TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
-------------------------------
TRẦN THỊ LINH
TRUYỆN NGỤ NGÔN L. TÔNXTÔI
VỚI VIỆC GIÁO DỤC HỌC SINH TIỂU HỌC
TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Thiếu nhi
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
Th.S – GVC. NGUYỄN NGỌC THI
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Giáo dục Tiểu học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn
thành khóa luận này. Đặc biệt, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới Th.S – GVC Nguyễn Ngọc Thi người đã giúp đỡ, chỉ bảo tận tình cho tôi
trong việc triển khai nghiên cứu đề tài để khóa luận đạt hiệu quả.
Do thời gian nghiên cứu và đây là những bước đầu làm quen với công
tác nghiên cứu khoa học nên đề tài của tôi không tránh khỏi thiếu xót. Vì vậy
tôi rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn sinh viên để
khóa luận tốt nghiệp của tôi thêm chất lượng và hữu ích.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Trần Thị Linh
LỜI CAM ĐOAN
Dưới sự chỉ bảo tận tình của Th.S - GVC Nguyễn Ngọc Thi và kế thừa
kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, tôi đã hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp của mình. Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình
nghiên cứu của tôi, kết quả nghiên cứu không trùng lặp với kết quả của các
tác giả khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
7. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 5
NỘI DUNG
Chƣơng 1: Truyện ngụ ngôn L. Tônxtôi ....................................................... 7
1.1. Tổng quan về truyện ngụ ngôn .................................................................. 7
1.1.1. Định nghĩa truyện ngụ ngôn ............................................................. 7
1.1.2. Đặc điểm truyện ngụ ngôn ................................................................ 9
1.1.3. Truyện ngụ ngôn với học sinh tiểu học .......................................... 14
1.2. Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu .................................................... 15
1.2.1. Nguồn gốc, xuất xứ truyện.............................................................. 15
1.2.2. Truyện Kiến và chim bồ câu với học sinh tiểu học ........................ 17
Chƣơng 2: Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu với việc giáo dục
học sinh tiểu học ............................................................................................ 18
2.1. Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu với tâm lí học sinh tiểu học ....... 18
2.2.Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu với việc giáo dục nhận thức
cho học sinh tiểu học ....................................................................................... 19
2.2.1. Nhận thức về thế giới khách quan .................................................. 19
2.2.2. Nhận thức về những nguyên tắc của đạo lí làm người ................... 21
2.3. Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu với việc giáo dục tình cảm
đạo đức cho học sinh tiểu học ......................................................................... 23
2.4. Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu với việc giáo dục thẩm mĩ
cho học sinh tiểu học ....................................................................................... 28
2.4.1. Giáo dục về cái đẹp, cái thiện ......................................................... 28
2.4.2.Giáo dục trẻ nhận biết và tránh điều ác, điều xấu ............................ 30
KẾT LUẬN ..................................................................................... 32
PHỤ LỤC........................................................................................ 34
PHỤ LỤC 1 .................................................................................................... 34
PHỤ LỤC 2 ..................................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 57
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển của mình, thế kỉ XIX có lẽ là thời kỳ rực rỡ
nhất của văn học Nga. Đã có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng ra đời và có tầm ảnh
hưởng trên thế giới đến cả thế kỷ sau. Nhờ mảnh đất hiện thực màu mỡ của
cuộc đấu tranh cách mạng và sự xuất hiện đúng lúc của các tài năng sáng chói
mà văn học Nga đã bắt kịp những thành tựu của văn học phương Tây và phát
triển đến đỉnh cao. Có lẽ nhờ đó mà nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá: văn
học Nga là một trong những nền văn học phong phú và tiên tiến nhất của nhân
loại, là một trong những thành tựu rực rỡ nhất của văn học thế giới.
Nhắc đến văn học Nga, không thể không nhắc tới L.Tônxtôi, tức bá
tước Lép Nikôlaiêvitsơ Tônxtôi – nhà văn lớn của nước Nga. L.Tônxtôi xuất
thân trong một gia đình quý tộc nông thôn. Thời thơ ấu và niên thiếu,
L.Tônxtôi sống giữa cảnh thiên nhiên tươi đẹp ở ấp Iaxnaia Pôliana của gia
đình. Tônxtôi say xưa tìm đọc những tác phẩm văn học trong thư viện của cha
mình có tới hàng vạn cuốn.
