CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN VÀ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
NGUYỄN NGỌC HÙNG
Bộ môn Thuế - Khoa Tài chính công
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
Tóm tắt
Trong bài viết này, tác giả nghiên cứu về xu hướng cải cách chính sách thuế quan trong tiến trình
tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế. Nghiên cứu cho thấy tự do hóa thương mại có
lợi cho tăng trưởng kinh tế, và cải cách chính sách thuế quan là một yêu cầu cấp bách. Chính sách
thuế quan của các quốc gia đang có xu hướng ngày càng hội nhập với các quốc gia khác trên phạm
vi toàn thế giới. Xu hướng cải cách thuế quan đang theo xu hướng loại bỏ dần và thay thế thuế
quan, tạo sự minh bạch trong chính sách. Bài viết cũng đã nghiên cứu về thực trạng chính sách
thuế quan và tự do hóa thượng mại ở Việt Nam, đã rút ra được những thành tựu và hạn chế. Qua
đó, bài viết cũng đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách thuế quan trong bối cảnh tự do hóa
thương mại ở Việt Nam thời gian tới.
Từ khóa: Chính sách thuế quan, tự do hóa thương mại, hội nhập, kinh tế quốc tế.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong thế giới hiện đại, hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại đã trở thành một xu thế nổi
bật, một quá trình phát triển tất yếu của xã hội loài người. Quá trình này đang diễn ra với quy mô
ngày càng lớn, tốc độ ngày càng cao trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới. Sự ra
đời của các liên kết kinh tế thương mại khu vực, các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song
phương và đặc biệt là sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã làm sâu sắc thêm xu
thế tự do hóa thương mại. Tuy nhiên, một quốc gia phát triển về trình độ khoa học công nghệ,
mạnh về sản xuất và xuất khẩu, có lợi thế cạnh tranh, họ sẽ có ưu thế. Trong khi một số quốc gia
khác kém phát triển, năng lực cạnh tranh kém họ sẽ mất ưu thế khi thực hiện thương mại tự do.
Chính sự không công bằng này bắt buộc họ phải lựa chọn các biện pháp nhằm hạn chế thương mại.
Về mặt lịch sử thuế nhập khẩu là một hình thức hạn chế ngoại thương quan trọng nhất. Ngày nay,
có nhiều loại rào cản thương mại khác (phi thuế quan) như: hạn ngạch nhập khẩu, các rào cản kỹ
thuật, các biện pháp quản lý hành chính, các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời… Một quốc gia
-1-
luôn đứng trước 2 sự lựa chọn: Gỡ bỏ các hàng rào mậu dịch để tự do hóa thương mại hay duy trì
các rào cản để tiếp tục chính sách bảo hộ, hay họ phải cải cách chính sách thuế theo khuynh hướng
nào?
Tại Việt Nam, năm 1986, lần đầu tiên sau ngày thống nhất đất nước, Chính phủ Việt Nam thông
qua một chiến lược cải cách kinh tế tổng thể gọi là "Đổi Mới” nhằm chuyển đổi sang nền kinh tế
theo định hướng thị trường. Việt Nam đã tiến hành thực hiện nhiều chính sách để tái hội nhập kinh
tế khu vực và quốc tế. Đến năm 2015, sau hơn 29 năm hội nhập, về quan hệ hợp tác song phương,
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ
thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên
90 Hiệp định thương mại song phương với các nước và các tổ chức quốc tế (đáng kể nhất, vào
ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO). Điều này cho thấy
Việt Nam cũng đang mạnh mẽ tiến hành tự do hoá thương mại và mở cửa thị trường. Để đáp ứng
các nghĩa vụ thành viên của các tổ chức trên, Việt Nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các
cam kết (bao gồm: sửa đổi gần như toàn bộ các quy định pháp luật về thương mại đầu tư) và tích
cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức này. Một vấn đề bức xúc đang đặt ra hiện
nay là thực trạng chính sách thuế quan và quá trình tự do hóa thương mại của Việt Nam hiện nay
đang như thế nào? Hướng hoàn thiện ra sao? Đây cũng là nội dung chính mà bài viết muốn làm rõ.
2. XU HƯỚNG CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN VÀ TỰ DO HÓA THƯƠNG
MẠI Ở CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI.
Quá trình quốc tế hóa đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng cao trong tất cả
các lĩnh vực, theo đó sự phát triển của các liên kết kinh tế thương mại khu vực như: Liên minh
châu Âu (EU), ASEAN, NAFTA, APEC, và các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương
đang làm sâu sắc thêm xu thế tự do hóa thương mại. Biểu hiện lớn nhất của tự hóa thương mại toàn
cầu là sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO (World Trade Organization) vào ngày
01/01/1995. Tổ chức này kế thừa và phát triển các quy định và thực tiễn thực thi Hiệp định chung
về Thương mại và Thuế quan - GATT 1947 (chỉ giới hạn ở thương mại hàng hoá) và là kết quả trực
tiếp của Vòng đàm phán Uruguay (bao trùm các lĩnh vực thương mại hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí
tuệ và đầu tư). Tính đến tháng 03/2013 tổ chức này đã có 159 thành viên so với 193 quốc gia trên
toàn thế giới. WTO đang điều chỉnh 95% - 98% các hoạt động thương mại của thế giới. Điều này
-2-
cho thấy xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại đang ngày càng trở thành xu
thế nổi bật, một quá trình phát triển tất yếu của xã hội loài người. Tổ chức Thương mại Thế giới
WTO ra đời với mục tiêu thiết lập và duy trì một nền thương mại toàn cầu tự do, thuận lợi và minh
bạch bằng cách loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại, trong
đó quan trọng nhất là cắt giảm thuế xuất nhập khẩu hay thuế quan.
