Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy vần mới và rèn kỹ năng đọc hiểu từ ứng dụng...

Tài liệu ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy vần mới và rèn kỹ năng đọc hiểu từ ứng dụng trong dạy học vần lớp 1 trường th

.DOC
22
150
61

Mô tả:

MỤC LỤC TT 1 1.1 1.2 1.3 1.4 2 2.1 2.2 2.3 2.3.1 2.3.2 2.3.3 2.3.4 2.3.5 2.3.6 2.3.7 2.4 3 3.1 3.2 Nội dung Mở đầu Lí do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Nghiên cứu kĩ chương trình và nội dung bài dạy Lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học Lựa chọn hình ảnh, tài liệu cho bài học Lựa chọn, thiết kế bài dạy Ứng dụng CNTT vào dạy vần mới Rèn kỹ năng luyện đọc hiểu từ ứng dụng Tìm từ ngoài bài có vần đã học Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. Kết luận, kiến nghị. Kết luận Kiến nghị Trang 1 1 2 2 2 3 3 3 4 4 5 6 6 6 9 14 15 16 16 16 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học là một môn học nền tảng, đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông,...Vì thế mục tiêu của GD&ĐT, nhằm giúp giáo viên phát triển Công nghệ thông tin (CNTT) một cách mạnh mẽ. Nó 0 có tác động tới tất cả các mặt của đời sống xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự hiểu biết về văn hóa - xã hội ngày càng được nâng cao. Nhận thấy tầm quan trọng, tác dụng to lớn của CNTT Bộ GD & ĐT trong cuộc hội thảo Dự Án phát triển Tiểu học đã khẳng định: “Đã đến lúc việc ứng dụng CNTT trong nhà trường nói chung và trường Tiểu học nói riêng cần được quan tâm đúng mức hơn”. Nhận thấy vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy và học. Cán bộ giáo viên trường Tiểu học Nga Vịnh đang ứng dụng CNTT vào dạy học, công tác quản lí… Giáo viên soạn bài trên máy tính, lưu giữ tài liệu, khai thác thông tin, ra đề kiểm tra, thiết kế bài dạy điện tử, lấy tài liệu trên Internet để áp dụng vào soạn giảng trên máy chiếu để củng cố kiến thức, tạo hình ảnh sinh động, cụ thể cho HS dễ hiểu, nhớ lâu ... các em rất thích thú khi học tập. Đặc biệt với các em lớp 1, là HS đầu cấp đang chuyển sang một giai đoạn mới từ hoạt động chủ đạo là vui chơi, múa hát ở mẫu giáo sang hoạt động mới là hoạt động học. Tư duy của các em còn đơn giản mang tính trực quan, cụ thể. Sự hiểu biết về cuộc sống xung quanh các em còn hạn chế. Làm thế nào để tạo hứng thú trong giờ học, thu hút các em vào hoạt động học tập một cách chủ động, say mê yêu thích giờ học, thích đến trường đến lớp, điều này đã làm tôi trăn trở rất nhiều. Qua nghiên cứu chương trình lớp 1 tôi thấy môn Tiếng Việt có vai trò quan trọng, chiếm thời lượng rất lớn trong chương trình (10 tiết/tuần). Học tốt môn Tiếng Việt sẽ giúp các em học tốt các môn khác cũng là điều kiện để các em tiếp thu kiến thức ở các lớp trên. Bởi dạy Tiếng Việt là dạy ngôn ngữ để giao tiếp thông qua các hình thức: nghe, nói, đọc, viết. Nếu học xong lớp 1 mà các em không biết đọc, biết viết thì tương lai các em sẽ mù chữ cả đời. Để các em đọc thông, viết thạo thì phần Học vần đóng vai trò rất quan trọng. Các em có học tốt được phần Học vần thì các em mới có thể đọc tốt, viết tốt được đây là chìa khóa để các em chiếm lĩnh nội dung các môn học khác. Sau nhiều năm