Năm 16 tuổi, Tônxtôi được gia đình gửi tới Cadan học đại học. Lúc
đầu, ông học ngành ngôn ngữ phương Đông, sau đổi sang ngành Luật. Được
hai năm, ông bỏ trường đại học và gia nhập quân đội. L.Tônxtôi đã cùng đồng
đội chiến đấu bảo vệ thành phố Xêvaxtôpôn trước cuộc tấn công của liên
quân Anh – Pháp trong chiến tranh Crưm (1853 – 1856). Tônxtôi đã viết một
số truyện kí về Xêvaxtôpôn ca ngợi những hành động anh hùng của những
người lính Nga chân chính.
Sau khi xuất ngũ, Tônxtôi đi du lịch qua nhiều nước ở châu Âu, sau trở
về sống ở ấp của mình và hết lòng giúp đỡ những người nông dân nghèo.
L.Tônxtôi đã sáng tác bộ tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình gồm 4 tập, được
viết từ 1864 -1869, đã tái hiện một cách sinh động cuộc chiến đấu ngoan
1
cường và chiến thắng hiển hách của quân dân Nga đầu thế kỷ XIX chống lại
cuộc xâm lược quân Pháp dưới quyền thống lĩnh của Napôlêông.
Mấy năm sau, Tônxtôi đưa ra một kiệt tác thứ hai Anna Karênina
(1877). Trong tác phẩm này, nhà văn đã tỏ ra có khả năng phân tích tâm lý
tuyệt vời và đã lớn tiếng tố cáo luật pháp vô nhân đạo của xã hội quý tộc tư
sản Nga, ước vọng đem lại tự do và cuộc sống no đủ, yên vui cho nhân dân.
Tônxtôi còn phơi bày cái xấu của Nhà thờ Chính thống giáo Nga tham gia
tước đoạt hạnh phúc của con người, đày đọa nhân dân trong vòng tăm tối,
nghèo khổ và bất hạnh trong tác phẩm Phục sinh (1899). Ngoài ra, ông còn
viết một số tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch...biểu lộ tư tưởng phản kháng của
ông. Toàn bộ tác phẩm của L. Tônxtôi được Lênin coi là “Tấm gương phản
ánh cách mạng Nga” thế kỷ XIX.
Là một trong những nền văn học có nhiều thành tựu rực rỡ và có tầm
ảnh hưởng sâu rộng nhất đối với nhân loại, văn học Nga cũng có một vị trí
vững chắc và ảnh hưởng sâu rộng tới văn học Việt Nam, cả trong giới sáng
tác, nghiên cứu, phê bình lẫn đông đảo công chúng bạn đọc. Vị trí vững chắc
ấy đã được củng cố trong thời kì Liên Xô giữ vai trò “người anh cả” của hệ
thống chủ nghĩa xã hội toàn thế giới.Trong các trường, khoa nghiên cứu văn
học ở Việt Nam không thể thiếu văn học Nga, đặc biệt là các trường sư phạm
và khoa học xã hội – nhân văn.
Trong chương trình dạy Tiếng Việt ở bậc Tiểu học, riêng các tác phẩm
thuộc bộ phận văn học nước ngoài được đưa vào chương trình với trên dưới
100 tác phẩm. Các tác phẩm này bao gồm nhiều thể loại như truyện dân gian
(truyện thần thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười...) và những
câu chuyện viết về các danh nhân, về người thật việc thật. Các tác phẩm thuộc
các thể loại này có ý nghĩa giáo dục vô cùng to lớn đối với học sinh tiểu học.
Các tác phẩm văn học nước ngoài được đưa vào chương trình tiểu học
thường là tác phẩm ngắn, mang dáng dấp những câu chuyện cổ dân gian,
2
truyện cổ viết lại. Hai thể loại phổ biến là truyện( gồm các trích đoạn, truyện
ngụ ngôn, truyện ngắn hiện đại) và thơ( thơ ngụ ngôn, thơ hiện đại).
Nhắc đến các tác giả văn học nước ngoài trong chương trình tiểu học
không thể không nhắc tới L.Tônxtôi. Ông là một trong số ít các tác giả nước
ngoài mà ở lớp học nào của bậc tiểu học cũng có tác phẩm được chọn. Những
câu chuyện ngụ ngôn của L.Tônxtôi có sức hấp dẫn lạ kì, phù hợp với tâm lý
và nhận thức của học sinh tiểu học. Truyện ngụ ngôn của L.Tônxtôi ngắn gọn,
súc tích. Các nhân vật trong truyện là những nhân vật quen thuộc, gần gũi với
các em như: con mèo, con thỏ, con ngựa, con chuột... Nhà văn đã khéo léo
lồng vào đó những bài học giáo dục nhẹ nhàng, ý nghĩa, phù hợp với lứa tuổi
học sinh tiểu học.