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy có một mối liên hệ rất rõ ràng giữa thương mại và tăng trường
kinh tế, theo đó, cơ chế thương mại mở là có lợi nhất cho tăng trưởng:
+ Các thành tựu phát triển gần đây nhờ vào tăng trưởng xuất khẩu và cản trở đối với tăng trưởng
chủ yếu là từ các yếu tố trong nước. Do đó cần cải cách đơn phương mặc dù việc này sẽ không dỡ
bỏ tất cả các rào cản trong nước đối với tăng trưởng.
+ Tự do hóa thương mại, tự do hóa đa phương tạo động lực và hỗ trợ cải cách (trong đó thuế là một
thành phần không thể thiếu trong cải cách kinh tế để tiến tới tự do hóa thương mại).
Như vậy, tự do hóa thương mại hay chính sách thương mại mở có lợi cho tăng trưởng kinh tế, và
cải cách chính sách thuế là một yêu cầu cấp bách.
Gỡ bỏ các hàng rào mậu dịch: cải cách chính sách thuế (thuế quan và phi thuế quan), hoặc giảm
bớt các hàng rào mậu dịch tiến đến tự do hóa thương mại:
+ Giảm bớt các hàng rào mậu dịch, kết quả là chi phí sản xuất giảm, giá hàng hoá thành phẩm và
dịch vụ giảm và cuối cùng là chi phí cuộc sống thấp hơn.
+ Giảm bớt hàng rào thương mại cho phép thương mại tăng trưởng, kích thích tăng trưởng kinh tế
tạo ra việc làm.
+ Giảm bớt các hàng rào mậu dịch, đem đến cho người tiêu dùng nhiều lựa chọn hơn, và phạm vi
chất lượng rộng hơn để lựa chọn, chất lượng của hàng sản xuất nội địa có thể nâng lên do chính sự
cạnh tranh từ hàng nhập khẩu.
Duy trì các rào cản, “đóng cửa, thu mình” với chính sách bảo hộ nhằm:
+ Về mặt kinh tế: bảo hộ để bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ, đem lại lợi ích cho các nhà sản xuất
trong nước, tạo nguồn thu ngân sách của chính phủ.
+ Về mặt chính trị: bảo vệ việc làm và ngành công nghiệp, bảo vệ an ninh quốc gia và cuối cùng là
trả đũa.
-3-
Một quốc gia phát triển về trình độ khoa học công nghệ, mạnh về sản xuất và xuất khẩu, có lợi thế
cạnh tranh, họ sẽ có ưu thế. Trong khi một số quốc giá khác kém phát triển, năng lực cạnh tranh
kém họ sẽ mất ưu thế khi thực hiện thương mại tự do. Chính sự không công bằng này bắt buộc họ
phải lựa chọn các biện pháp nhằm hạn chế thương mại. Theo đó, những hạn chế thương mại
thường được thiết kế hướng đến phúc lợi quốc gia, nhưng trên thực tế chúng thường được cổ vũ
bởi những nhóm đặc biệt thụ hưởng lợi ích từ những hạn chế này (bảo hộ một ngành sản xuất nào
đó).
Chính sách thuế quan của các quốc gia đang có xu hướng ngày càng hội nhập với các quốc gia
khác trên phạm vi toàn thế giới. Xu hướng cải cách thuế quan đang theo xu hướng loại bỏ dần và
thay thế thuế quan, tạo sự minh bạch trong chính sách:
+ Thiết lập các hàng rào phi thuế quan: hạn ngạch nhập khẩu (quotas), các rào cản kỹ thuật, các
biện pháp liên quan đến đầu tư… (cũng đang dần được hạn chế).
+ Đánh thuế nội địa đối với các mặt hàng nhập khẩu bao gồm thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ
đặt biệt …
3. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN VÀ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM
3.1.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Năm 1986, tại Đại hội Đảng VI, Chính phủ Việt Nam thông qua một chiến lược cải cách kinh tế
tổng thể gọi là "Đổi Mới” nhằm chuyển đổi sang nền kinh tế theo định hướng thị trường. Trong lộ
trình này, Việt Nam đã tiến hành tự do hóa thương mại, phá giá đồng nội tệ để hỗ trợ xuất khẩu, bắt
tay thực hiện một chính sách tái hội nhập.
Năm 1987: Công bố Luật đầu tư; bên cạnh đó, các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi
cho người nước ngoài và Việt Kiều về nước kinh doanh.
