Sáng kiến kinh nghiệm
GIÁO DỤC TINH THẦN YÊU NƯỚC CHO HỌC SINH QUA
TUYÊN NGÔN CỦA CÁC VĨ NHÂN
----------........................--------PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG
A/ Đặt vấn đề
Bất kì một giai đoạn lịch sử nào thì việc giáo dục tinh thần yêu nước,
lịch sử truyền thống dân tộc đều rất quan trọng và rất cần thiết .Ngày nay
khi đất nước đang tiến hành công nghiệp hoá, hiên đại hoá, khi chúng ta
đang từng bước tiếp cận với khoa học công nghệ cao của thế giới thì vấn
đề giáo dục truyền thống của dân tộc càng phải được coi trọng. Bởi
truyền thống lịch sử dân tộc chính là cái gốc, là nền tảng để chúng ta tiếp
thu cái hiện đại mà không xa rời bản sắc, đón nhận cái mới mà không
quên gốc gác,không xa rời truyền thống lịch sử của cha ông. Chúng ta
phải khắng định rằng, ngay từ bây giờ chúng ta phải quan tâm hơn, tích
cực hơn trong việc giáo dục lịch sử, truyền thống dân tộc cho học sinh
đúng như Bác Hồ đã nhắc nhở:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tuờng gốc tích nước nhà Việt Nam
B/ Lý do chọn đề tài
Với tính đa dạng phong phú của bộ môn, nội dung các khoá trình lịch sủ
ở trường phổ thông có khả năng giáo dục nhiều mặt cho học sinh như:
Xây dựng niềm tin lí tuởng cách mạng trên cơ sở nhận thức đúng sự phát
triển khách quan, hợp quy luật của xã hội loài người . Giáo dục cho học
sinh truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng
1
nước và giữ nước và bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động cho học sinh.
Tri thức lịch sử của nhiều môn học khác xây dựng niềm tin cơ sở cho học
sinh, cung cấp cho học sinh vốn hiểu biết phổ thông, cơ bản vững chắc về
xã hội loài người, làm cơ sở để rút ra những kết luận khoa học, giúp học
sinh nhận thức đúng con đường mà loài người và dân tộc đã trải qua,
đồng thời cung cấp các kiến tthức khoa học cho học sinh một cách cụ thể
như: sự ra đời , hựng thịnh suy vong của mỗi chế độ xã hội đã tồn tại
trong lịch sử... Từ đó hình thành thế giới quan đạo đức làm cho việc định
hướng của học sinh trở nên đung đắn và tự giác .
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có khả năng giáo dục cho học sinh
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhân dân ta đã xây dựng những truyền
thống đẹp đẽ về lòng yêu nước.Vì vậy cần giáo dục cho thế hệ trẻ tinh
thần dân tộc, tinh hoa của nhân loại và từ đó xác định rõ trách nhiệm của
mình trong cuộc sống hiện tại...
Học sinh cần nhận thấy rõ ngay từ thời mới ra đời dân tộc Việt Nam đã
tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ: dựng nước và giữ nước.
Trên cơ sở khai thác nội dung các sự kiện lịch sử, tiến hành giáo dục tư
tuởng tình cảm một cách tự nhiên, có hiệu quả, không áp đặt, công thức.
Ngoài ra còn giáo dục cho học sinh nhiều khía cạnh khác của đạo đức,
phẩm chất tư tưởng chính trị như giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng
trong lao động sản xuất, trong đấu tranh xã hội, giáo dục niềm tin và sự
trung thành với lí tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin, với Đảng
và giáo dục tư tưởng nhân văn trong cuộc sống....
