượng và liên tưởng: tưởng tượng những
cuộc dạo chơi (qua những cụm từ có thể), khơi gợi những cảm giác có thể có
(những từ đột nhiên, bỗng, bỗng nhiên, hoá thân) dùng phép nhân hoá để tả các đảo
đá (gọi chúng là thập loại chúng sinh, là thế giới người, là bọn người đá hối hả trở
19
về…). Nước tạo như sự di chuyển và khả năng di chuyển theo mỗi cách tự nhiên,
sự thú vị của cảnh sắc thiên nhiên tạo nên một thế giới sống động biến hoá lạ lùng.
Tường Lan khi thuyết minh về ruồi xanh đã tưởng tượng ra một phiên toà
của Ngọc Hoàng có vệ sĩ Nhện, có tội nhân Ruồi Xanh, có luật sư bào chữa.
Lời khai của Ruồi Xanh chính là một cách thuyết minh về loài ruồi, họ hàng
và nơi sinh sống của nó: Con là Ruồi Xanh, thuộc họ côn trùng hai cánh, mắt
lưới. Họ hàng con rất đông gồm Ruồi trâu, Ruồi vàng, Ruồi giấm… Nơi ở là nhà vệ
sinh, chuồng lợn, chuồng trâu, nhà ăn, quán vỉa hè…, bất kì chỗ nào mà có thức ăn
mà không đậy điệm con đều lấy làm nơi sinh sống.
Văn Hùng khi thuyết minh về chiếc kim khâu đã dùng phép nhân hoá và
tự thuật, để cho cây kim tự kể chuyện và giới thiệu về mình: Trong các dụng cụ
của con người, có lẽ chúng tôi thuộc loại bé nhất. Tuy bé nhưng nhà ai cũng cần
đến. Các bạn có biết chúng tôi là ai không ? Chúng tôi là những cái kim khâu bằng
kim loại, bề ngang độ nửa mi-li-mét, bề dài khoảng hai, ba xăng-ti-mét. . .
20
- Xem thêm -