Năm 1991: Đại hội Đảng VII thông qua cương lĩnh của Đảng về chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 10 năm (1991-2000), đưa ra tư tưởng: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
-4-
Năm 1993: Việt Nam thiết lập quan hệ bình thường với các tổ chức quốc tế như: Ngân hàng phát
triển Châu Á (ADB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) và mở rộng quan hệ với
các tổ chức hợp tác trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Tháng 12/1994, Việt Nam gởi đơn xin gia nhập WTO, đến tháng 1/1995 WTO chính thức nhận
đơn gia nhập của Việt Nam để tiến hành đàm phán cụ thể.
Tháng 7/1995, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức
tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 01/01/1996. Đây được coi là một bước đột
phá trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Tháng 6/1996, Đại Hội Đảng VIII tiếp tục khẳng định chủ trương: xây dựng một nền kinh tế mở
và đẩy nhanh quá trình hội nhập.
Tháng 6/1996, Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), đồng thời gởi đơn
xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)
Tháng 11/1998, Việt Nam được kết nạp vào APEC.
Năm 2000, Việt Nam ký hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ.
Năm 2001, Đại hội Đảng IX tái khẳng định: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam chủ động hội nhập theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Ngày 11 tháng 01 năm 2007, sau 11 năm đàm phán, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
3.2.
Thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển; với chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế
trên nhiều lĩnh vực. Đến năm 2014, sau 28 năm, tổng kết lại quá trình hội nhập, Việt Nam đã đạt
được một số thành tựu:
Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia
trên thế giới, đặc biệt là có quan hệ tốt với tất cả các nước lớn. Trong đó có 5 nước thường trực Hội
-5-
đồng Bảo an Liên hợp quốc; các nước trong nhóm G8; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với
Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại diện
của Việt Nam ở nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán…
Về hợp tác đa phương và khu vực, Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính
tiền tệ quốc tế: ADB, IMF, WB. Việt Nam cũng tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực
và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương như: ASEAN, ASEM, APEC.
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng khi Việt
Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng
01 năm 2006 sau 11 năm đàm phán gia nhập tổ chức này.
Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN, APEC, Việt Nam
đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích cực tham gia các hoạt động trong
khuôn khổ các tổ chức này. Cụ thể như sau:
* Trong khuôn khổ WTO:
- Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách thương mại theo
hướng minh bạch và tự do hóa hơn, việc cải cách này thể hiện ở các cam kết đa phương về pháp
luật và thể chế cũng như các cam kết mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ.
- Việt Nam đã thực hiện đúng các cam kết đa phương và các cam kết mở cửa thị trường
hàng hoá, dịch vụ cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt
qua thách thức trong giai đoạn ta hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
- Là thành viên của WTO, ta đã cố gắng tham gia tích cực các cuộc đàm phán trong khuôn
khổ WTO ở các nội dung có liên quan đến Việt Nam có liên quan đến Việt Nam như nông nghiệp,
công nghiệp, sở hữu trí tuệ, trợ cấp thủy sản và chương trình hỗ trợ thương mại của WTO…..
- Việt Nam đã tích cực thực hiện các phiên rà soát chính sách thương mại của Việt Nam.
* Trong khuôn khổ ASEAN
- Mối quan hệ hợp tác khu vực giữa Việt Nam với ASEAN ngày càng phát triển toàn diện và
có tác động sâu sắc tới đời sống kinh tế, xã hội và chính trị của Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế
của Việt Nam trên các diễn đàn hợp tác khu vực và thế giới. Đối với Việt Nam, ASEAN luôn là
-6-
đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất (riêng năm 2009, ASEAN là nhà đầu tư lớn thứ 2 của Việt
Nam, sau Hoa Kỳ).
- Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng nhằm xây dựng Cộng đồng ASEAN vào
năm 2015 đã đóng góp thiết thực cho việc cải thiện môi trường luật pháp trong nước, tạo thuận lợi
cho sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, làm tiền đề
giúp Việt Nam tham gia các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương khác.
- Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Chủ tịch luân phiên của ASEAN vào năm 2010,
trong năm 2011, Việt Nam đã tích cực tham gia các chương trình hợp tác nhằm thực hiện Cộng
đồng ASEAN vào năm 2015. Cho tới nay, Việt Nam là một trong số các nước có tỷ lệ thực hiện
cao các biện pháp và sáng kiến đề ra trong Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế
ASEAN.
* Trong khuôn khổ APEC
- Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan trọng. APEC là khu vực dành
viện trợ phát triển lớn nhất, chiếm tới 65% tổng số vốn đầu tư nước ngoài, 60% giá trị xuất khẩu,
80% giá trị nhập khẩu, và 75% tổng số khách du lịch quốc tế tới Việt Nam. Hầu hết các đối tác
chiến lược quan trọng và các đối tác kinh tế - thương mại hàng đầu của ta là các nền kinh tế thành
viên của APEC.
- Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC năm 1998, Việt Nam đã
thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của APEC như Báo cáo về Chương trình Hành động
Quốc gia hàng năm, thực hiện Chương trình Hành động tập thể, các kế hoạch hợp tác về thuận lợi
hoá thương mại, đầu tư... Ta cũng đảm nhận vị trí Chủ tịch và điều hành nhiều Nhóm công tác
quan trọng như Nhóm Công tác Y tế nhiệm kỳ 2009 - 2010, Nhóm công tác về Đối phó với tình
trạng khẩn cấp, Nhóm công tác về thương mại điện tử… Việt Nam đã triển khai thành công hơn 60
sáng kiến, đồng bảo trợ hàng trăm sáng kiến trên hầu hết các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác
kinh tế kỹ thuật, y tế, đối phó với thiên tai, chống khủng bố... Việt Nam đã được đánh giá là một
trong những thành viên năng động, đã có nhiều sự đóng góp tích cực cho Diễn đàn APEC.
* Trong khuôn khổ ASEM
-7-
- Là diễn đàn đại diện hơn 60% dân số thế giới và đóng góp hơn 50% tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) toàn cầu, ASEM không chỉ là cầu nối cho quan hệ đối tác mới giữa hai châu lục Á-Âu
mà còn hướng tới mục tiêu đem lại những đóng góp thiết thực cho hòa bình, hợp tác và phát triển
trên thế giới.
- Việt Nam đã tích cực đề xuất và triển khai nhiều sáng kiến, hoạt động của ASEM, nổi bật
là việc tổ chức thành công nhiều hội thảo quan trọng như "Hội thảo về tăng cường hình ảnh ASEM
thông qua các hoạt động văn hóa", "Hội thảo ASEM về vượt qua khủng hoảng- định hình sự phát
triển bền vững", "Diễn đàn ASEM về an ninh lương thực", "Diễn đàn ASEM về biến đổi khí hậu",
"Diễn đàn ASEM về lưới an toàn xã hội", Diễn đàn Á – Âu (ASEM) về tăng trưởng xanh với chủ
đề: “Cùng hành động hướng tới các nền kinh tế xanh tăng”…
Về các Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong những năm gần đây thế giới đang được chứng
kiến sự gia tăng nhanh chóng của các Hiệp định thương mại tự do (FTA) để thiết lập các Khu vực
thương mại tự do. Việt Nam đã được khởi động và triển khai đàm phán và ký kết các FTA. Đến
nay, Việt Nam đã tham gia thiết lập FTA với 15 nước trong khung khổ của 6 FTA khu vực, bao
gồm:
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) được thiết lập bởi Hiệp định ưu đãi thuế
quan có hiệu lực chung từ năm 1996; mở rộng sang lĩnh vực đầu tư bởi Hiệp định khu vực đầu tư
ASEAN (AIA) từ năm 1998 sau đó được thay thế bằng Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN
(ACIA).
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc được thiết lập bởi Hiệp định khung về
hợp tác kinh tế quốc tế ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) năm 2002 và Hiệp định thương mại hàng
hoá ASEAN – Trung Quốc (ACTIG) năm 2004, thực hiện từ 1/7/2005; riêng Việt Nam còn được
điều chỉnh bởi Biên bản ghi nhớ Việt Nam – Trung Quốc (tháng 7/2005).
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN- Hàn Quốc được thiết lập bởi Hiệp định hàng hoá
ASEAN-Hàn Quốc (AKTIG) ký tháng 8 năm 2006, thực hiện từ 1/6/2007. Khu vực thương mại tự
do ASEAN – Nhật Bản được thiết lập bởi Hiệp định đối tác Kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản
(AJCEP) ký kết năm 2003, thực hiện từ năm 1998, riêng Việt Nam còn được điều chỉnh bởi Hiệp
định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) năm 2008; thực hiện từ 1/1/2009.
-8-
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN – Úc và Niu Dilân được thiết lập bởi Hiệp định
thương mại tự do và quan hệ kinh tế thân thiện toàn diện ASEAN – Úc và Niu Dilân
(AANZCERFTA), ký kết từ tháng 2/2009, thực hiện từ 1/1/2010.
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN - Ấn độ bước đầu hình thành và thiết lập bởi Hiệp
định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Ấn độ (AICECA) ký năm 2003 và Hiệp định
thương mại hàng hoá ASEAN - Ấn độ (AITIG) ký kết năm 2009, thực hiện từ 01/06 năm 2010.
Ngoài việc ký kết và tham gia các Hiệp định Thương mại tự do với tư cách là thành viên khối
ASEAN thì Hiệp định Thương mại tự do đầu tiên mà Việt Nam ký kết với tư cách là một bên độc
lập là Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (2008), tiếp đó là Hiệp định Thương mại tự
do Việt Nam – Chile (2011). Hiện Việt Nam đang nghiên cứu và triển khai đàm phán FTA với một
số đối tác như EFTA (bao gồm 4 nước là Thụy Sỹ, Na Uy, Liechtenstein và Iceland), Liên minh
Hải quan (bao gồm 3 nước là Nga, Belarus và Kazakhstan), EU, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ... Đáng
chú ý:
+ Việt Nam và EU chính thức tuyên bố khởi động đàm phán vào tháng 6/2012, cho đến nay
FTA Việt Nam – EU đã trải qua hai vòng đàm phán và đã đạt được một số kết quả ban đầu nhất
định.
