PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
1. Lý do khách quan:
Đất nước ta đang trong thời kỳ mở cửa giao lưu kinh tế, văn hóa với các
nước trên thế giới, nền kinh tế ngày càng phát triển nhưng cũng có không ít hạn
chế làm ảnh hưởng, tác động đến đời sống của nhân dân đặc biệt là tầng lớp thanh
thiếu niên – chủ nhân của tương lai của nước nhà. Chính vì thế, vai trò giáo dục
của nhà trường, gia đình và xã hội là rất quan trọng giúp hình thành một thế hệ trẻ
năng động, góp phần đưa nước nhà đi lên. Làm được điều đó đòi hỏi phần lớn ở
những thầy giáo, cô giáo, đặc biệt là đội ngũ giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ Văn
- người luôn truyền thụ kiến thức và hướng các em đến với cái Chân - Thiện – Mĩ,
giúp các em học sinh hiểu và suy nghĩ đúng đắn, biết cách ứng xử phù hợp với
chuẩn mực đạo đức, thái độ tốt đối với xã hội, với mọi người và ngay với chính
bản thân các em.
2. Lý do chủ quan:
Đầu tháng 11 năm 2013, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ban hành Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa XI với nội dung đổi mới căn
bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo. Mục tiêu Giáo dục được thực hiện trong đề án
là: phát triển năng lực công dân, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Thực hiện
tốt các nguyên lí “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí
luận gắn với thực tiễn, giáo dục kết hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội”.
Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang tập trung phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
Cùng với các môn học khác, với mục tiêu trang bị kiến thức cho học sinh THCS
mặt bằng tri thức và năng lực cảm thụ, phân tích tác phẩm văn chương, nhằm bồi
đắp, nâng cao nhu cầu và khả năng hưởng thụ thẩm mĩ cho học sinh cấp học này,
vấn đề đổi mới dạy học Ngữ văn cũng cần có những thay đổi căn bản nhằm đáp
ứng các mục tiêu trên.
Xuất phát từ mô hình dạy học lấy học sinh làm trung tâm, coi trọng và đề cao ý
thức chủ thể của học sinh, hướng tới mục tiêu dạy học theo quan điểm giao tiếp
gắn với thực tiễn, có thể tăng cường những câu hỏi, bài tập mang tính tình huống,
giúp học sinh phát huy được sự trải nghiệm của bản thân, tạo hứng thú và hiệu quả
cho các giờ học. Tôi đã từng được nghe đến phương pháp dạy - học văn có tên là
“Trả tác phẩm về cho học sinh” của thầy giáo Nguyễn Quang Trung trường
THPT chuyên Ngoại ngữ, Đại học quốc gia Hà Nội, từ đó tôi tham khảo, nghiên
cứu rồi đi đến vận dụng phương pháp đó nhưng điều chỉnh một ít để phù hợp với
hoàn cảnh và đặc trưng của cấp học và địa phương chúng tôi.
Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ, tôi xin được trao đổi một số vấn đề liên
quan tới phương pháp “Trả tác phẩm về cho học sinh” mà Tổ chúng tôi bước đầu
áp dụng và có những thành công nhất định trong quá trình giảng dạy phân môn
Văn học tại trường THCS Nguyễn Huệ nhằm trao đổi kinh nghiệm với đồng
nghiệp và làm kinh nghiệm cho sự nghiệp trồng người của bản thân trong những
năm tiếp theo.
II. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
1. Mục tiêu:
Chúng ta đều biết, môn Văn là môn cơ bản góp phần hình thành nhân cách
học sinh, đặc biệt đối tượng của môn Văn là những tác phẩm thơ, truyện là những
kiến thức về ngôn ngữ. Chính vì vậy, để thực hiện một giờ dạy có hiệu quả, người
giáo viên phải sử dụng nhiều phương pháp như: phân tích, diễn giảng, vấn đáp, nêu
vấn đề, gợi ý…Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THCS
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
2
Năm Học 2014-2015
tôi đi sâu nghiên cứu nội dung chương trình và qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy
rằng ước muốn dạy văn sao cho hay, học văn sao cho giỏi, viết văn sao cho tốt là
mong mỏi của rất nhiều giáo viên và học sinh. Chính vì vậy người giáo viên phải
làm mới bài giảng của mình để kích thích sự hứng thú của các em góp phần nâng
cao chất lượng học tập, giúp các em nắm được kiến thức chuẩn môn học một cách
nhẹ nhàng thông qua các bước khám phá một văn bản, góp phần giải quyết tình
trạng lười học, chán học và không biết cách học môn Ngữ Văn trong nhà trường
hiện nay, từ đó tạo điều kiện cho giáo viên hứng khởi hơn trong những giờ giảng
văn.
2. Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy để tìm ra các cách khám phá văn bản có tính thực
tế.
- Tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, thái độ, sự ham thích học văn của học sinh.