dạy lớp 1, tôi luôn trăn trở với câu hỏi: Làm thế nào để tiết Học vần đạt hiệu quả cao đồng thời mang lại hứng thú cho các em trong giờ học. Vì vậy năm học 2017-2018 tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và mạnh dạn “Ứng dụng CNTT vào dạy vần mới và rèn kĩ năng đọc hiểu từ ứng dụng trong dạy Học vần lớp 1” với mong muốn đem lại cho HS những tiết học sinh động, những hình ảnh phong phú, dễ hiểu, gần gũi với HS tạo hứng thú trong giờ học để các em nắm bài tốt. Mở rộng thêm sự hiểu biết về thiên nhiên, đất nước con người Việt Nam cho các em. 1.2. Mục đích nghiên cứu: - Giúp các em giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt qua ngôn ngữ giao tiếp. - Củng cố kiến thức cho bản thân. Qua đó thấy được những tồn tại trong giảng dạy phân môn Học vần ở trường Tiểu học hiện nay về đọc vần mới và từ ứng dụng cho các em. 1 - Nâng cao chất lượng rèn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho các em. - Đưa một số phương pháp giúp học sinh nghe, nói, đọc, viết tốt hơn. - Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: - Học sinh lớp 1A của trường Tiểu học Nga Vịnh năm học 2017 – 2018. - Dạy Học vần lớp 1. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Đọc các tài liệu dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học. - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. - Phương pháp tìm hiểu, điều tra. - Phương pháp trải nghiệm thực tế. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp thực hành theo mẫu. - Phương pháp khảo nghiệm. - Phương pháp thống kê xử lý số liệu. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: Cùng với sự phát triển nền kinh tế của đất nước, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Giáo dục được coi là “quốc sách hàng đầu”. Đảng và Nhà nước đưa ra những định hướng, hướng dẫn …cho sự nghiệp giáo dục phát triển phù hợp với xu thế phát triển của các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới. 2 - Chỉ thị 29/2001/CT-Bộ GD&ĐTcủa Bộ Trưởng Bộ GD&ĐTcũng nêu rõ: “Đối với GD&ĐT CNTT có tác động mạnh mẽ làm thay đổi phương pháp, phương thức dạy và học. CNTT là phương tiện tiến tới một xã hội học tập.” Nếu như ở bậc Mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, múa hát thì đến bậc học Tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Để giúp HS học tập được tốt chúng ta phải hiểu rõ về đặc điểm tâm lí HS Tiểu học, đặc biệt là HS đầu cấp. Ví dụ: - Tri giác: Ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, trẻ thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác. - Tư duy: Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát. - Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh Tiểu học: Ở đầu cấp Tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú ý không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò chơi hoặc cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập. Từ đặc điểm tâm lí của HS lớp 1 tôi đã cố gắng tạo nên những tiết học sinh động có hình ảnh trực quan phong phú để thu hút các em tham gia học tập một cách hứng thú, say mê, yêu thích môn học thích đến trường, lớp. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: * Về phía giáo viên: - Qua quá trình giảng dạy, dự giờ thăm lớp của các GV trong nhà trường tôi thấy việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy còn rất nhiều hạn chế. Hầu hết GV chỉ thực hiện trong những tiết thao giảng, thi GV giỏi còn lại các giờ học khác GV đều dạy “chay”. Bởi một tâm lí chung: ngại khó, ngại đổi mới, ngại tốn thời gian. - Nhiều GV cho rằng dạy Học vần lớp 1 không cần thiết phải ứng dụng CNTT bởi mọi người thường nghĩ: dạy sao miễn HS biết đọc, biết viết là được. Tranh có trong SGK, giải nghĩa từ giáo viên cùng HS giải nghĩa. HS chỉ cần nhận diện đúng mặt chữ để biết đọc, biết viết là được. Vì vậy tiết học thường diễn ra một cách rập khuôn, tẻ nhạt HS ghi nhớ một cách máy móc, nghĩa của từ trôi qua nhanh chóng không đọng lại trong trí nhớ của các em. - Hơn nữa cơ sở vật chất ở hầu hết các trường Tiểu học còn thiếu thốn. Đa phần các nhà trường thường chỉ có 1 bộ máy chiếu, chưa có máy Scan, máy chụp ảnh để phục vụ, hỗ trợ cho giáo viên ứng dụng CNTT trong dạy học. * Về phía học sinh: 3 Trong những năm giảng dạy ở trường Tiểu học Nga Vịnh cũng như qua khảo sát đầu năm học. Tôi thấy hầu hết các em đều là con em nhà nông kinh tế còn rất khó khăn. Điều kiện để tiếp cận với CNTT còn rất hạn chế. Các em chỉ mới tiếp xúc gián tiếp qua: tivi, đài… Nên sự hiểu biết về CNTT là hoàn toàn xa lạ với các em. Vì vậy qua tìm hiểu nội dung chương trình Tiếng Việt lớp 1 tôi thấy phần Học vần chiếm rất nhiều thời lượng (103 tiết). Quy trình tiết Học vần thống nhất. Đây là điều kiện thuận lợi để tôi thiết kế bài giảng điện tử. * Qua khảo sát tình hình: Ngay sau khi có Công văn HD của Phòng GD và ĐT Nga Sơn về công tác tuyển sinh đầu tháng 8. Tôi đã cùng các đồng chí trong tổ khối tiến hành khảo sát chất lượng HS theo phiếu của Nhà trường với 2 nội dung: nhận diện mặt chữ cái, tô chữ. Kết quả khảo sát lớp 1A, năm học 2017-2018 như sau: Sĩ số 24 hs Cuối tháng 8 HS nhận diện mặt chữ cái và tô chữ tốt SL tỉ lệ 1 4,2% HS nhận diện mặt chữ cái và tô chữ đạt yêu cầu SL tỉ lệ 7 29,1% HS nhận diện mặt chữ cái và tô chữ chưa đạt yêu cầu SL tỉ lệ 16 66,7% Qua khảo sát chất lượng tôi thực sự rất lo lắng bởi tỉ lệ HS chưa đạt yêu cầu rất nhiều. Hầu hết các em đều chưa nhận diện được các mặt chữ cái. Tay cầm bút để tô rất ngượng, không đúng quy định. HS rất rụt rè khi giao tiếp với thầy cô. Vì vậy chất lượng khảo sát đầu năm rất thấp. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: Để tạo được tiết học sinh động, hấp dẫn thu hút được các em đồng thời vẫn đảm bảo đầy đủ được nội dung kiến thức. Tôi đã tiến hành các giải pháp sau: 2.3.1. Nghiên cứu kĩ chương trình và nội dung bài dạy: Đây là tiêu chí quan trọng. Ngay từ khi được Ban giám hiệu phân công dạy học lớp 1. Tôi đã bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu kĩ nội dung chương trình, yêu cầu cần đạt của HS lớp 1 trong môn Tiếng Việt để tìm hiểu lựa chọn PPDH, hình thức tổ chức dạy học sao cho đạt hiệu quả nhất. Về nội dung chương trình môn Tiếng Việt lớp 1 được xác định như sau: + Về kĩ năng: - Nghe: nghe trong hội thoại, nghe hiểu văn bản. - Nói: nói trong hội thoại, nói thành bài. - Đọc: đọc thành tiếng, đọc thuộc lòng một