C. Mục đích yêu cầu của đề tài.
Gắn liền việc học tập các khoá trình lịch sử với công tác thực hành bộ
môn để tiến hành việc giáo dục tư tưởng cho học sinh.Trong điều kiện xã
hội hiện nay,việc giáo dục tư tưởng nói chung,việc giáo dục tư tuởng qua
2
bộ môn Lịch Sử nói riêng rất khó,vì không phải lúc nào việc tiếp thu
kiến thức cũng phù hợp với thực tiễn cuộc sống,suy nghĩ mong ước cua
học sinh.Vì vậy giáo dục tư tưởng thông qua dạy học Lịch Sử phải nhằm
vào việc định hướng cho hoạt động của học sinh.Hưóng dẫn cho học sinh
biết nhận thức đúng đắn quá trình phát triển của xã hội,biết tự phân tích
sự kiện lịch sử theo quan điẻm khoa học,biết đánh giá các sự kiện trong
đời sống xã hội truớc kia cũng như hiện nay.
Giáo dục lòng biết ơn đối với tổ tiên,với những người có công với Tổ
quốc như chủ tịch Hồ chí Minh đã viết : Chúng ta có quyền tự hào vì
những trang sử vẻ vang đời Bà Trưng,Bà Triệu,Quang Trung.... Chúng
ta phải ghi nhớ công lao các vị anh hùng dân tộc,vì các vị ấy là tiêu biểu
của một dân tộc anh hùng.
D.CẤU TRÚC ĐỀ TÀI GỒM 3 PHẦN:
PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG
- ĐẶT VẤN ĐỀ
- MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
PHẦN II: NỘI DUNG
- NỘI DUNG CHÍNH CỦA CÁC TUYÊN NGÔN.
- NHỮNG TƯ TƯỞNG THÔNG QUA TUYÊN NGÔN
- KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
PHẦN III: KẾT LUẬN.
3
PHẦN II: NỘI DUNG
A.NỘI DUNG CỦA CÁC TUYÊN NGÔN TRONG LỊCH SỬ VIỆT
NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI.
(Được sử dụng trong dạy học lịch sử lớp 10,11 thuộc 2 ban, đặc biệt Lớp
10,11 Ban xã hội )
*****
I.Bản tuyên ngôn của các nước Tư bản.
1.Bản Tuyên ngôn về quyền hành của nước Anh.
Bản tuyên ngôn này được quốc hội Anh thông qua ngày 22-2-1689 khi
Quốc trưởng Hà lan Ô-gian-giơ được mời sang làm vua nước Anh.Tuyên
ngôn gồm 13 điều, điều nổi bật của bản tuyên ngôn này là qui định quyền
lực của Quốc hội.
Trước hết qui định quyền của các Nghị sĩ trong Quốc hội,điều thứ 9 viết:
"... Tất cả những cuộc tranh luận và tất cả mọi văn kiện của nghị viện
không đưa đến bất cứ một sự truy nã nào, hay một sự truy tố nào trước
bất kì một toà án nào, ở bất cứ nơi nào ngoài nghị viện.
Song song với sự qui định quyền hành của các nghị sĩ, tuyên ngôn đã
khẳng định quyền lập pháp của Quốc hội.
Điều 1 viết: Cái gọi là, quyền gác lại các đạo luật, hay thực thi các đạo
luật theo ý chí của vương triều không có sự tán đồng của nghị viện là
bất hợp pháp.
Điều 2 viết: Quyền phổ biến các đạo luật hay thực thi các đạo do lệnh
của triều đình là sự vi phạm luật và thực thi như truớc đây là bất hợp
pháp.
Tóm lại bản tuyên ngôn về quyền hành là bản tuyên ngôn đầu tiên trên
thế giới, tước bỏ quyền lập pháp của nhà vua và trao quyền đó vào tay
nghị viện, cơ quan đại diện cho nhân dân.
4
Tuy vậy nhân dân ở đây chỉ là những ngưòi giàu có bởi vì hiến pháp
Anh quy định chỉ những người có tài sản cao mới có quyền bầu cử
Quốc hội.
2.Bản tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ.
Bản tuyên ngôn được công bố ngày 4-7-1776 Tuyên ngôn do Giep-phéc
sơn(1743-1826) con một chủ đất lớn ở bang Viếc-gi-nia, Giep - phéc
-sơn tốt nghiêp luật học, lam luật sư ở toà án bang này, ông rất am hiểu
nền luật pháp ở nước Anh, ông cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của trào lưu
tư tưởng dân chủ tư sản châu Âu.