- Phân loại đối tượng học sinh, khả năng tiếp thu kiến thức cũng như trình độ kiến
thức của các em.
- Dự giờ thăm lớp để nắm kĩ đối tượng học sinh và học hỏi những kinh nghiệm về
cách tạo hứng thú trong phương pháp giảng dạy.
- Có kế hoạch trao đổi với tổ chuyên môn để áp dụng kinh nghiệm vào tiết dạy
Ngữ văn ở các khối lớp.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 9A1, 7A1, 6A1 - Trường THCS Nguyễn Huệ - Xã Ea Mnang –
Huyện CưMgar – Tỉnh Đăk Lăk.
IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Do điều kiện và thời gian có hạn nên tôi chỉ áp dụng nghiên cứu phương
pháp này ở tiết học của các lớp chọn: 9A1, 7A1, 6A1 Trường THCS Nguyễn Huệ
- Xã Ea Mnang – Huyện CưMgar – Tỉnh Đăk Lăk.
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
3
Năm Học 2014-2015
V. Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài này tôi đã chọn các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp tra cứu.
- Phương pháp quan sát thực nghiệm, phân tích sản phẩm.
- Phương pháp trò chuyện, đàm thoại .
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình.
- Phương pháp giao nhiệm vụ.
- Phương pháp đóng vai.
- Phương pháp tổng kết giáo dục.
PHẦN B: PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận của đề tài
1. Cơ sở khoa học:
“Trả
tác phẩm về cho học sinh” là một phương pháp, một tâm huyết của Tiến sĩ
Nguyễn Quang Trung và tập thể giáo viên văn trường THPT chuyên Ngoại ngữ
Đại học Quốc gia Hà Nội, mong góp phần quan trọng cải thiện tình hình dạy – học
văn trong các nhà trường hiện nay. Phương pháp này có thể được thực hiện theo
mô hình sau :
Mỗi lớp được phân công chuẩn bị tác phẩm trong khoảng thời gian từ 1, 2 tuần
đến một tháng tùy theo bài học. Học sinh được chia thành nhiều nhóm:
- Nhóm viết: có trách nhiệm soạn thảo văn bản. Đây là một công việc công phu,
đòi hỏi nhiều công sức. Các em phải tìm hiểu chung về cuộc đời và sự nghiệp của
tác giả, về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, phân tích, đánh giá về nội dung
nghệ thuật của tác phẩm.
- Nhóm kịch (hay có thể gọi là nhóm diễn): Có nhiệm vụ dàn dựng tiểu phẩm dựa
vào nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
4
Năm Học 2014-2015
- Nhóm đạo cụ: Chuẩn bị trang phục, phông màn, trang trí…cho tiết mục.
- Nhóm hội thảo: Chịu trách nhiệm về những ý kiến tranh luận và các câu hỏi
xung quanh tác giả, tác phẩm.
Mô hình chung là như vậy, nhưng có thể thay đổi, thêm bớt tùy theo yêu cầu
của mỗi bài học.
Với phương pháp này, học sinh được tiếp cận với tác phẩm văn chương vừa ở
phương diện nghiên cứu phê bình, vừa ở phương diện nghệ thuật (kết hợp nghệ
thuật sân khấu, vũ đạo, hội họa…; xây dựng kịch bản cho giờ học, chuyển thể tác
phẩm từ nghệ thuật ngôn từ sang các loại hình nghệ thuật khác).
Trong quá trình học, học sinh giữ vai trò chủ động, chủ đạo; giáo viên hướng
dẫn, sửa chữa, chốt lại các vấn đề tranh luận. Vai trò của thầy và trò là bình đẳng
trước tác phẩm; người học đồng sáng tạo với tác giả trong quá trình tiếp nhận tác
phẩm; những người tham dự giờ học có thể tham gia ý kiến, khoảng cách giữa thầy
và trò trở nên gần gũi, cùng chia sẻ những hiểu biết, những cảm xúc…
Như vậy, phương pháp này xây dựng cho học sinh khả năng tự học, đánh thức
tư duy nghiên cứu độc lập, tạo dựng khả năng liên kết nhóm, sự tự tin và kĩ năng
thuyết trình vấn đề….Đặc biệt nó còn giúp cho học sinh hiểu bài sâu, nhớ bài lâu
do các em được sống và thể nghiệm vào tác phẩm. Đúng như một nhà giáo dục học
người Mỹ từng nói : “Trước một vấn đề, thầy nói cho tôi, tôi sẽ quên, cho tôi xem,
có thể tôi sẽ không nhớ, nhưng cho tôi tham gia thì tôi sẽ hiểu. Tôi hiểu bởi thầy