Truyện ngụ ngôn có thể nói là một trong những thể loại truyện góp
phần làm nên sự đa dạng và phong phú của nền văn học. Cùng với việc đấu
tranh trực diện nhằm phê phán những thói hư, tật xấu trong xã hội, loại truyện
này dùng cách mượn lời ngụ ý, mượn lời các con vật, đồ vật, chim muông,
hoa lá để nói về con người, gửi vào đó một ý tưởng, một nhận xét về nhân
tâm, thế sự, một bài học về kinh nghiệm sống hay một điều răn dạy về đạo lý
làm người.
Ngụ ngôn có cốt truyện ngắn, cô đọng, hàm súc và giàu sức biểu hiện,
nó là một thể loại rất gần gũi với mọi người, mọi tầng lớp nhân dân và đặc
biệt là với trẻ em. Giáo dục trẻ bằng ngụ ngôn là việc làm hay và bổ ích phù
hợp với đặc điểm tâm lý và đặc điểm tư duy nhận thức của các em.
Việc nghiên cứu đề tài Truyện ngụ ngôn L.Tônxtôi với việc giáo dục
học sinh tiểu học có ý nghĩa quan trọng, nó giúp tôi có thêm những hiểu biết
về một khía cạnh của truyện ngụ ngôn L.Tônxtôi, giúp tôi cảm thụ được cái
hay, cái đẹp và giá trị tư tưởng trong mỗi câu chuyện. Đặc biệt thông qua các
tác phẩm đó, bồi dưỡng giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm và thẩm mĩ cho
3
học sinh tiểu học. Với phạm vi một khóa luận tốt nghiệp chúng tôi chỉ tập
trung nghiên cứu tuyển tập truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu – L.Tônxtôi
với việc giáo dục học sinh tiểu học.
2. Lịch sử vấn đề
Đã có rất nhiều tác giả quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu về L. Tônxtôi và
sự nghiệp vĩ đại của cây đại thụ văn học Nga thế kỷ XIX này đặc biệt là
những bộ tiểu thuyết nổi tiếng của ông. Truyện ngụ ngôn L.Tônxtôi vô cùng
hấp dẫn đối với trẻ em và mang những giá trị sâu sắc. Song việc nghiên cứu
truyện ngụ ngôn của L. Tônxtôi ít được giới nghiên cứu phê bình văn học
quan tâm. Về đề tài Truyện ngụ ngôn L.Tônxtôi với việc giáo dục học sinh
tiểu học thì cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể được công
bố. Tôi lựa chọn đề tài này và hiểu rằng những thành quả nghiên cứu của các
tác giả trước đó có giá trị vô cùng to lớn, chúng gợi mở, giúp tôi tiếp cận và
nghiên cứu thành công đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận đi vào nghiên cứu, tìm hiểu tác dụng giáo dục nhận thức,
đạo đức, thẩm mĩ của tuyển tập truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu đối với
học sinh tiểu học.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Truyện ngụ ngôn L. Tônxtôi
- Phạm vi nghiên cứu: Tập truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu với
việc giáo dục học sinh tiểu học.
- Văn bản khảo sát: Kiến và chim bồ câu truyện ngụ ngôn, Thúy Toàn
dịch, Nhà xuất bản văn học, 1999.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Nghiên cứu của chúng tôi nhằm thực hiện những nhiệm vụ sau:
4
Tìm hiểu về truyện ngụ ngôn L. Tônxtôi.
Tìm hiểu tác dụng giáo dục của tuyển tập truyện ngụ ngôn Kiến và
chim bồ câu với học sinh tiểu học.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thống kê – phân loại