+ Việt Nam cũng đã chính thức tham gia vào đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược
xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ tháng 11/2010. TPP – một Hiệp định thương mại tự do giữa 12
nước hai bờ Thái Bình Dương, bao gồm Việt Nam, Brunei, Singapore, Malaysia, Chile, Úc, New
Zealand, Peru, Mexico, Canada và Hoa Kỳ, Nhật Bản. TPP sẽ giúp tạo ra một thị trường với
khoảng 790 triệu dân, GDP khoảng 27 tỷ đô la Mỹ và chiếm khoảng một phần ba kim ngạch
thương mại thế toàn cầu. Đến tháng 7/2013, TPP đã trải qua 18 vòng đàm phán. Đây sẽ là một FTA
toàn diện tiêu chuẩn cao của thế kỷ 21.
Trong lĩnh vực thương mại, thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, Việt Nam xuất khẩu
hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ. Cơ cấu thị trường xuất, nhập khẩu
đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần lệ thuộc vào thị trường Châu Á. Ký kết trên 90 Hiệp
định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định
chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các
tổ chức quốc tế. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên, một số mặt hàng xuất khẩu có vị trí cao trên
-9-
thị trường thế giới. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc
tế được cải thiện đáng kể.
3.3.
Quá trình cải cách chính sách thuế quan tại Việt Nam
Trong bối cảnh kinh tế thế giới phát triển theo xu hướng tự do hóa và hội nhập thì pháp luật của
Việt Nam về thuế quan đang có nhiều cải cách và đang thay đổi theo từng thời kỳ. Điều này làm
cho thuế quan của Việt Nam ngày càng hội nhập với các quốc gia khác trong khu vực và trên phạm
vi toàn thế giới.
Năm 1987, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch.
Đối tượng điều chỉnh là tất cả hàng hoá mua bán, trao đổi với nước ngoài, khi xuất khẩu hoặc nhập
khẩu qua biên giới Việt Nam.
Năm 1991, 1993, 1998 Quốc hội tiếp tục ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu của các năm trước đó cho phù hợp với tình hình kinh tế chính trị của
từng giai đoạn lịch sử. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày càng có phạm vi điều chỉnh rộng
hơn so với Luật ban hành các năm trước đó.
Năm 2005, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật số 45/2005/QH11. Đây là bộ luật
được xem là có nhiều thay đổi nhất để phù hợp với thông lệ quốc tế khi Việt Nam đã và đang hội
nhập sâu với nền kinh tế thế giới và tham gia và ký kết nhiều cam kết, hiệp định quốc tế, đặt biệt là
tiền đề để Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO (ngày 7/11/2006).
Các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu:
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005.
Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 06/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu.
Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu.
Một số Thông tư hướng dẫn Bộ Tài Chính, Bộ Thương Mại, hướng dẫn thi hành thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu.
- 10 -
3.4.
Thực trạng nguồn thu thuế quan ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nguồn thu từ thuế luôn chiếm từ 85% đến hơn 90% trên tổng thu ngân sách nhà nước
trong giai đoạn gần đây (trung bình là 85.9% trong giai đoạn 2000-2012).
Thực trạng thu thuế Xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn từ 2000 – 2012 như sau:
+ Nguồn thu từ hải quan luôn chiếm từ 15% đến 25% trong tổng nguồn thu ngân sách (trung bình
là 21% trong giai đoạn 13 năm từ 2000-2012), ngoài ra nguồn thu từ hải quan cũng chiếm từ 20%
đến 30% trong tổng các nguồn thu từ thuế trong giai đoạn này (trung bình là 24.4% từ 2000-2012).
(xem phụ lục 1 và hình 1)
+ Trong nguồn thu từ hải quan thì thuế xuất nhập khẩu, thuế TTĐB hàng nhập khẩu và thu
chênh lệch giá hàng nhập khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn và gần như gấp đôi so với nguồn thu từ
thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu. Trung bình trong giai đoạn 2000 đến 2013, tỷ trọng của
nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu, thuế TTĐB hàng nhập khẩu và thu chênh lệch giá hàng nhập
khẩu luôn ở mức 64.3% trong tổng nguồn thu từ hải quan, trong khi nguồn thu từ thuế giá trị gia
tăng hàng nhập khẩu chỉ chiếm 35.7%. Tuy nhiên, trong 4 năm trở lại đây, tỷ trọng này đang giảm
dần và có sự dịch chuyển qua nguồn thu từ thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu. (xem phụ lục 2 và
hình 2)
Từ năm 2007 đến nay, kể từ khi Việt Nam gia nhậpWTO, do phải thực hiện cam kết cắt giảm thuế
xuất nhập khẩu theo lộ trình hội nhập:
+ Tỷ lệ thu từ thuế nhập khẩu trong tổng thu thuế giảm từ 8.2% xuống 5.5%, Tỷ lệ thu từ thuế
xuất khẩu tăng từ 1.8% lên 2.5%.
+ Do các mặt hàng được giảm thuế sẽ có lượng nhập khẩu nhiều hơn nên việc thu thuế nhập khẩu
sẽ gia tăng, bên cạnh đó, chính phủ cũng tăng nguồn thu từ thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặt
biệt hàng nhập khẩu sẽ bù đắp lại phần giảm trong thu thuế nhập khẩu. Bên cạnh đó, việc hội nhập
cũng đem lại nhiều thuận lợi hơn trong xuất khẩu do thị trường được mở rộng.