đã dạy cho tôi cách học mà tôi không bao giờ thấy trong bất kì quyển sách nào”…
2. Cơ sở thực tiễn.
Chúng ta thấy rằng việc đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại nhiều kết quả
khả quan, tuy nhiên trong những năn gần đây, học sinh các trường THCS trên địa
bàn Huyện Cư Mgar nói chung và học sinh trường THCS Nguyễn Huệ nói riêng
rất yếu môn Ngữ văn, không mấy mặn mà với môn học từng một thời làm kim chỉ
nam cho mọi hoạt động. Có một thực tế không thể phủ nhận là mặc dù đã học tới
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
5
Năm Học 2014-2015
cấp THCS nhưng vẫn còn khá nhiều em chưa đọc thông viết thạo, vốn từ ngữ
nghèo nàn, diễn đạt kém, đây là trở ngại lớn trong quá trình tìm hiểu, khám phá
những kiến thức cao hơn, trừu tượng hơn. Bên cạnh đó cách học của các em
thường là đọc thuộc, sao chép, nói lại ý của thầy cô cho ghi trong vở mà không
hoặc ít có sự sáng tạo. Mặt khác thị trường sách hiện nay rất đa dạng và phong
phú, thêm vào đó, mạng Internet đã vào tới từng bản làng ngõ xóm nên khả năng tư
duy của các em lại càng mai một dần khi tiếp cận một tác phẩm văn chương.
Hơn nữa hiện nay đứng trước cơn lốc của cơ chế thị trường, nhiều giá trị
nhân văn có nguy cơ bị xói mòn, mai một. Từ thực tế đó, đòi hỏi người giáo viên
nói chung và giáo viên dạy Văn nói riêng phải nhận thức được những thử thách
khốc liệt phía trước. Bối cảnh đó cũng khiến cho con đường dẫn dắt học sinh tiếp
cận với tác phẩm văn chương, tìm hiểu giá trị truyền thống trở nên nhọc nhằn hơn,
đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt hơn về phương pháp giảng dạy mới có thể
tạo hứng thú cho các em được.
II. Thực trạng của vấn đề
1. Thuận lợi – khó khăn.
a. Thuận lợi.
Trường THCS Nguyễn Huệ năm học 2014 – 2015 có tổng số: 576 học sinh, 20
lớp học, cơ sở vật chất khang trang, thuận lợi cho việc dạy và học. Là ngôi trường
có nhiều thành tích về các mặt giáo dục, đạo đức, chất lượng văn hóa, hoạt động
Đội và hoạt động Thể dục thể thao. Trường nhiều năm liên tục đạt danh hiệu Tập
thể lao động tiên tiến và Tập thể lao động xuất sắc. Trường được UBND tỉnh Đăk
Lăk công nhận đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn 1 năm học 2010 – 2011.
Trong thời gian nhận công tác giảng dạy tôi luôn được Ban Giám hiệu, Hội
đồng sư phạm Nhà trường tạo điều kiện, hỗ trợ về nhiều mặt.
Trong quá trình công tác giảng dạy của bản thân tôi luôn được sự quan tâm
giúp đỡ của các đồng nghiệp trong tổ bộ môn Ngữ Văn. Chúng tôi thường trao đổi
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
6
Năm Học 2014-2015
kinh nghiệm cho nhau. Riêng các em học sinh, đa phần là con em nhà nông nên rất
chân chất, hiền lành, các em có ý thức tự học, ham học và chăm chỉ tự rèn luyện.
Đa số các em khi được tiếp cận với cách khám phá mới của tiết dạy văn bản thì tỏ
ra hứng thú và sẵn sàng tiếp nhận công việc nếu được thầy cô giao cho.
b. Khó khăn:
Trên thực tế, tiết dạy văn bản chiếm một khối lượng lớn là trọng tâm trong ba
phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn và Văn bản, các em lĩnh hội nội dung bài giảng
theo dọc chiều dài lịch sử của dân tộc qua từng thời kì, từ đó hình thành nên Đức –
Trí – Thể - Mĩ, thế nhưng môn văn ngày càng mất dần đi vị thế quan trọng vốn có
của nó bởi xu thế phát triển của xã hội, các em hứng thú với các môn học tự nhiên
hơn, cha mẹ quan tâm đầu tư vào hơn các môn học có cơ hội trong việc chọn
nghành nghề sau này, các em cảm thấy nản lòng khi tiếp nhận những bài Tiếng
Việt hóc búa, những bài Tập làm văn khó viết được hay và đạt được điểm cao và
đặc biệt lĩnh hội một tiết Văn bản dài, trừu tượng.
Với đề tài này tôi mong rằng các em học sinh không nản lòng khi tiếp cận văn
bản nữa, giúp các em học tốt hơn. Rất nhiều kĩ năng được hình thành ở học sinh
qua việc thực hiện bài học theo phương pháp này: khả năng làm việc nhóm, kĩ
năng nghiên cứu khoa học, khả năng nói trước đám đông, khả năng diễn xuất, kĩ
năng thuyết trình, tổ chức …từ đó giúp các em mạnh dạn hơn trong giao tiếp và
sinh hoạt.