Ông viết bản tuyên ngôn độc lập chính là dưới ánh sáng của nền luật
pháp nước Anh và tư tưởng các nhà khai sáng Pháp thế kỉ 18 như Vôn te,
Rút xô, Môngtexkiơ...Nội dung của bản tuyên ngôn, ngoài việc chỉ trích
tội ác của Anh, tuyên bố độc lập còn đề xướng nguyên tắc sống của giai
cấp tư sản trong thời đại mới: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền
bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,
trong những quyền ấy có quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Quyền tự
do đó chính là quyền tự do ngôn luận , lập hội và chống áp bức và quyền
tự do kinh doanh tư hữu tài sản của mình.
Quyền bình đẳng đó là bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giàu
nghèo sang hèn...
Tuy vậy Con người được hưởng quyền tự do bỉnh đẳng ở đây không bao
gồm nô lệ da đen. Để đảm bảo quyền tự do và bình đẳng, nhân dân thành
lập chính phủ, quyền lực của chính phủ là từ nhân dân,nếu chính phủ làm
tổn hại đến lợi ích của nhân dân, nhân dân có quyền thay đổi hoặc phế
truất chính phủ,lập nên chính phủ mới.
Bản tuyên ngôn độc lập của nước Hoa Kì được công bố đã tích cực động
viên Hoa Kì tham gia chiến tranh giành độc lập, đồng thời ảnh hưởng
lớn tới bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789
5
và sự ra đời của tư tưởng lập pháp của giai cấp tư sản ở Châu Âu. Nó
được liệt vào bộ luật quan trọng trong lịch sử pháp chế nhân loại.
Sau bản tuyên ngôn độc lập, Mĩ còn công bố một văn bản nữa với tên gọi
Các điều khoản của liên bang . Trong đó cụ thể hoá quyền lực của quốc
hội Mĩ
Điều 7 quy định Nghị viện hợp chủng quốc có quyền kí kết các hiệp ước
và hợp đồng.... quy định giá trị về số lượng tiền tệ đúc ra, thiết lập các
định mức về trọng lượng và kích thước tiền trong tất cả các bang.
Điều 13 quy định: Tất cả các bang phải có quy định, nghĩa vụ phục tùng
nghị quyết của nghị viện hợp chúng quốc.
Các điều khoản của liên bang là hiến pháp đầu tiên của hợp chúng quốc
Hoa Kì.
3.Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp.
Tuyên ngôn được Quốc hội lập hiến thông qua ngày 27- 8-1789. Do
Xiâyét khởi thảo, dưới sự giúp đỡ
của Giép - phéc-
sơn(1789
Giépphécsơn đang làm công sứ Hoa Kì tại Pháp) Xiâyét ( 1748-1836),
vốn là viện trưởng một tu viện Thiên chúa giáo. Tuy là cha cố nhưng
ông rất tích cực tham gia phong trào chính trị. Trước cách mạng Pháp
ông đã xuất hiện một cuốn sách nhỏ Thế nào đẳng cấp 3 đả kích chế độ
phong kiến chuyên chế, biện hộ nguyện vọng giành chính quyền của giai
cấp tư sản. Năm 1789 ông tham gia hội nghị 3 cấp với tư cách đại biểu
đắng cấp thứ 3 và được hội nghị uỷ thác thảo bản tuyên ngôn.Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền gồm 17 điều đề cập đến các vấn đề cơ bản
sau:
Xác lập quyền tự do cá nhân của công dân
Điều 11 quy định : Việc tự do trao đổi về tư tưởng và ý kiến là một
trong những quyền quý nhất của con người. Mọi công dân có thể phát
ngôn, viết hay tiến hành in ấn một cách tự do.
6
Xác lập quyền bình đẳng giữa các công dân .
Điều 6 quy định ... Luật pháp phải như nhất đối với tất cả mọi người khi
bảo hộ cũng như khi trừng phạt . Mọi công dân đều bình đẳng trước luật
pháp ...'