Như vậy, thuế Xuất nhập khẩu vẫn là nguồn thu ngân sách quan trọng của chính phủ Việt Nam.
Hình 1: Thực trạng thuế xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn từ năm 2000- 2012
- 11 -
Hình 2: Tỷ trọng và cơ cấu thuế xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2000-2012
- 12 -
Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang tiếp tục nỗ lực thực
hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế với mức độ tự do hoá sâu rộng và
tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức này. Theo đó, trong xu hướng tự do
hoá thương mại, Việt Nam tiến hành các phiên đàm phán với các cam kết về đổi mới chính sách,
đáng kể nhất là chính sách thuế quan, cụ thể như sau:
a. Các cam kết trong khuôn khổ WTO
Toàn bộ các cam kết về thuế quan của Việt Nam trong WTO được thể hiện trong Biểu cam kết về
Hàng hoá của Việt nam: ( xem phụ lục 3)
Số dòng thuế có cam kết: toàn bộ Biểu thuế (10,600 dòng).
Số dòng thuế cam kết giảm: khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của biểu thuế).
Số dòng thuế giữ ở mức thuế hiện hành (cam kết không tăng thêm): khoảng 3,700 dòng
(chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế).
Số dòng thuế ràng buộc theo mức thuế trần (cao hơn mức thuế suất hiện hành): 3,170 dòng
thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế).
Trong đó:
Mức giảm thuế bình quân toàn Biểu thuế: khoảng 23% so với mức thuế bình quân hiện hành
(thuế suất MFN) của biểu thuế (từ mức là 17.4% năm 2006 xuống còn 13.4%, thực hiện dần
trong vòng 5-7 năm.
Nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá,
gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện – điện tử, thịt (lợn, bò) phụ phẩm.
Số dòng thuế ràng buộc theo mức thuế trần chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu,
kim loại, hoá chất, một số phương tiện vận tải.
Nếu so sánh với các nước trong khu vực:
Mức thuế MFN ràng buộc trung bình Việt Nam < hầu hết các nước ASEAN.
Bảo hộ thuế quan MFN áp dụng < hầu hết các nước ASEAN.
Độ phân tán của mức thuế suất MFN áp dụng > hầu hết các nước ASEAN.
“Các mức đỉnh thuế quan" > tất cả các nước ASEAN.
Tỷ lệ cụ thể < hầu hết các nước ASEAN.
Các dòng thuế miễn thuế < Brunei, Malaysia và Singapore.
- 13 -
b. Cam kết thuế quan của Việt Nam trong các FTA khu vực
Về mức độ tự do hoá: cơ bản là cao hơn mức cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Trong đó,
khoảng 90% số dòng thuế (tính theo dòng thuế của kim ngạch nhập khẩu) với khung thời gian thực
hiện cắt giảm xuống 0% trong vòng 10 năm, có một số ít tỉ lệ dòng thuế được phép linh hoạt trong
khoảng thời gian kéo dài thêm 2 – 6 năm; Trong đó, mức độ tự do hoá trong cam kết khu vực
ASEAN (AFTA/CEPT/ATIGTA) cao nhất (99 dòng thuế 8 số), thấp nhất là trong cam kết với Ấn
Độ (AIFTA/AITIG) (80 dòng thuế 6 số) và trong cam kết với Nhật Bản (AJCEP) (88.6% dòng
thuế 10 số).
Về lộ trình cắt giảm thuế:
Với cam kết khu vực ASEAN (AFTA), ASEAN– Trung Quốc (ACFTA) và ASEAN– Hàn Quốc
(AKFTA) việc giảm thuế sẽ được thực hiện theo lộ trình quy định cho các bước giảm thuế hàng
năm (AFTA: 1996 – 2006 – 2015 – 2018, AKFTA: 2007 – 2016 – 2018).
Mô hình giảm thuế đối với các FTA còn lại (ASIAN– Nhật Bản: AJCEP; ASIAN– Ấn Độ:
AIFTA; ASIAN– Australia và New Zealand: AANZFTA; Việt Nam– Nhật Bản: VJEPA) sẽ cắt
giảm dần đều từng năm để đạt mức thuế suất cuối cùng theo cam kết. (AJCEP: 2008 – 2018 –
2024, VJEPA: 2009 – 2019 – 2015, AANZFTA: 2010 – 2018 – 2020, và AIFTA: 2010 – 2018 –
2021).
c. Cam kết thuế quan của Việt Nam trong FTA Việt Nam – Chi Lê
Việt Nam cam kết xoá bỏ thuế quan đối với 87,8% số dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu hiện
hành (chiếm 91,22% kim ngạch nhập khẩu từ Chi lê sang Việt Nam năm 2007) trong vòng 15 năm.