2. Mặt mạnh – mặt yếu:
a. Mặt mạnh:
Vừa qua, Phòng Giáo dục có tổ chức cuộc thi Dạy học theo chủ đề tích hợp, qua
cuộc thi tôi có cơ hội được tham khảo một số giáo án hay, có tính thực tiễn cao nên
tôi đã vận dụng làm tư liệu cho bài viết của mình.
Hơn nữa, được công tác gần nhà nên việc soạn giảng, cũng như lên kế hoạch và
phương pháp, biện pháp giảng dạy có phần thuận lợi.
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
7
Năm Học 2014-2015
Khối lớp tôi giảng dạy là các em học sinh lớp 7, 9 nên đã có ý thức học tập tốt.
Các em tích cực chủ động trong cách chuẩn bị bài ở nhà, lên lớp lĩnh hội bài học có
phần hào hứng hơn, mạnh dạn trao đổi ý kiến với thầy cô và các bạn hơn.
b. Mặt yếu:
Do những khó khăn nhất định mà không phải tiết học nào cũng áp dụng được
hình thức này, mỗi kì chỉ chọn một vài tác phẩm hay ở các khối lớp để học sinh có
đất diễn. Mặt khác, việc thực hiện phương pháp này đòi hỏi học sinh phải có học
lực khá, giỏi, khả năng tư duy nhanh nhẹn, thế nhưng ở một địa phương là vùng
sâu, vùng xa như trường chúng tôi thì trình độ tiếp thu của các em không đồng đều,
điều kiện vật chất còn thiếu thốn nên không thể áp dụng hết được tất cả các lớp học
ở tất cả các khối.
3. Thành công – hạn chế:
a. Thành công:
Trong các năm học gần đây nhờ sự đầu tư về cơ sở vật chất của nhà trường,
sự quan tâm sát sao của phụ huynh trong việc học của con cái, ý thức học tập, tính
tự giác của các em được nâng cao dẫn đến kết quả học tập cũng thu được thành
công nhất định. Chất lượng đại trà được ổn định, chất lượng mũi nhọn có sự khởi
sắc.
b. Hạn chế:
Trình độ học sinh trong lớp chưa đồng đều, các em còn có xu hướng học lệch,
chú trọng vào các môn học thời thượng nên còn coi nhẹ môn học từng một thời
làm kim chỉ nam này. Ý thức học tập của một số em còn chưa nghiêm túc. Tài liệu
nghiên cứu còn hạn chế. Bản thân người viết kinh nghiệm chưa nhiều, thời gian
đầu tư vào đề tài còn ít.
4. Nguyên nhân, các yếu tố tác động:
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
8
Năm Học 2014-2015
- Chất lượng đại trà của môn Văn so với các môn học khác còn thấp.
- Do các yếu tố xã hội tác động nên các em chưa hướng sâu vào việc học văn.
- Chất lượng mũi nhọn của bộ môn trong các năm trước chưa cao.
III. Giải pháp, biện pháp:
1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Sở dĩ tôi chọn đề tài này là vì khi tham gia tiết học, các em được tìm hiểu kĩ
hơn về văn bản thông qua nhiều hành động, trực tiếp hóa thân vào nhân vật để tái
hiện tác phẩm dưới hình thức sân khấu hóa. Học sinh khám phá văn bản qua phần
hội thảo, thầy cô đóng vai trò là cố vấn giúp các em định hướng đúng đắn trong
quá trình chiếm lĩnh tác phẩm. Từ đó giúp học sinh có hứng thú yêu thích học văn
hơn, tạo tâm lý thoải mái khi học, mạnh dạn trao đổi ý kiến. Kích thích sự tìm tòi
sáng tạo, từ đó khắc phục lối học thụ động, dần dần củng cố kiến thức cũ và tiếp
thu kiến thức mới một cách tự giác để đáp ứng những yêu cầu về đổi mới phương
pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay.