Điều 7 quy định Bất cứ ai cũng có thể bị luận tội,bị bắt giam giữ trong
những trường hợp được luật pháp quy định. Những kẻ yêu cầu thúc đẩy
thi hành hoặc cho thi hành những mệnh lệnh độc đoán đều bị trừng phạt.
Tự do và bình đẳng là cơ sở của tình bác ái . Tư tuởng tự do bình đẳng
bác ái của cách mạng Pháp được thể hiện trên lá cờ tam tài của nước
công hoà Pháp. Tự do ứng với màu đỏ bởi vì nền tự do mà con người
đạt được phải thông qua những cuộc cách mạng bạo lực .Tomátgiép
phéc sơn đã từng nói " Tự do được tưới bằng máu của cấc chí sĩ và cả
máu của bọn bạo quân "
Bình đẳng ứng với màu trắng và bác ái ứng với màu xanh.
Tuyên ngôn tuyên bố Quyền tư hữu tài sản là quyền thiêng liêng bất khả
xâm phạm
Điều 11 viết: Quyền tư hữu là quyền bất khả xâm phạm và thiêng liêng
không ai có thể tước bỏ .".Quyền tư hữu của tuyên ngôn thấm nhuần tư
tuởng của Rút xô . Rút xô là người đầu tiên đề xướng tư tưởng quyền tài
sản của công dân ông nói : quyền tài sản về phương diện nào đó còn
quan trọng hơn cả quyền tự do. Quyền tư hữu được xác lập trong tuyên
ngôn có ý nghĩa vô cùng quan trọng , nó bảo đảm quyền phát triển xã
hội . Bởi vì con người được quyền tư hữu của cải và cả sức lao động mới
đuợc nâng cao.Ngoài ra quyền tư hữu được bảo vệ còn bảo đảm an ninh
xã hội ....
II. Tuyên ngôn trong lịch sử Việt Nam.
1. Bài thơ " Nam quốc sơn hà " của Lí Thường Kiệt.
7
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Dịch thơ
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
2." Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn.
.......Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp
buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường.Uốn
lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ,
thác mệnh Hốt Tất Liệt, mà đòi ngọc lụa để thoả lòng tham không cùng ,
giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có
hạn.Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ
về sau.. Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt,
nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu
quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói
trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
Các nguơi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày,không có mặc thì ta
cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta tăng chức, lương ít
thì ta cấp bổng, đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc trận
mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhàn hạ thì cùng nhau vui
cười. Cách đối đãi so với Vương Công Kiên, cốt đãi Ngột Lang ngày
trước cũng chẳng kém gì....
8
Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không thấy lo, thấy nước nhục mà
không biết thẹn , nghe nhạc Thái thường để đãi yến Nguỵ mà không biết
căm. Họ lấy việc chọi gà mà vui đùa , hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu
khiển hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm
giàu mà quên việc nước , hoặc ham săn bắn mà quên việc binh , hoặc
thích rượu ngon hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông, Thát tràn sang ,
thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc mẹo cờ bạc
không thể làm mưu lược nhà binh , dẫu rằng ruộng lăm vườn nhiều tấm
thân quý nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con ríu, việc quân cơ trăm
sự ích chi, tiền của chi nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ
không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say
chết , tiếng hát hay không thể làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các
ngươi sẽ bị bắt , đau xót biết chừng nào? Chẳng những thái ấp của ta
không còn mà bổng lộc cac ngươi cũng mất, chẵng những gia quyến của
ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ tông ta
bị dày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên , chẳng
những thân ta kiếp này chịu nhục rồi đến trăm năm sau,tiếng dơ không
rửa, tên xấu còn lưu mà đến thanh danh các ngưoi cũng không khỏi
mang tiếng là tuớng bại trận . Lúc bấy giờ dẫu các ngươi muốn vui vẻ
phỏng có được không ?......... Vì sao vậy ? Giặc với ta là kẻ thù không
đợi trời chung , các ngưoi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo
trừ hung không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay giáo mà chịu đầu
hàng , giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi dẹp yên
quân giặc , muôn đời để thẹn há còn mạt mũi nào đứng trong trời đất
nữa.Ta viết bài hịch này để các ngươi biết bụng ta.