6.2. Phương pháp phân tích
6.3. Phương pháp đối chiếu – so sánh
6.4. Phương pháp tổng hợp...
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Truyện ngụ ngôn L.Tônxtôi
1.1. Tổng quan về truyện ngụ ngôn
1.1.1. Định nghĩa truyện ngụ ngôn
1.1.2. Đặc điểm truyện ngụ ngôn
1.1.3. Truyện ngụ ngôn với học sinh tiểu học
1.2. Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu
1.1.1. Nguồn gốc, xuất xứ truyện
1.1.2. Truyện Kiến và chim bồ câu với học sinh tiểu học
Chương 2: Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu với việc giáo dục học sinh
tiểu học
2.1. Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu với tâm lí học sinh tiểu học
2. 2. Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu với việc giáo dục nhận thức
cho học sinh tiểu học
2.2.1. Nhận thức về thế giới khách quan
2.2.2. Nhận thức về những nguyên tắc của đạo lí làm người
2.3. Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu với việc giáo dục tình cảm đạo đức
cho học sinh tiểu học
5
2.4. Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu với việc giáo dục thẩm mỹ cho
học sinh tiểu học
2.4.1. Giáo dục cái thiện, cái đẹp
2.4.2. Giáo dục trẻ nhận biết và tránh điều xấu, điều ác
6
NỘI DUNG
Chƣơng 1
TRUYỆN NGỤ NGÔN L. TÔNXTÔI
1.1. Tổng quan về truyện ngụ ngôn
1.1.1. Định nghĩa truyện ngụ ngôn
Ngụ ngôn là một trong những thể loại tự sự cổ xưa nhất, ở folklore của
mọi dân tộc đều có thơ hoặc truyện ngụ ngôn. Ngụ ngôn xuất hiện trước công
nguyên trong kho tàng văn hóa các dân tộc như Hy Lạp, Ấn Độ, Ai Cập,
Trung Hoa...và xa xưa nhất có thể tính đến các tác phẩm ngụ ngôn nửa thực
nửa truyền thuyết tương truyền do Êdốp sáng tác, có tầm ảnh hưởng sâu rộng
sang cả vùng Trung Đông rồi ngược về phương Tây, Nga... Một dòng khác
tiếp tục tồn tại ở đế chế La Mã, vùng Tây Âu thời trung đại với Romul viết
bằng tiếng Latinh, Isopette viết bằng tiếng Pháp, và cận đại với ngụ ngôn của
J. La Fontaine, K. F. Hellert... Ở Trung Quốc, ngụ ngôn cổ đại thâm nhập vào
sách triết luận và chính luận của “ chư tử ” như Trang Tử, Mạnh Tử...vào
các truyện kể trung đại như Bình thoại, Thoại bản và cả tiểu thuyết Đông
Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long. Ở Việt Nam, ngụ ngôn dân gian tồn
tại và nhiều truyện đã trở thành điển cố văn học như Đẽo cày giữa đường.
Thầy bói xem voi...
Truyện ngụ ngôn dân gian là những sáng tác của nhân dân, được lưu
truyền từ đời này qua đời khác. Theo từ nguyên, ngụ ngôn là những lời nói có
ngụ ý, truyện ngụ ngôn là những truyện ngắn hoặc dài, văn xuôi hoặc văn
vần, có ngụ ý, có hàm chứa một bài học đạo lí, một nhận xét về thực tế xã hội,
một quan niệm triết lí, nhân sinh.
7
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã viết về truyện ngụ ngôn trong Tựa sách
Đông Tây Ngụ Ngôn: “cách trực tiếp dùng đã không xong, người làm cha,
làm anh, làm thầy mới dùng đến cách gián tiếp”. Nghĩa là đem cái ý nghĩa
này mà gửi vào nhời, mà đưa ra các tư tưởng của mình, mà mượn người khác,
mượn loài vật, mượn cây cối, mượn thần, mượn phật,... dẫn ra cho đắc lực bởi
vậy mà ngụ ngôn mới hữu dụng, bởi vậy mà ngụ ngôn mới thành có thế.
Mười câu ngụ ngôn mà họ thích đến chín câu “ngụ ngôn thập cửu” Trang Tử
đời xưa nói câu như thế là hiểu cái nhẽ đó. Trang Tử làm sách hơn mười vạn
nhời, mà dùng toàn nhời ngụ ngôn là thi hành cái nhẽ đó. La Phôngten sau
này cũng hiểu và thi hành nhẽ đó, nên cũng mới làm sách ngụ ngôn và cũng
có câu này “Một thứ luân lí trần trụi làm người ta chán nản, truyện kể làm cho
điều luân lí lọt tai cùng với nó”.[4, 349]
Ở Việt Nam, ngụ ngôn là một kho triết lí dân gian độc đáo, ngụ ngôn
không những được kể xuôi, kể vần mà còn có cả truyện thơ ngụ ngôn như
truyện Trê cóc, Lục súc tranh công, Hai ông phật cãi nhau,... ngoài ra còn có
cả ca dao ngụ ngôn (Con mèo mà trèo cây cau, Con gà cục tác lá chanh, Con
cò mà đi ăn đêm, Con kiến mà kiện củ khoai),...