số bài văn vần. - Viết: viết chữ, viết chính tả. + Về kiến thức: - Kiến thức về ngữ âm và chữ viết. - Từ vựng: học thêm 200 đến 300 từ. - Ngữ pháp: nhận biết cách dùng dấu chấm, dấu chấm hỏi. - Văn: làm quen với các dạng văn vần, văn xuôi. 4 + Hệ thống bài học: có cấu trúc chặt chẽ, vừa đảm bảo tính đồng tâm vừa đảm bảo tính phát triển ở cả hai phần Học vần và Luyện tập tổng hợp. Từ mục tiêu cần đạt được của môn học, tôi nghiên cứu kĩ nội dung của bài học để đưa ra PPDH phù hợp với đối tượng HS của mình. Những nội dung nào có thể huy động được từ sự hiểu biết, vốn sống của các em, những nội dung nào còn xa lạ cần phải mở rộng để cho các em được nhìn thấy từ hình ảnh, vật mẫu để các em dễ nhớ…Từ đó tôi thiết kế bài giảng đưa câu hỏi phù hợp với bài học. 2.3.2. Lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học: Mỗi PPDH, hình thức tổ chức dạy học đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Không có PPDH nào là vạn năng cả. Từ kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình đẳng. Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đó các em biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư tưởng tình cảm của người khác, đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực, hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn, không biết chữ con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành được một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời đại bủng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học nữa học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Môn Tiếng Việt trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Không những là động lực tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Mà còn là một khả năng không thể thiếu được của con người văn minh. Trong UDCNTT trong dạy học sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người học, việc dạy UDCNTT sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy học môn Tiếng Việt có một ý nghĩa to lớn nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Đối với HS lớp 1, tư duy của các em còn mang tính cụ thể, các em thường chú ý tới các màu sắc sặc sỡ, những hình ảnh sinh động. Từ đó GV phải biết lựa chọn PPDH sao cho phù hợp với nội dung bài dạy và đối tượng HS của mình thì giờ học mới đạt hiệu quả. Tập đọc là một phân môn thực hiện nhiệm vụ quan 5 trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Vì vậy, trong dạy Tiếng Việt không thể xem nhẹ yếu tố nào. 2.3.3. Lựa chọn hình ảnh, tài liệu cho bài học: Để có được hình ảnh, nội dung bài dạy phong phú, hấp dẫn HS, yêu cầu GV phải có sự đầu tư nhất định về thời gian, công sức để tìm kiếm tài liệu phục vụ cho bài dạy. Những tài liệu đó có thể lấy từ thực tế (vật mẫu), qua tranh ảnh, sách báo,… Đặc biệt Internet là một kho tài liệu vô cùng phong phú. GV cần phải có sự hiểu biết nhất định về các địa chỉ trên Internet để tìm kiếm hình ảnh, tài liệu cho bài dạy nhưng phải tìm hiểu lựa chọn những hình ảnh phù hợp với nội dung bài. Hình ảnh phải mang tính khoa học, tính chính xác để HS dễ hiểu và hiểu đúng bản chất của hình ảnh trực quan. 2.3.4. Lựa chọn, thiết kế bài dạy: Ứng dụng CNTT vào dạy