3.. Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
9
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông, bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu , Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào chẳng có....
.......................................................
........................................................
Họ đã tham sống sợ chết , mà hoà hiếu một lòng
Ta lấy toàn quân là hơn , để nhân dân nghỉ sức
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh
Muôn thủa, nền thái bình vững chắc
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng , ngầm giúp đỡ mới được như
vậy
4.Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh.
10
"Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng.Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy,có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy trong bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy
rộng ra câu ấycó ý nghĩa là : Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,quyền sung sướng và quyền
tự do ..........
............................................................................................................
.............
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 nâm nay, một
dân tộc đã gan góc đứng về phía đồng minh chống phát xít mấy năm
nay, dân tộc đó phải dược tự do, dân tộc đó phaỉ được độc lập. Vì những
lẽ trên, chúng tôi chính phủ lâm thời của nước Việt nam dân chủ công
hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập
.Toàn thể dân tộc Việt nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,độc lập ấy .
III/ Ảnh hưởng của các tuyên ngôn ở các nước Tư bản và Việt Nam
1.Tuyên ngôn độc lập của Hoa kì 1776.
Bản tuyên ngôn này tiêu biểu cho nguyện vọng các dân tộc thuộc địa ở
Bắc mĩ đấu tranh để giành lại độc lập tự do cho nhân dân Mĩ lúc bấy giờ.
Sau khi giành được độc lập, giai cấp tư sản Mĩ lên nắm chính quyền đã
phản bội lại quyền lợi của nhân dân, thi hành chính sách phân biệt chủng
tộc , áp bức bóc lột nhân trong nước đồng thời xâm lược các nước
khác .Chúng đã thực hiện những thủ đoạn tàn bạo của chủ nghĩa Thực
dân, áp dụng chính sách thâm độc và nham hiểm của chủ nghĩa thực dân
mới thống trị về kinh tế và chính trị thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới,
11
chà đạp trắng trợn lên những nguyên tắc tự do bình đẳng đã ghi trong
Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ.
Vận dụng tinh thần tự do, bình đẳng tiêu biểu cho nguyện vọng độc lập
tự do của nhân Mĩ , khi soạn tuyên Ngôn độc lập của nước Việt Nam dân
chủ Cộng hoà , Chủ tịch Hồ chí Minh đã trích một khẳng định quyền tự
do và độc lập của nhân dân Vệt Nam.
2.Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp
Bản tuyên ngôn này đã công khai ghi rõ các quyền tự do dân chủ : tự do
thân thể , tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, quyền bình đẳng của mọi
người trước pháp luật, quyền chống áp bức...
Bản tuyên ngôn đã ảnh hưởng lớn đến phong trào của nhân dân các nước
đang đấu tranh chống chế độ phong kiến lúc bấy giờ.
Năm
1789 Tuyên ngôn độc lập của Hịch tướng sĩ của Tuyên
ông tham gia Hoa kì
hội
nghị
đẳng cấp
3 thảo ra.
và
do Giécphecson Trần Quốc Tuấn
ngôn
Nhân
quyền và
được hội nghị
Dân
uỷ thác
quyền
thảo
bản
tuyên
ngôn
-Thời
của Pháp
gian:27/8/178
9-Thời
gian:
Thế kỉ XIII
Tuyên
ngôn
độc lập của
nước
Việt
Nam Dân Chủ
12
Cộng
Hoà
của Chủ tịch
Hồ Chí Minh
-Người đã viết
trong 1 đêm
nhưng
dựa
trên cơ sở mà
chính
đã
Người
tổng
kết
gần 100 năm
đấu
tranh
chống đế quốc
thực dân Pháp
giành độc lập
của toàn dân
tộc ta và tổng
kết cả một đời
hoạt
động
cách mạng của
bản thân.