Cũng trong Tựa sách Đông Tây ngụ ngôn, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
viết: Chữ “ngụ” có nghĩa là gá gửi, chữ “ngôn” có nghĩa là nhời nói. Ta dùng
hai chữ “ngụ ngôn” để chỉ các lối văn hoặc văn xuôi, hoặc văn vần, thường
đặt thành câu chuyện đem kể rồi nhân câu chuyện dẫn lời quy châm về luân
thường đạo lí, để cảm hóa lòng người và “ nói ngay hay trái tai”. Trò đời xưa
nay vẫn thế: cứ đem một sự thật chần chần ra mà dạy người có phần như hơi
ép cung không được dễ dàng.... Cách ngôn, huấn ngôn dạy nhời nào ai chẳng
quý hóa, chẳng khâm phục, tuy nó vẫn như còn trèo cao, còn để xa, không
được thiết tha gần nhân tâm cho lắm nên nghiêm trang đính chính mà dạy đạo
đức là một cách, thì vui cười hỉ hả mà dạy đạo đức là một cách khác, và cách
8
sau đem so sánh với cách trước, có phần dễ được việc, chóng lên công hơn.
Viên thuốc để chữa bệnh mà phải bọc ngoài cho đẹp như kẹo mới dễ khiến
người nuốt thì chân lý muốn dễ thấm vào tâm linh người ta, cũng phải lựa một
con đường nào đó cho dễ đi, cho chóng lọt vào đến nơi mới được.
Tác giả Đinh Gia Khánh cũng đã xác định: “Truyện ngụ ngôn là một
loại truyện chứa đựng một sự tích hoàn toàn tưởng tượng, một quan niệm triết
lí hay đạo đức, một kinh nghiệm sống đã được tổng kết và như vậy là truyện
ngụ ngôn có hai phần: phần cụ thể là truyện kể, phần trừu tượng là ý niệm rút
ra từ trong đó có thể gọi là lời quy châm”.[4, 349]
Đỗ Đức Hiểu, trong Từ điển văn học bộ mới khẳng định: Ngụ ngôn là
"Một thể loại văn học giáo huấn, thường sử dụng phúng dụ như một nguyên
tắc tổ chức tác phẩm”. [3, 1091].
Dù nói thế nào, quan niệm của mỗi tác giả có điểm giống và khác nhau
ra sao ta cũng có thể hiểu về truyện ngụ ngôn với những điểm đáng chú ý sau:
Truyện ngụ ngôn là lời nói có ngụ ý, truyện ngụ ngôn là một loại truyện
kể, ở đó người ta mượn một câu chuyện nhỏ mà nhân vật thường là loài vật
để gửi vào một ý tưởng, một nhận xét về nhân tâm, thế sự, một bài học về kinh
nghiệm sống, một điều răn dạy về đạo lý, về triết lý.
1.1.2. Đặc điểm truyện ngụ ngôn
1.1.2.1. Truyện ngụ ngôn với những nhân vật biết nói và nghĩ như con người
Truyện ngụ ngôn là loại truyện ngụ ý, nói bóng gió, mỗi truyện có thể
coi là một ẩn dụ. Truyện thường mượn nhân vật có thể là con vật, đồ vật, cây
cối (có khi là con người) để ám chỉ con người, nhằm nêu lên một bài học luân
lí, một kinh nghiệm sống. Ta có thể bắt gặp các nhân vật là loài vật như: Thỏ,
Rùa, Voi, Chuột,... Các loại cây cối, hoa quả như: Cây lúa, mướp đắng, quả
bứa,... Các nhân vật vô tri vô giác: Nồi đất, nồi gang, ngòi bút,... Có khi đưa
vào truyện cả bộ phận của con người như: Dạ dày, tứ chi, mắt, miệng, ...
9
Những con người gắn với nghề nghiệp cụ thể nhưng không có tên riêng như:
Bác nông dân, người thợ săn, tên trộm,... Rồi cả những tính cách của con
người như anh nói khoác, chị lọc lừa, kẻ bới móc,... Những điều vô hình, vô
dạng như: Sự khôn khéo, sự ngu dại, cái thiện, cái ác, điều họa, phúc,...
Nói chung, tất cả vạn vật tồn tại trong trời đất, những cái có thể xuất
hiện hoặc có thể tồn tại, ngụ ngôn đều mượn cả. Nhưng dù thế nào tác giả
Đông Tây ngụ ngôn cũng chuyển riêng về những loài vật, cầm thú, côn trùng,
lấy các loài ấy làm hạt nhân để đóng mọi vai, diễn mọi trò, có như vậy ngụ
ngôn mới có đặc tính, không lẫn lộn với truyện cổ tích, truyện tiếu lâm khôi
hài cùng những lời bóng gió xa xôi.
Nhân vật trong truyện ngụ ngôn rất cụ thể, có khi được khắc họa như
những con người hàng ngày với những khuôn mặt muôn hình vạn trạng, một
con người đa tính cách. Như những con người hiểu biết nông cạn mà vẫn
huênh hoang, kiêu ngạo trong Ếch ngồi đáy giếng, những kẻ tự cho mình là
thông minh nhưng cuối cùng lại tự mình hại mình trong Con chuột tinh ranh,
sự mù quáng trong Dê đi kiếm ăn với cọp,...