2. Nội dung và cách thực hiện giải pháp, biện pháp:
Năm học 2014-2015, tôi được nhà trường phân công giảng dạy 2 lớp 9 và 2
lớp 7. Qua khảo sát về kết quả mà các em viết bài tập làm văn số 3 ở lớp 9A1 với
đề “ Hãy đóng vai cô kĩ sư kể lại cuộc gặp gỡ đầy thú vị giữa các nhân vật trong
tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa ”. Còn ở lớp 6, từ việc theo dõi kếết quả bài kh ảo sát chấết l ượng đấầu năm,
trong quá trình giảng dạy tôi cho làm bài kiểm tra và kếết qu ả thu đ ược nh ư sau:
Lớp
Sĩ số
9A1
31
Giỏi
SL
TL%
SL
%
04
17
54,8%
12,9%
Khá
TB
SL
10
%
Yếu – kém
SL
%
0
0%
32,3%
6A1
29
05
17,2%
16 55,2%
8
27,6%
0
%
Tôi đã khảo sát trên tổng số 60 học sinh của hai lớp 9A1, 7A1 và trên cơ sở ấy
trong năm học, chúng tôi đã bước đầu áp dụng dạy học văn bằng phương pháp
“Trả tác phẩm về cho học sinh” ở ba nhóm văn bản là văn bản nhật dụng (Ngữ
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
9
Năm Học 2014-2015
Văn 7), văn bản truyện hiện đại (Ngữ Văn 9) và trong đợt thi chọn giáo viên dạy
giỏi cấp trường tôi có thử nghiệm trên một tiết dạy văn bản truyện ngụ ngôn (Ngữ
văn 6). Cũng trong năm này, để tham gia cuộc thi Dạy học theo chủ đề tích hợp,
tôi có điều kiện được tham khảo một số giáo án của các chị đồng nghiệp, đây là cơ
hội cho tôi được học hỏi thêm kinh nghiệm để bổ sung vào sáng kiến này. Các
hoạt động dạy – học trong bài đều được tổ chức theo tinh thần của phương pháp
“Trả tác phẩm về cho học sinh” phù hợp với đặc điểm, tình hình của học sinh
trường chúng tôi cụ thể như sau :
2.1. Áp dụng phương pháp “Trả tác phẩm về cho học sinh” trong dạy – học văn
bản truyện hiện đại (Ngữ Văn 9) :
Để có 02 tiết học trên lớp theo thời khóa biểu, chúng tôi đã tiến hành dạy – học
văn bản “ Lặng lẽ Sa Pa” theo tiến trình sau :
Bước 1: Chuẩn bị : (Hoạt động này được tiến hành trước 02 tuần so với thời gian
diễn ra bài học trên lớp theo phân phối chương trình). Lớp 9A1 gồm 31 học sinh
được chia thành 4 nhóm :
* Nhóm viết : Chịu trách nhiệm soạn thảo văn bản về các vấn đề sau :
- Tác giả Nguyễn Thành Long ( Ngoài những thông tin trong SGK, các em có thể
thu thập thêm những kiến thức liên quan tới tác giả ở trên mạng Internet hoặc các
sách tham khảo để cho bài nói của mình thêm phong phú.)
- Hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”. ( Đặc biệt chú ý hoàn cảnh
đất nước ta trong giai đoạn tác phẩm ra đời để nhấn mạnh vẻ đẹp của con nười
trong giai đoạn này.)
- Những nét chính về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
- Phương thức biểu đạt: học sinh có thể lựa chọn các hình thức biểu đạt như: thuyết
minh (Giới thiệu về anh thanh niên); biểu cảm (Cảm nghĩ về nhân vật anh thanh
niên); hay nghị luận (Suy nghĩ về nhân vật anh thanh niên)…
* Nhóm kịch : Dàn dựng tiểu phẩm “Cuộc gặp gỡ bất ngờ và thú vị”
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
10
Năm Học 2014-2015
(Thể hiện nội dung chính là cảnh anh thanh niên tặng hoa cho cô kĩ sư, cuộc gặp
gỡ, trò chuyện giữa anh thanh niên với ông họa sĩ và cô kĩ sư).
* Nhóm đạo cụ: Chuẩn bị trang phục, bối cảnh, trang trí, quay video clip… cho tiết
mục kịch ( Tiết mục này có sự hỗ trợ của giáo viên.)
* Nhóm hội thảo: Chuẩn bị các câu hỏi xung quanh tác giả tác phẩm và điều hành
thảo luận. (Chọn những học sinh có khả năng lập luận tốt.)
Bước 2: Hoạt động lên lớp (được tiến hành trong 02 tiết học) :
* Hoạt động 1: Đại diện nhóm viết giới thiệu về tác giả Nguyễn Thành Long,
truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” đồng thời giới thiệu video clip “Cuộc gặp gỡ bất ngờ
và thú vị” .
* Hoạt động 2: Cả lớp xem video clip “Cuộc gặp gỡ bất ngờ và thú vị” trên máy
chiếu. (GV hỗ trợ trình chiếu.)
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
11
Năm Học 2014-2015
* Hoạt động 3: Cả lớp nghe đại diện của nhóm viết trình bày về nhân vật anh thanh
niên về:
- Hoàn cảnh sống và công việc.
- Những phẩm chất tốt đẹp của anh thanh niên:
+ Là người yêu nghề, có cái nhìn đúng đắn và sâu sắc về công việc.
+ Là người nhiệt tình, cởi mở và chu đáo.
+ Là người biết cách tổ chức sắp xếp cuộc sống riêng khoa học.
+ Là người khiêm tốn.
* Hoạt động 4: Nhóm hội thảo tổ chức cho học sinh cả lớp trao đổi, thảo luận về:
- Nhân vật anh thanh niên qua video clip và phần trình bày về nhân vật anh thanh
niên của nhóm viết.