-TRong chiến
tranh
giải
phóng
của
nhân dân Bắc
Mĩ chống chủ
nghĩa thực dân
Anh, Các xứ
thuộc địa Anh
13
ở Bắc Mĩ đã tổ
chức các cuộc
đại
hội
đaị
biểu đeer thoả
luận
những
biện
pháp
chống
bọn
Thực
dân
Anh
.Nghị
quyết tuyên bố
các xứ thuộc
địa
là những
nước tự do độc
lập tách khởi
phạm
vi,
quyền lực của
Anh.Bản
dự
án nghị quyết
này đựoc đại
biểu 13 bang
thông qua và
trở
thành
tuyên
ngôn
độc lập của
nước Mĩ
-Khi
Nguyên
quân
ráo
riết chuẩn bi
14
tiến
,
thế
không
hoà
hoãn
được
nữa, vua Trần
triệu tập hội
nghị
Bình
Than
1282
họp các vương
hầu , tướng
lĩnh
,
quan
chức cao cấp
bàn kế hoạch
kháng chiến .
Từ
đó
chương
chủ
đánh
giặc cứu nước
của triều đình
đã trở thành ý
chí chung của
các tầng lớp
quý tộc , quan
chức binh sĩ
và nhân dân .
Nơi nơi chiêu
mộ quân lính
tích luỹ lương
thực sắm sửa
vũ khí và các
15
phương
tiện
chiến
tranh
khác , quân và
dân sẵn sàng
luyện tập
và
ngày
đêm
chiến đấu.
-Tại Pháp do
Xi ây et khởi
thảo
-Thời gian:
4/7/1776
-Địa điểm: Tại
Đại họi lần thứ
2
ở
Phila
đenphia( Bắc
Mĩ)
-Thời
gian:
trong 1 đêm
cuối
tháng
Tám/ 1945
-Địa điểm: 1
Căn nhà ở phố
Hàng
Ngang
Hà Nội
3.Hịch tướng sĩ.
16
Đây là một bài văn nhằm kêu gọi tướng lĩnh chỉ huy quân đội, đánh vào
công tác tư tưởng. Hịch tướng sĩ không phải là bản tổng kết chiến tranh
cũng không phải là bản tóm tắt lịch sử chiến tranh mà chỉ nhằm đánh đổ
một số tư tưởng không đúng đang lưu hành trong hàng ngũ tướng sĩ ,
nhằm xây dựng tư tưởng đúng đắn cần phải có trước tình hình cuộc xâm
lược sắp nổ ra. Nội dung tư tưởng của Hịch tướng sĩ rất phong phú, đặc
sắc đó là:
a.Không có tư tưởng sợ địch.
Đọc xong bài Hịch tướng sĩ , tất cả những ai thông hiểu lực lượng so
sánhViệt - Nguyên đều lấy làm lạ không thấy trong bài Hịch đoạn, một
câu, một chữ ,một ý ngắn nào nói rằng tướng sĩ Đại việt sợ quân
Nguyên, phục quân Nguyên. Không có, lạ thật mà quả là như vậy.
Chẳng lẽ các tướng sĩ Đại Việt lại không hay biết rằng quân Mông rất
háo sát , từng giết toàn dân của cả một thành phố có gan chống lại , giết
hết chỉ trừ có 400 thợ thủ công ? Chẳng lẽ họ không biết rằng bên Tây,
Giáo Hoàng La mã truyền thông điệp nói ông ta sợ người Tác Ta cho
đến "Xương nát tuỷ khô , thân gầy sức kiệt " còn bên Đông nước Tống
rộng lớn như thế , đông dân như thế , văn hoá thịnh đạt như thế cuối cùng
vua Tống và triều thần không còn chỗ dung thân phải ôm nhau nhảy
xuống biển. Chẳng lẽ Trần Quốc Tuấn nắm chắc tinh thần quân đội mà
"quên " đả phá tâm lí sợ địch nếu tâm lí ấy có thật. Chẳng lẽ các tướng
lĩnh nhà Trần chưa đọc "Hóc sát sử lược" của người Tống là Bình Đại
Nhã mô tả kĩ thuật và sách lược chiến tranh kì ảo của người Mông
:"Trăm quân kị, quay vòng có thể bao vây được vạn người, nghìn quân kị
toả ra có thể có thể thành một tuyến dài đến trăm dặm, địch phân tất