Nhân vật được xem xét trên nhiều bình diện có mặt tốt, xấu, có sự
gian trá, sự thật thà, có điều ngu dại, nhưng cũng có điều rất khôn khéo,
thông minh.
Như vậy, thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn rất phong phú và đa
dạng, dù là con vật, cây cối, đồ vật, hay các hiện tượng tự nhiên đều được
dùng với mục đích chủ yếu là “nói chuyện về con người” biến nó thành con
người, mang tính cách như con người, có nét tâm tư, tình cảm như những
con người.
1.1.2.2. Truyện ngụ ngôn với các nhân vật đại diện cho các tầng lớp trong xã hội
Nhân vật của truyện ngụ ngôn chủ yếu mang tính biểu trưng, mỗi loài
vật biểu trưng cho một tầng lớp trong xã hội. Những con vật đại diện cho giai
10
cấp thống trị như: Sư Tử, Hổ, Cáo, Sói... Một số loài khác đại diện cho tầng
lớp nhân dân, thợ thủ công, tiểu thương, tri thức nghèo. Điển hình cho họ là
những loài vật nhỏ bé, hiền lành luôn luôn là mồi của các loài ăn thịt như: Bò,
Lừa, Ngựa, Dê, Thỏ,...
Truyện Cò và Cáo là sự phản kháng mãnh liệt của nhân dân ta chống
lại giai cấp thống trị. Con Cáo với sự gian ngoa, xảo quyệt tưởng rằng sẽ lừa
được Cò nhưng nó không thể ngờ chính nó mới là nạn nhân. Cò đã tìm được
cách trả đũa đích đáng và giúp Cáo hiểu thế nào là “gậy ông đập lưng ông”.
Bên cạnh việc xây dựng các con vật tiêu biểu, gián tiếp vạch trần bộ
mặt và bản chất xấu xa, xảo quyệt của giai cấp thống trị. Thông qua truyện
ngụ ngôn, nhân dân lao động còn sử dụng nhiều nhân vật là loài vật để chế
giễu, châm biếm và phê phán những thói hư, tật xấu của người đời hay những
hiện tượng ngang trái của xã hội.
Truyện Trâu và Ngựa lên án thủ đoạn tước đoạt xảo quyệt của giai
cấp thống trị. Truyện Hai con mọt đả kích trực tiếp hơn. Con mọt gỗ tuy làm
hại người, nhưng có thể ngâm nước cho chết, đốt lửa cho cháy, chứ con mọt
“tham” của bọn người giàu thì rất nguy hiểm và không thể nào trừ được.
Bọn chúng không những đục khoét nhân dân mà còn rình mò đục khoét lẫn
của nhau.
Truyện Con hổ ăn chay là bức chân dung biếm họa vạch trần bản chất
giả dối của giai cấp thống trị. Tác giả dân gian đã khéo léo khuyên người lao
động hãy cảnh giác với bọn cầm quyền giả nhân, giả nghĩa quen thói lừa bịp
nhân dân.
Truyện Thầy bói xem voi phê phán cách đánh giá, nhìn nhận sự vật một
cách chủ quan, bảo thủ, phiến diện, dẫn tới áp đặt, không hiểu được bản chất
của sự vật, làm cho sự vật méo mó, không chính xác.
11
Ngoài việc phê phán, châm biếm những thói hư tật xấu, truyện ngụ
ngôn còn ca ngợi những đức tính tốt đẹp. Những người yếu biết cố gắng vươn
lên để thắng những kẻ mạnh kiêu căng, ngạo mạn (Thỏ và Rùa), ngợi ca trí
thông minh (Cọp và trí khôn của người)....
1.1.2.3. Truyện ngụ ngôn thường ngắn
Truyện ngụ ngôn có kết cấu ngắn gọn, súc tích. Truyện ngụ ngôn phần
lớn là những câu chuyện có dung lượng ngắn. Các hình ảnh, chi tiết ngắn gọn,
hàm súc nhưng bộc lộ rõ được tính cách, phẩm chất của các nhân vật trong
truyện. Ví dụ như truyện Rùa và Thỏ:
Ngày xửa ngày xưa, có một con rùa và một con thỏ cãi nhau xem ai
nhanh hơn. Chúng quyết định giải quyết việc tranh luận bằng một cuộc thi
chạy đua. Chúng đồng ý lộ trình và bắt đầu cuộc đua. Thỏ xuất phát nhanh
như tên bắn và chạy thục mạng một hồi, và sau khi thấy rằng đã bỏ khá xa
bạn rùa, thỏ nghĩ nó nên nghỉ dưới một tán cây bên đường và thư giãn trước
khi tiếp tục cuộc đua. Thỏ ngồi dưới bóng cây và nhanh chóng ngủ thiếp đi.