Trong 12,2% số dòng thuế còn lại có 4,08% số dòng thuế thuộc danh mục loại trừ (không tham gia
giảm, xoá bỏ thuế), 3,37% số dòng thuế được giữ nguyên thuế suất cơ sở và 4,75% số dòng thuế
được giảm thuế một phần.
d. Các đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
Việt Nam chính thức tham gia vào đàm phán TPP từ tháng 11/2010. Thời hạn chót mà các bên đã
nhất trí phải hoàn tất việc đàm phán là đến tháng 10/2013. Hiện tại TPP đã đi qua 19 vòng đàm
phán, các nhóm đàm phán đã thảo luận nhiều lĩnh vực, trong đó có mở cửa thị trường hàng hóa,
quy tắc xuất xứ, hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Với lĩnh vực mở cửa thị trường đối với các
- 14 -
sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp và dệt may (đề xuất xóa bỏ thuế), các nước đã thống nhất một
chương trình làm việc cụ thể để thúc đẩy đàm phán, hướng tới mục tiêu tự do hóa một cách toàn
diện.
Tóm lại, khi việt Nam tham gia ngày càng sâu hơn vào quá trình hội nhập và tự do hóa thương mại
thì các biện pháp bảo hộ sẽ bị cắt giảm trong thời gian kéo dài từ 5-7 năm sau khi gia nhập WTO
và 10-12 năm theo các cam kết trong các hiệp định tự do hoá thương mại (FTA). Điều này sẽ có
ảnh hưởng đáng kể tới sản xuất trong nước nếu không có những biện pháp điều chỉnh vì các nước
đối tác đều có thế mạnh về sản xuất và xuất khẩu. Mặt khác, việc giảm thuế nhập khẩu theo cam
kết sẽ làm giảm nguồn thu từ hải quan và thậm chí nguồn thu thuế từ các doanh nghiệp nhà nước
sẽ bị ảnh hưởng mạnh do tác động của cạnh tranh quốc tế và quá trình cải cách doanh nghiệp. Tuy
nhiên, mức giảm thu từ thuế nhập khẩu có thể được bù trừ một phần bởi số tăng thu từ thuế giá trị
gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hoá nhập khẩu và các nguồn thu nội địa khác. Bên
cạnh đó,tự do hóa thương mại đồng nghĩa với việc giảm hàng rào thuế quan đã làm cho hàng hóa
các nước có cơ hội tràn vào Việt Nam với mức giá cạnh tranh nên người tiêu dùng có cơ hội lựa
chọn hàng hóa tốt với mức giá rẻ.
4. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN TRONG BỐI CẢNH
TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Việt Nam tham gia các khu vực thương mại tự do, các diễn đàn hợp tác kinh tế và đặt biệt là WTO
và đang ở giai đoạn đầu tiên trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới và do đó còn nhiều vấn
đề phải xem xét để các quy định về thuế xuất, nhập khẩu vừa áp dụng hiệu quả trên thực tế, vừa
đảm bảo nguồn thu ngân sách chính phủ, vừa bảo hộ được ngành sản xuất trong nước, vừa đảm
bảo sự tuân thủ đầy đủ của Việt Nam trong quá trình thực thi các cam kết. Trong bối cảnh vừa phải
chịu sức ép từ chính sách cải cách kinh tế, Việt Nam cần một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật
thương mại nói chung và pháp luật đối với thuế xuất khẩu, nhập khẩu nói riêng.
4.1. Cần loại bỏ dần và thay thế thuế quan, tạo sự minh bạch.
-
Thuế quan cần phải thống nhất trong ngắn hạn; cải thiện sự gắn kết trong chính sách
thuế; chuyển thuế suất cụ thể sang thuế suất tính theo giá trị.
-
Sẽ loại bỏ dần thuế quan và thay thế bằng thuế nội địa: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị
gia tăng, hoặc các công cụ chính sách thay thế hiệu quả hơn.
- 15 -
-
Minh bạch trong chính sách thuế, tại Việt Nam, các chính sách thuế được hoạch định trên
cơ sở hầu như không minh bạch:
Thiếu dữ liệu quan trọng (nhất là nguồn thu thuế bị bỏ lỡ)
Thiếu các chỉ số chính (thuế nhập khẩu danh nghĩa, ERPs, ERAs, METRs)
Các biện pháp thuế (hoặc PTA) chưa được, hoặc ít được đánh giá kỹ lưỡng
Minh bạch đòi hỏi bốn yếu tố chính:
Mô tả về các chính sách và biện pháp (gì?).
Lý do hay mục tiêu của chính sách (tại sao?).
Chi phí - thuế bị bỏ qua hoặc chi tiêu (bao nhiêu?).
+ Đánh giá hiệu quả trong việc đạt được mục tiêu (phân tích chi phí-lợi ích).
4.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến thuế xuất nhập khẩu. Xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật để nội luật hóa các điều ước quốc tế, thực hiện cam kết quốc tế của Việt
Nam về thuế xuất nhập khẩu.
4.3. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý điều hành công tác thuế xuất nhập khẩu. Chú
trọng khâu tuyển dụng, Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ quản lý nhà nước, trình độ chuyên
môn đối với đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực thuế xuất nhập khẩu.
4.4. Hoàn thiện hệ thống cơ quan nhà nước tham gia quản lý, điều hành hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu. Giảm thiểu những biện pháp quản lý mang tính chất hành chính.