học không chỉ hiểu đơn giản là sự trình chiếu một tiết dạy trên màn hình. Tiết học đó phải đảm bảo đầy đủ nội dung bài học theo chương trình quy định. Học sinh được học, được hiểu và nắm nội dung bài ngay trong tiết học và điều mà tôi quan tâm đó là tiết học đó phải thực sự hấp dẫn, thu hút được HS tạo được niềm hứng thú đam mê của các em đối với giờ học vần, để các em yêu thích môn học. Từ đó các em sẽ học bài tốt hơn. Tóm lại: Để bài soạn có cấu trúc chặt chẽ, logic được quy định bởi cấu trúc của bài giảng giáo viên phải xác định mục tiêu, trọng tâm và kiến thức cơ bản của bài học để làm nổi bật các mối quan hệ giữa các hợp phần kiến thức của bài. Từ đó xây dựng kịch bản, lấy tư liệu cho các hoạt động: hoạt cảnh (Animation), ảnh chụp (image); âm thanh (audio); và phim vi deo (videoclip). Sau đó, giáo viên lựa chọn phần mềm công cụ và hợp thức hoá nội dung tạo hiệu ứng trong các tương tác. Cuối cùng, chỉnh sửa, chạy thử và hoàn thiện nội dung bài dạy. 2.3.5. Ứng dụng CNTT vào dạy vần mới: Phần dạy vần mới có cấu tạo: vần, tiếng, từ. Đây là nội dung chính của bài học. HS nắm chắc được cấu tạo của vần mới, biết đọc vần thì các em mới đọc được tiếng và từ cũng như như các văn bản khác. Vì vậy để hướng dẫn các em ghép âm, vần thành tiếng mới, từ mới, đánh vần và đọc trơn tiếng, từ tôi đã thiết kế như sau: VD: Bài 38: eo- ao (Tiếng Việt 1- Tập 1-Trang 78) Hoạt động 1: Giới thiệu bài: Để thu hút học sinh ngay phần giới thiệu bài tôi đã tạo một slide có hình ảnh con mèo cho HS quan sát trực tiếp. Vì đây là một con vật hoàn toàn quen thuộc và gần gũi đối với các em. 6 Con mèo - Tôi giới thiệu cho HS hiểu về ích lợi của con mèo là bắt chuột để chuột khỏi phá đồ đạc trong nhà, ăn lương thực, thức ăn của gia đình mình. Từ tranh trên tôi chuyển sang giới thiệu vần eo. Tôi tạo một slide có vần eo. Hoạt động 2: Hướng dẫn HS học vần mới: + Luyện đọc vần eo - GV đọc mẫu, HS đọc trơn để ”vỡ” giọng. - GV nêu câu hỏi: ? Vần eo gồm có mấy âm? (HS TL) ? Âm nào đứng trước, âm nào đứng sau? (HSTL) đồng thời GV tạo slide có hiệu ứng khác nhau để âm e và âm o xuất hiện theo thứ tự âm e đứng trước âm o đứng sau. Lưy ý nhớ đổ màu cho 2 âm này để HS dễ nhìn thấy. - HS thực hành ghép chữ trên bảng cài: eo - HS luyện đánh vần: e – o - eo. + Luyện đọc tiếng: mèo - GV nêu câu hỏi: ? Có vần eo muốn có tiếng mèo ta làm thế nào? (HSTL) - HS thực hành ghép chữ trên bảng cài: mèo Để ghép được tiếng mèo tôi tạo slide với các hiệu ứng khác nhau để có âm m đứng trước vần eo đứng sau dấu huyền ở trên âm e. - HS luyện đọc. + Luyện đọc từ: con mèo. - Để có được từ con mèo tôi trình chiếu hình ảnh bức tranh con mèo đang hoạt động công việc chính để HS quan sát rút từ khóa: con mèo. GV nêu câu hỏi: ? Có tiếng mèo muốn có từ con mèo ta làm tiếng nào? ? Tiếng nào đứng trước tiếng nào đứng sau? HS thực hành ghép chữ trên bảng cài: con mèo Từ đây tôi tạo các slide có các hiệu ứng phù hợp: tiếng con đứng trước tiếng mèo đứng sau. Khi hoàn thiện xong các bước, GV để lại trên màn hình nội dung bài học: 7 eo mèo con mèo Từ các bước phân tích, tổng hợp như vậy HS nắm chắc được cấu tạo của các vần, tiếng, từ. Từ đó các em đọc bài tốt