Rùa từ từ vượt qua thỏ và sớm kết thúc đường đua, giành chiến thắng. Thỏ
giật mình tỉnh giấc và nhận ra rằng nó đã bị thua.
Cốt truyện ngắn gọn, các chi tiết, hình ảnh trong câu chuyện nối tiếp
nhau chặt chẽ, logic lí giải sâu sắc nội dung của câu chuyện.
Một yếu tố nữa cũng khiến truyện ngụ ngôn ngắn và đặc biệt ngắn đó là
không gian và thời gian rất ít khi được nêu. Thời gian trong mỗi câu chuyện
chỉ được nhắc thông qua cụm từ ngày xửa ngày xưa, rất lâu về trước...đó là
khoảng thời gian nhất định nhưng không thể xác định chi tiết, cụ thể hơn
được nữa.
Truyện ngụ ngôn thường ít nhân vật, thậm chí có truyện chỉ có một
nhân vật với một hoàn cảnh, một tình huống nhất định, một sự kiện cố định.
Chính vì vậy, truyện ngụ ngôn là những truyện hàm xúc và đặc biệt ngắn.
12
1.1.2.4. Truyện ngụ ngôn có tính kịch
Truyện ngụ ngôn không kể về số phận và cuộc đời của các nhân vật,
cũng như đặc điểm hình thức của các nhân vật. Truyện ngụ ngôn chỉ nêu ra
một tình huống, một hoàn cảnh trong đó diễn ra một hành động của nhân vật
hoặc một vài nhân vật từ đó rút ra các bài học triết lý.
Truyện ngụ ngôn rất gần với kịch và có kết cấu như một màn kịch
ngắn. Mỗi câu chuyện ngụ ngôn dù ngắn nhưng vẫn có đủ cốt truyện, các chi
tiết, tình tiết, sự việc và chúng có mối quan hệ chặt chẽ, lôgic với nhau. Cốt
truyện nhằm triển khai xung đột - những xung đột đòi hỏi nghệ thuật góp
phần giải quyết, có nghĩa là không dễ dàng giải quyết trong thực tế hay “cốt
truyện được dẫn dắt theo quy luật nhân quả, các mối liên hệ phải thật chặt
chẽ” hoặc “số lượng nhân vật không nhiều” nhân vật không được khắc họa
với nhiều khía cạnh.
Đặc điểm của truyện ngụ ngôn là ngắn, rất ngắn thậm chí có những
truyện chỉ có mấy câu. Có những truyện chỉ có một nhân vật hoặc có hơn thì
cũng đã được xếp gặp nhau tại một thời điểm nhất định với một lần tiếp xúc.
Cho nên, truyện ngụ ngôn xung đột chỉ diễn ra trong một hành động. Vì vậy,
truyện ngụ ngôn có kết cấu như một màn kịch ngắn.
1.1.2.5. Truyện kể về các con vật nhưng ẩn chứa bài học ứng xử cho con người
Truyện ngụ ngôn gồm có hai phần: Phần cụ thể “phần xác” là truyện kể
về phần trừu tượng – “phần hồn” là ý niệm rút ra từ câu chuyện gọi là lời quy
châm. Khi đọc truyện ngụ ngôn điều chúng ta quan tâm không hẳn là những
đặc điểm vốn có của loài vật, hiện tượng được chọn làm nhân vật mà phải là
sự cần thiết và có lợi cho những vận động của xã hội loài người. Đó là những
bài học luân lí, ứng xử sâu sắc của truyện ngụ ngôn.
Truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng phê phán thái độ đánh giá hiện
thực khách quan rộng lớn thông qua con mắt chủ quan hạn hẹp. Truyện kể về
một con ếch sống lâu năm trong một cái giếng, xung quanh chỉ toàn những
13
con vật nhỏ bé, mỗi khi nó cất tiếng kêu làm những con vật kia hoảng sợ, vì
thế nó nghĩ mình là chúa tể muôn loài và bầu trời chỉ bé bằng cái vung. Một
ngày kia nó được ra ngoài, theo thói cũ, nó nghênh ngang đi lại khắp nơi và
cuối cùng bị một con trâu giẫm bẹp. Mượn chuyện con ếch để ám chỉ một
cách kín đáo, tế nhị một bộ phận người có hiểu biết nông cạn mà vẫn huênh
hoang, kiêu ngạo. Câu chuyện khuyên chúng ta không nên chủ quan, kiêu
ngạo. Đồng thời khi môi trường sống thay đổi thì góc nhìn, tầm nhìn cũng có sự
thay đổi vì thế chúng ta cần phải học hỏi để mở mang tầm hiểu biết của mình.