- Suy nghĩ về những con người của Sa Pa lặng lẽ trong tác phẩm như: ông kĩ sư ở
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
12
Năm Học 2014-2015
vườn rau, anh cán bộ khí tượng chuyên tâm nghiên cứu, thiết lập bản đồ sét…
- Tâm trạng của ông họa sĩ khi đứng trước “bức chân dung” mà cả đời sáng tác nay
mới bắt gặp?
- “Bó hoa” mà cô kĩ sư nhận được có ý nghĩa gì đối với cuộc hành trình của cô?
- Tại sao các nhân vật trong tác phẩm đều không có tên?
- Nhan đề của tác phẩm có gì đặc biệt? Nếu được đặt thêm nhan đề cho tác phẩm
thì bạn sẽ đặt nhan đề như thế nào?
- Văn bản có giá trị như thế nào trong thời điểm nó ra đời?
- Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Hoạt động 5: Hướng dẫn học sinh thực hiện phần “Luyện tập”.
- Trong bài học này, chúng tôi hướng dẫn học sinh làm việc cá nhân bằng cách yêu
cầu các em viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ về điều đã để lại ấn tượng sâu sắc
nhất cho các em sau khi được đọc, xem tiểu phẩm và học truyện ngắn “Lặng lẽ Sa
Pa”.
- Từ việc cảm nhận về thiên nhiên và con người nơi đây, em hãy vẽ một bức tranh
phác họa lại vẻ đẹp đó. (Sản phẩm này sẽ nộp vào tiết học sau.)
2.2 Áp dụng phương pháp “Trả tác phẩm về cho học sinh” trong tiết dạy truyện
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
13
Năm Học 2014-2015
ngụ ngôn: (Ngữ văn 6)
Cũng với cách làm như trên, trong kì thi chọn giáo viên dạy giỏi cấp trường, tôi
có thực hiện tiết dạy truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đấy giếng, cách tiến hành như sau:
Bước 1: Chuẩn bị. Tôi chia nhóm cho học sinh trước một tuần để chuẩn bị:
* Nhóm 1: Viết kịch bản Ếch ngồi đáy giếng, xây dựng kịch bản thành một tiểu
phẩm. Phân vai nhân vật. (Có sự hỗ trợ của giáo viên).
Các vai: Ếch, nhái, cua , trâu vàng và người dẫn truyện.
Người dẫn: Thưa bà con, câu chuyện chúng tôi sẽ kể là chuyện một chú ếch trong
giếng sâu, quen thói hung hăng coi trời bằng vung. Về sau ếch bị một tai hoạ, từ đó
mới tỉnh ngộ, bỏ thói hung hăng, kiêu ngạo. Vở kịch xin được bắt đầu.
Ếch: Ộp, ộp …ta là ếch ộp. Nhà ở giếng thơi. Sâu tận đáy ngòi. Sâu đẽ nghìn
thước. Ta là chúa ếch. Lâu đài thênh thang. Đất xanh trời xanh. Mình ta một cõi.
(Vừa nói vừa vẽ một vòng phấn tượng trưng miệng giếng)
Nhái, cua tìm đến nhà Ếch:
Nhái: Ơ…bác ộp có ở nhà không nhỉ?
Ếch: (quát) Đứa nào?
Nhái, cua (tranh nhau nói) - Dạ bẩm ông phân xử giúp ạ!
Ếch: Cái gì?
Cua, nhái: Bẩm, trời to bằng nào vậy ạ?
Trời cao bằng nào vậy?
Bẩm sao bác ốc bảo chúng con đi hết đời cũng không đi hết trời.
Ếch: Láo nào, trời bằng cái vung chứ mấy, ộp…ộp.
Nhái: Ớ… các cụ ta vẫn bảo “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” mới biết thế
nào là trời cao đất dày cơ mà.
Ếch: Cũng láo hết. Ộp…ộp. Chú ngốc thế. Chú ngốc như các cụ mà thôi…
kẹc..kẹc. Rõ đồ bị thịt. Ngốc hết chỗ chê. Đối với riêng ta. Trời là cái vung. Trời là
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
14
Năm Học 2014-2015
cái đấu. Ngươi mà không tin. Ngó lên coi thử. (Cua, nhái tay che mắt vội ngó lên
trời)
Cua: Ừ nhỉ! Trời bằng cái vung thật các bạn nhỉ.
Nhái: Ông ộp đến là tài.
Người dẫn: Các bạn tản ra về. Đang đi thì gặp trời mưa.
Nhái: Lộp độp…lộp độp…Có phải tiếng mưa?
Cua: Xình xịch…xình xịch …có phải tiếng mưa.
Nhái: Ô kìa! Ông trời mặc giáp. Làm mưa mù mịt. Sấp chớp liên hồi. Xé toang
trời đất.
Cua: Chết…chết dòng nước, tràn đầy giếng thôi.
Nhái: Ối! Chúa ếch ơi, chúng ta…chúng ta bị nước cuốn đi …đi đâu thế này?