phân,địch hợp tất hợp, cho nên kị đội là ưu thế của họ , hoặc xa hoặc
gần , hoặc nhiều hoặc ít, hoặc tụ hoặc tán , hoặc ẩn hoặc hiện , đến như
trên trời rơi xuống, đi như chớp giật"
17
So với đế quốc Mông Nguyên thì Đại Việt "nhỏ như cái đấu"
Vậy mà tướng sĩ nhà Trần khôg mang tâm lí sợ Nguyên .Tập đoàn lãnh
đạo nhàTrần không ngán , không phục quân Nguyên.Vua Trần tiếp sứ
Nguyên mà không đứng dậy, nhận chiếu chỉ Nguyên hoàng mà không
quỳ lạy, thỉnh thoảng lại tống giam sứ thiên triều nữa là khác.Đại Việt rất
tự tin và mãnh liệt. Lòng tự tin ấy truyền mãi đến sau này khi quân và
dân ta phải đương đầu với Mĩ - bọn Mông Thát hiện đại . Ta nay đã thật
sự không sợ Mĩ, ngán Mĩ, phục Mĩ, thì tổ tiên chúng ta đã không sợ
Mông Nguyên , điều đó có lạ gì ?
Cho nên trong bài Hịch, Trần Quốc Tuấn đánh vào những nét tâm lí
khác của tướng sĩ mà không dành một câu nào để đánh tâm lí sợ
Nguyên. Không sợ địch , tất nhiên không phải là chủ quan khinh địch
b.Phải biết thẹn vì nước bị nhục
Trần Quốc Tuấn khéo gợi lên cái nỗi bực tức của mỗi người dân , trước
hết là của mỗi người tướng trước việc sứ địch "nghêng ngang ngoài
đường ","Xỉ mắng triều đình" Trần Quốc Tuấn muốn cho mỗi người dân
khinh bỉ bọn Nguyên, gọi chúng là cú diều , là dê chó , cái bọn khinh bỉ
ta là cái bọn đáng khinh bỉ nhất .Lòng tham của chúng là vô cùng , không
thể có kho tàng nào thoả mãn được .Danh dự ta bị tổn thương ,an ninh ta
bị đe doạ, chiến tranh khong thể tránh được, làm tướng sao có thể ngồi
nhìn mà không biét ức biết nhục, không tìm cách cứu vong hay sao ?
Thời này là thời nhiễu nhương , buổi này là buổi gian nan , nào phải là
buổi hoà bình an lạc, đừng nhận định sai lầm.Làm tướng trong tình thế
khách quan đó , phải làm gì?
Chủ tướng thì đau lòng , âu lo căm thù , ngày đêm tính kế rửa nhục nước
, không quản hi sinh , còn tuớng sĩ thế nào ? Trần Quốc Tuấn nghiêm
khắc vạch ra những điều hư hỏng , cái hư lớn nhất, nguy nhât là không
biết thẹn với cái nhục chung của nước, Là thái độ thờ ơ với vận mệnh
18
nước nhà. Biết thẹn, biết nhục là một điều lớn trong đạo làm người nói
chung. "Mặt dày mày dạn" là lời nhân dân thường dùng để chê kẻ không
biết thẹn, không biết nhục. Không biết thẹn biết nhục là kẻ bỏ đi. Người
ta can đảm chiến đấu bảo vệ quê hương , mình nhát sợ co rúm ở xó bếp
mà không biết thẹn, thì còn nói gì đến chí trai? Uốn lưng chống gối
trước kẻ xâm lược dã không biết đó là nhục lại còn lấy đó làm vinh, làm
kế sinh nhai, thì còn đâu xứng đáng đứng trong trời đất. Như vậy bài
Hịch của Trần Quốc Tuấn lấy cái tâm lí biết thẹn biết nhục làm đòn bẩy
tinh thần , đả phá tư tưởng thờ ơ, hưởng lạc , kích động vinh dự quân
nhân.
c.Đả phá tư tưởng thờ ơ hưởng lạc , xây dựng tư tưởng quyết
chiến,quyết thắng.