4.5. Nâng cao ý thức pháp luật cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu. Tăng
cường thông tin cho doanh nghiệp về chính sách, pháp luật, Tăng cường các biện pháp quản lý chặt
chẽ đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.
5. KẾT LUẬN
Tự do hóa thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trào lưu, một xu thế tất yếu của
thời đại. Dòng chảy hàng hóa trong thương mại giữa các nước ngày càng gia tăng khi mà thương
mại tự do đã mang lại những lợi ích đáng kể cho nền kinh tế thế giới hiện đại. Trong bối cảnh đó
thì chính sách thuế quan của các nước ngày càng có xu thế hội nhập với các quốc gia khác trong
khu vực và trên phạm vi toàn thế giới. Các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực liên tục được
thành lập và mở rộng về số lượng thành viên. Các Hiệp định thương mại tự do cũng được ký kết.
Điều này đã góp phần thúc đẩy việc dỡ bỏ tất cả các rào cản thương mại và cải cách chính sách
thuế của một quốc gia theo xu hướng loại bỏ dần và thay thế thuế quan, tạo sự minh bạch trong
chính sách thuế. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng này với việc mạnh tay thực hiện hàng
- 16 -
loạt chính sách hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Trong thời gian qua, Việt Nam cũng đã gặt hái
nhiều thành công đáng ghi nhận. Hiện nay Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì các cam kết về cải cách
chính sách thuế quan đề hòa mình vào dòng chảy chung của nhân loại.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2015), Bài viết “Những thành tựu trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam”, http://www.mofahcm.gov.vn
2. Michael Daly, chuyên gia của IMF( 2013), Chuyên đề: “Việt Nam- Thuế Xuất nhập khẩu,
hội nhập khu vực và tăng trưởng”; Trình bày tại hội thảo của NHNN và IMF tại Hà Nội,
Ngày 18/04/2013.
3. Michael Keen and Thomas Baunsgaard (2010), “Tax Revenue and Trade
liberalization”, Journal of Public Economics.
4. Suparerk Pupongsak, (2010), “The effect of trade liberalization on taxation and government
revenue”, Ph.D. thesis, University of Birmingham.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: Thực trạng thu thuế Xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2006-2012
Đơn vị tính: Tỷ VND;
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
2011*
2012 *
Tổng thu NSNN
279,472 315,915 416,783 442,340 558,158 595,000 740,500
Tổng thu NS từ Thuế
236,331 268,594 363,019 370,033 481,262 526,329 674,920
Thu từ hải quan
42,825
60,381
90,922
105,664 130,100 138,700 153,900
Thuế XNK; Thuế
26,280
38,385
59,927
77,040
TTĐB
- 17 -
73,816
80,400
80,500
Thu CL giá hàng NK
Thuế GTGT hàng NK
16,545
21,996
30,995
28,624
56,284
58,300
73,400
Nguồn: Tổng cục thống kê, NHPT Châu Á (ADB) Bảng dự toán ngân sách của Bộ tài chính
(*) số liệu dự toán
PHỤ LỤC 2 : Tỷ trọng thuế Xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2006-2012
Đ ơn v ị tnh: ( % )
Năm
2006 2007 2008 2009 2010 2011* 2012*
% Thu NS từ Thuế so với Thu
NSNN
% Thu từ hải quan so với Thu
NSNN
% Thu từ hải quan so với Thu
Thuế
84.6
85.0
87.1
83.7
86.2
88.5
91.1
15.3
19.1
21.8
23.9
23.3
23.3
20.8
18.1
22.5
25.0
28.6
27.0
26.4
22.8
61.4
63.6
65.9
72.9
56.7
58.0
52.3
38.6
36.4
34.1
27.1
43.3
42.0
47.7
Tỷ trọng Thuế XNK; Thuế TTĐB
hàng Nhập khẩu trong Thu từ Hải
quan
Tỷ trọng Thuế giá trị gia tăng hàng
nhập khẩu trong Thu từ Hải quan
Nguồn: Tổng cục thống kê, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB).
(*) số liệu dự toán
PHỤ LỤC 3:
Mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành hàng chính
- 18 -
Thuế suất
Nhóm mặt hàng
MFN 2006
(%)
Thuế suất cam
Thuế suất cam
kết tại thời điểm
kết cắt giảm cuối
gia nhập WTO
cùng cho WTO
(%)
(%)
1. Nông sản
23.5
25.2
21.0
2. Cá, sản phẩm cá
29.3
29.1
18.0
3. Dầu khí
3.6
36.8
36.6
4. Gỗ, giấy
15.6
14.6
10.5
5. Dệt may
37.3
13.7
13.7
6. Da, cao su
18.6
19.1
14.6
7. Kim loại
8.1
14.8
11.4
8. Hóa chất
7.1
11.1
6.9
9. Thiết bị vận tải
35.3
46.9
37.4
10. Máy móc, th.bị cơ
7.1
9.2
7.3
khí
11. Máy móc, th.bị điện
12.4
13.9
9.5
12. Khoáng sản
14.4
16.1
14.1
14
12.9
10.2
17.4
17.2
13.4
13. Hàng chế tạo khác
Cả biểu thuế
Nguồn: Bộ Tài chính
- 19 -
- Xem thêm -