Người dẫn: Một lát sau, ếch ở ngoài giếng vươn vai, đi lại nghênh ngang, hách
dịch hỏi chú ốc sên đang chậm chạp bò ngang qua lối nó đi.
Ếch: Ê nhóc! Cái vàu xanh xanh kia là gì mày?
Ốc: Là trời chứ là gì? Hỏi vớ vẩn.
Ếch: Bố láo! Trời bằng cái vung cơ mà. Ta ngu gì mà tin ngươi.
Ốc: Thôi, thôi! Buông áo tôi ra cho tôi đi học.
Ếch: Đi học…hi!Hi…đi học là cái gì hả mày?
Người dẫn: Ốc bò đi, ếch nhìn theo bĩu môi.
Ếch: Học với chả hành. Cua cóc trăm nhà. Cứ như ta đây. Thấy ta nem nép. Chúa
cả một cõi. Thấy ta là thấy trời…haha.
Người dẫn: Ếch đang say sưa thì bị một con trâu vàng đi qua giẫm bẹp dí xuống
đất. Ếch nhắm tịt mắt kêu la.
Ếch: Á! A! A! giẫm chết ta rồi ..hu …hu.Thằng mù nào…(quay lại nhìn).
Trâu vàng: Con ếch ranh này làm bẩn chân ta.
Ếch: Ối!ối! Giời ơi! Quỷ ma ơi, cứu ta với…
Người dẫn: Ếch ngất xỉu. Nhái ,cua, ốc chạy ra, nhặt ếch nằm bệp giữa đường
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
15
Năm Học 2014-2015
đem về giếng. Vừa đi vừa than:
Cua, nhái, ốc: (đồng thanh) Rõ khổ ông ếch. Học hành qua loa. Đất gần trời xa.
Tưởng mình bá chủ. Nên nông nỗi này!
* Nhóm 3: Chuẩn bị hệ thống câu hỏi, bám vào phần đọc hiểu trong sách giáo
khoa, ngoài ra bổ sung thêm một số câu hỏi khác.
* Nhóm 4: Chuẩn bị kĩ phần nội dung và nghệ thuật để trả lời các câu hỏi của
nhóm 3.
* Nhóm 5: Xây dựng sân khấu, trang phục biểu diễn (cắt hình nộm các con vật
bằng giấy rôki).
Bước 2: Hoạt động dạy và học trên lớp.
* Hoạt động 1:
- Giáo viên tổ chức cho học sinh chỗ ngồi, cách sắp xếp bàn ghế, tạo không gian
rộng thoáng, học sinh có thể quan sát được. (Vì là đối tượng học sinh lớp 6 còn
nhỏ, chưa quen với cách làm việc năng động nên GV cần hỗ trợ nhiều hơn.)
- Giáo viên giới thiệu thể loại truyện ngụ ngôn, một thể loại của truyện dân gian.
Mục đích yêu cầu của bài học.
- Yêu cầu một học sinh đọc văn bản to rõ ràng.
* Hoạt động 2: Nhóm 2: Học sinh biểu diễn tiểu phẩm trực tiếp trên sân khấu.
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
16
Năm Học 2014-2015
* Hoạt động 3: Sau khi xem xong tiểu phẩm, nhóm 3 đặt câu hỏi cho cả lớp thảo
luận:
- Ếch sống ở đâu?
- Ếch sống với ai?
- Đó là môi trường sống như thế nào?
- Thái độ của ếch ra sao?
- Hậu quả của ếch là gì?.....
* Hoạt động 4: Nhóm 4 thảo luận và trả lời câu hỏi xoay quanh nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm.
* Hoạt động 5: Giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra bài học qua câu truyện, từ đó
giáo dục cho các em về kĩ năng sống.
2.3. Áp dụng phương pháp “Trả tác phẩm về cho học sinh” trong dạy – học văn
bản nhật dụng: (Ngữ văn 7)
Chúng tôi tiếp tục thực hiện thử nghiệm một tiết học đối với môn Ngữ Văn lớp
7 đó là văn bản nhật dụng “Ca Huế trên sông Hương”.
Bước 1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà :
Chúng tôi tiến hành phân nhóm và giao việc cho từng nhóm học sinh như sau:
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
17
Năm Học 2014-2015
* Nhóm 1: Tìm hiểu thông tin từ Internet.
- Vị trí địa lí và đặc điểm địa hình của Tỉnh Thừa Thiên – Huế.
- Các địa danh nổi tiếng của Huế như: Chùa Thiên Mụ, Tháp Phước Duyên, Cầu
Tràng Tiền, Sông Hương, Núi Ngự…
- Các làn điệu dân ca nổi tiếng của Huế.
- Nguồn gốc ra đời của nhã nhạc cung đình Huế.
- Những thông tin về văn hóa Huế được 2 lần thế giới vinh danh.
- Không gian và thời gian biểu diễn ca Huế.