Trần Quốc Tuán liệt kê những hiện tượng cụ thể của căn bệnh thờ ơ
trầm trọng, căn bệnh hưởng lạc nguy hiểm chắc là khá phổ biến trong
hàng ngũ tướng sĩ lúc bấy giờ:"Nay các người nhìn chủ nhục mà không
biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn ...Lấy việc chọi gà làm vui
đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển...."Tư tuởng thờ ơ hưởng lạc nếu
không bị đánh đổ sẽ dẫn đến chỗ bi thảm ấy.Không chỉ có những người
lãnh đạo quốc gia, bị thiệt và mang nhục mà cả tướng sĩ và mọi người
đều mang nhục. Giống như dưới đống mồi khô có ngọn lửa, khi củi chưa
cháy,đừng tuởng nằm bên trên đống lửa là yên ổn, kì thật sắp chết đến
nơi và phải nhận rõ nguy cơ cấp bách là giặc Sát Thát sắp tràn vào,hãy
bỏ con đường sống nhục.
Có thể tưởng tuợng được một Hưng Đạo Vương long trọng tuyên đọc bài
"Hịch", đến đây các tướng sĩ tay nắm chân dậm đồng thanh hô vang:Giết,
Ghết giặc Thát". Hai chữ "Sát Thát "xâm trên cánh tay của mỗi chiến sĩ
đã nói lên quyết tâm sắt đá của toàn thể nhân dân nước Việt anh hùng
*Đánh giá về Trần Quốc Tuấn
19
Qua Hịch tướng Sĩ chúng ta biết được tấm lòng yêu nước nông nhiệt
của vị anh hùng Sát Thát .Câu nói tràn đầy sức cảm hoá.
"Ta thường tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối , ruột đau như cắt,nước
mắt đầm đìa, chỉ giận không được lột da nuốt gan uống máu quân thù ,
dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ , nghìn xác này gói trong da
ngựa ta cũng cam lòng"
Bài Hịch là một lời thiết tha kêu gọi binh sĩ , khơi sâu lòng căm thù địch
kích động ý chí chiến đấu thổi bùng ngọn lửa yêu nước.
Bài Hịch mở đầu một truyền thống rèn luyện tư tưởng trong quân đội
thành một yếu tố lớn của mọi cuộc chiến thắng.Họ dân đông , quân
nhiều , của lắm .Ta dân , quân , của đều ít tất phải cậy ở sức mạnh tinh
thần , ở lòng yêu nước của nhân dân ở tài thao lược của tướng sĩ .ở sự
đoàn kết nhất trí và đàu óc sáng tạo của tập đoàn lãnh đạo quốc gia và
Trần Quốc Tuấn là bậc vĩ nhân tiêu biểu cho các giá trị ấy của dân tộc,
ông đặt lợi ích của nước lên trên hết và thực hiện yêu cầu lịch sử "vua tôi
đồng lòng, anh em hoà thuận"
Trần Quốc Tuấn xem trọng tình thương yêu khăng khít khiến trên dưới
một lòng như cha con như ruột thịt .Với tinh thần đó khiến cho Mông
Nguyên liên tiếp ba phen đại bại không còn có thể đổ rằng vì rủi mà
thua.
Đại Việt liên tiếp ba lần tiêu diệt Mông Nguyên.Trong cuộc chiến thắng
lẫm liệt có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế này thì Trần Quốc Tuấn
là vị anh hùng của các bậc anh hùng, còn bài Hịch tướng sĩ là cái mốc
đánh dấu cuộc chuyển biến tư tưởng tiền đề của chiến thắng lẫm liệt đó.
2.Bình Ngô đại cáo.
Là bản lịch sử tóm tắt 10 năm kháng chiến để toàn dân ghi nhớ chặng
đường và những thành tích của khởi nghĩa Lam Sơn hiểu rõ ý nghĩa và
tầm quan trọng của cuộc chiến thắng, thấm nhuần công đức và tư tưởng
20
- Xem thêm -