Truyện ngụ ngôn được sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén để nhân
dân lao động tấn công lại kẻ thù. Thông qua những câu nói bóng gió, những
mâu thuẫn, xung đột giữa các nhân vật phản ánh sự phản kháng mạnh mẽ của
nhân dân lao động với giai cấp thống trị trong xã hội.
Truyện ngụ ngôn phản ánh bài học về trí tuệ, đạo đức, dạy con người
về các chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Phê phán những kẻ lười biếng, sống
dựa dẫm vào người khác; những kẻ hèn mọn, gian dối. Truyện phản ánh một
xã hội đa sắc màu với các giai cấp, tầng lớp khác nhau và trong xã hội đó có
người mạnh, kẻ yếu, mỗi người đều có một vị trí, vai trò riêng. Truyện ngụ
ngôn còn là bài học về sức mạnh của sự đoàn kết trong gia đình và xã hội.
Truyện ngụ ngôn vốn được coi là những câu chuyện mang màu sắc triết
lý. Con đường để đi tới bài học triết lý của truyện ngụ ngôn thường thông qua
sự phê phán, phủ định rồi mới rút ra kết luận về sự đúng đắn.
1.1.3. Truyện ngụ ngôn với học sinh tiểu học
Ngụ ngôn có hình thức ngắn gọn, bởi nội dung truyện đơn giản, kết cấu
mạch lạc, rõ ràng. Truyện ít tình tiết, ít cảnh vì thường chỉ xoay quanh một sự
kiện. Số lượng nhân vật trong mỗi câu chuyện cũng ít và mỗi nhân vật chỉ
được khai thác ở một nét tính cách hoặc một thói quen. Vì vậy, mỗi truyện ngụ
ngôn chỉ là một câu chuyện nhỏ vừa sức tiếp thu với học sinh tiểu học.
14
Đến với truyện ngụ ngôn, học sinh mới chỉ hiểu được phần bề nổi của
truyện còn phần ý nghĩa sâu xa của truyện học sinh chỉ hiểu được phần nào
đó. Ở lứa tuổi tiểu học, tư duy trực quan cụ thể vẫn còn đang phát triển, các
em chủ yếu đánh giá, nhìn nhận các sự vật, hiện tượng bằng trực giác. Các em
yêu thích truyện ngụ ngôn vì bề ngoài đơn giản, các câu chuyện ngắn gọn,
nhân vật gần gũi, thân thuộc còn phần triết lý trừu tượng ẩn dấu phía sau nội
dung đó thì cần có sự trợ giúp của người lớn thì các em mới hiểu được. Hoặc
đến khi lớn lên, các em sẽ dần hiểu ra được bài học sâu xa được gửi gắm
trong đó.
Truyện ngụ ngôn còn là phương tiện hữu ích để giáo dục cho học sinh.
Ngay từ khi còn nhỏ, các em đã được tiếp xúc với những bài ca dao mang tính
ngụ ngôn thông qua những lời ru, câu hát. Đến 2, 3 tuổi, các em được làm
quen với những câu chuyện ngụ ngôn đơn giản. Khi 4, 5 tuổi các em có khả
năng tiếp thu những truyện phức tạp hơn. Và đến khi vào tiểu học, các em có
khả năng hiểu được phần nào ý nghĩa sâu xa được gửi gắm trong mỗi truyện.
1.2. Truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu
1.2.1. Nguồn gốc, xuất xứ truyện
Đại văn hào nước Nga L.Tônxtôi sinh ra và sống gần cả cuộc đời tại
điền trang của ông ở Iaxnaia Pôliana. Ông rất yêu mến trẻ em và đã viết nhiều
câu chuyện cho con cái nông nô ở điền trang. L. Tônxtôi đã in những truyện
ngắn và truyện đồng thoại của mình dành cho trẻ nhỏ trong những cuốn sách
nhan đề Sách học vần và Những cuốn sách Nga để đọc . Nhiều trẻ em đã học
đọc và viết từ những cuốn sách này. Tônxtôi đã đưa vào những cuốn sách
dành cho trẻ nhỏ nhiều câu chuyện và truyền thuyết lấy từ văn học cổ, từ cuộc
sống của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Ông đặc biệt thích thú các
truyện ngụ ngôn giản dị và ngắn mà nhà thông thái Cổ Hy Lạp Êdốp đã
sáng tác ra.
15
- Xem thêm -