- Trang phục và nhạc cụ, nhạc công biểu diễn.
* Nhóm 2: Sưu tầm một số bức tranh về phong cảnh ở Huế, tranh biểu diễn ca Huế,
tranh một số di tích lịch sử, văn hóa đang bị xâm hại…
* Nhóm 3: Sưu tầm clip ca Huế, viết bài thể hiện vẻ đẹp của ca Huế và việc gìn
giữ, bảo tồn, và phát huy những nét đẹp của ca Huế.
* Nhóm 4: Vận dụng kiến thức liên môn Âm nhạc để biểu diễn một tiết mục dân ca
Huế ( có thể là một điệu hò, điệu lí mà các em đã học.)
Bước 2.Tổng hợp kết quả chuẩn bị của các nhóm trước khi tiến hành tổ chức các
hoạt động dạy học trên lớp:
- Học sinh các nhóm trình bày phần chuẩn bị như đã được phân công.
- Các nhóm thống nhất và cử 04 học sinh đại diện trình bày trước lớp theo bốn vấn
đề đã đặt ra ở phần chuẩn bị.
- Giáo viên bộ môn kết hợp với 4 học sinh đại diện thống nhất cách trình bày, lựa
chọn hình ảnh đưa vào giáo án trình chiếu trên máy chiếu.
Bước 3. Tổ chức các hoạt động dạy - học trên lớp :
* Hoạt động 1 : Giáo viên giới thiệu bài, mục đích, yêu cầu và phương pháp của
bài học. Hướng dẫn HS đọc –tìm hiểu chung về văn bản.
* Hoạt động 2 : Đại diện học sinh nhóm 1 trình bày:
- Vị trí địa lí, truyền thống lịch sử của Huế: Tỉnh Thừa Thiên Huế nằm ở Duyên
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
18
Năm Học 2014-2015
hải miền Trung Việt Nam. Phía Đông giáp biển, phía Tây giáp Lào, phía Bắc giáp
tỉnh Quảng Trị, phía Nam giáp Thành phố Đà Nẵng. Chính vì có vị trí địa lí thuận
lợi như vậy Huế vừa là nơi giàu thắng cảnh, là địa bàn đa văn hóa, quy tụ nhiều di
tích lịch sử, di tích văn hóa, công trình kiến trúc độc đáo và bảo tồn không ít giá trị
văn hóa phi vật thể khác nhau.
Huế là kinh đô của quốc gia Việt Nam thống nhất từ năm 1802, sau khi Nguyễn
Ánh lên ngôi hoàng đế mở đầu cho nhà Nguyễn, vương triều cuối cùng trong lịch
sử Việt Nam. Huế kết thúc sứ mệnh là kinh đô vào năm 1945 khi hoàng đế cuối
cùng là Bảo Đại thoái vị, từ đó kinh đô Huế xưa trở thành cố đô.
Đây là vùng đất có truyền thống hiếu học, quy tụ và đào tạo rất nhiều nhân tài.
- Di vật, địa danh nổi tiếng: Thuyền rồng là phương tiện dành cho vua chúa xưa
di chuyển bằng đường thủy; sinh hoạt văn hóa, ngày nay nó đã trở thành phương
tiện phục vụ cho nhiều nét đẹp văn hóa, du lịch như: Ca Huế trên sông Hương, lễ
hội đua thuyền rồng ở Đà Nẵng, phục vụ du khách tham quan du lịch ở động
Phong Nha - Quảng Bình…
- Nguồn gốc ca Huế: Ca Huế được hình thành từ dòng nhạc dân gian và nhã nhạc
cung đình.
- Nhạc cụ: Đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam…Các ca công: Nam, nữ còn
rất trẻ. Nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp, nữ mặc áo dài, khăn
đóng duyên dáng. Nhạc công: Dùng các ngón đàn trau chuốt: ngón nhấn, mổ, vỗ,
vã, bấm, day, chớp….
- Huế được thế giới vinh danh: Huế song hành cùng một lúc hai di sản văn hóa.
Ngày 11/12/1993 Unessco công nhận cố đô Huế là di sản văn hóa nhân loại.
Là một loại hình âm nhạc mang tính bác học trong xã hội Việt Nam qua nhiều
thế kỉ, nhã nhạc tạo sự sang trọng, uy nghi, nho nhã. Với tất cả giá trị ấy, ngày
07/11/2003, nhã nhạc cung đình Huế được Unessco ghi tên vào danh mục kiệt tác
phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
19
Năm Học 2014-2015
* Hoạt động 3: Nhóm 2 giới thiệu những bức tranh sưu tầm về phong cảnh ở Huế,
một số di tích lịch sử, văn hóa đang bị xâm hại…(GV hỗ trợ một số thao tác trên
máy tính cho HS.)
GV thực hiện: Trần Thị Hương Mai
20
Năm Học 2014-2015
- Xem thêm -