hơn. Hoạt động 3: Liên hệ: Để mở rộng thêm sự hiểu biết cho HS đồng thời tạo thời gian cho các em :”chơi mà học” ngay trong tiết học. Tôi giới thiệu cho các em về vai trò tác dụng của con mèo đối với đời sống con người như trò chơi “Mèo đuổi chuột”. Cụ thể: Sử dụng tranh con mèo trong phần giới thiệu bài, tôi giới thiệu cho các em hiểu được thức ăn của con mèo là cơm, cá, thịt... Công việc chính là leo trèo, rình vồ, bắt chuột cho nó khỏi phá hại tài sản của gia đình. Con mèo đang rình mồi - GV vừa giới thiệu đồng thời trình chiếu các slide yêu cầu HS quan sát tranh tìm tiếng ngoài bài có vần eo. Từ các hình ảnh được quan sát trực tiếp GV củng cố, mở rộng thêm vốn từ cho HS, HS dễ nhớ vần hơn đồng thời qua đó cũng mở rộng thêm sự hiểu biết về thiên nhiên, cuộc sống xung quanh cho HS điều này tôi thấy thực sự rất bổ ích và cần thiết cho đối tượng HS lớp tôi cũng như HS trong các vùng nông thôn. 8 * Vần: ao Quy trình tương tự. GV chỉ cần thay đổi nội dung tranh. Sau khi HS đã học xong 2 vần mới: eo-ao Tôi hướng dẫn HS so sánh vần để củng cố thêm kiến thức cho các em. - GV hỏi: Vần eo và vần ao giống nhau và khác nhau như thế nào? - HS trả lời: Giống nhau đều có âm o đứng sau, khác nhau vần eo có âm e đứng trước, vần ao có âm a đứng trước. Lưu ý trong quá trình phân tích: vần, tiếng, từ GV chú ý đổ màu cho vần mới để giúp HS dễ quan sát. * Tương tự đối với các vần khác. 2.3.6. Rèn kĩ năng luyện đọc hiểu từ ứng dụng: Sau khi các em học vần mới, đây là phần các em áp dụng vào để luyện đọc từ. Phần luyện đọc giúp các em đọc tốt hơn. Qua thực tế giảng dạy tôi thấy phần luyện đọc từ ứng dụng có rất nhiều từ ngữ xa lạ với học sinh, các em chỉ đọc vẹt một cách máy móc mà không hiểu được nghĩa của từ. Vì vậy các em rất chóng quên khi giải nghĩa từ. Chẳng hạn: Bài 39: Từ: sáo sậu. ( SGK Tiếng Việt 1-Tập 1- Trang 80) Bài 52: Từ: công viên. ( SGK Tiếng Việt 1-Tập 1- Trang 106) Bài 54: Từ: trung thu. ( SGK Tiếng Việt 1-Tập 1- Trang 110) Vì vậy tôi đã tìm ra giải pháp: - Tìm vật thật để HS được nhìn thấy cụ thể. - Tìm kiếm hình ảnh có các nội dung trên để cho các em quan sát. Để có hình ảnh cho HS quan sát tôi đã ứng dụng CNTT tạo các slide có hình ảnh để trình chiếu cho HS được nhìn thấy cụ thể. VD1: Bài 38: eo-ao (Tiếng Việt 1- Tập 1-Trang 78) - Trình chiếu trên màn hình 4 từ ứng dụng: cái kéo trái đào leo trèo chào cờ 9 - HS đọc thầm tìm tiếng có vần mới, GV tạo hiệu ứng đổ màu các vần mới mà HS vừa nêu: cái kéo trái đào leo trèo chào cờ - HS luyện đọc từ ứng dụng. Bên cạnh việc giúp HS luyện đọc tốt từ ứng dụng với các hình thức: phân tích (GV nhớ tạo hiệu ứng riêng và đổ màu các vần mới này cho HS dễ nhận thấy), HS đánh vần, đọc trơn GV cần chú ý giải nghĩa từ để mở rộng thêm sự hiểu biết cho HS, giúp các em nhớ từ lâu hơn. + Để HS hiểu nghĩa của từ “cái kéo” và tác dụng của nó tôi giải thích cho HS hiểu cái kéo cầm tay để cắt đồ vật, tôi tạo slide có hình ảnh cái kéo cho các em quan sát: cái kéo + Khi HS luyện đọc từ “leo trèo” tôi giải thích cho các em hiểu là di chuyển toàn thân lên cao bằng cách bám vào vật khác và bằng cử động của chân tay. Tôi tạo các slide có hình ảnh chú mèo đang trèo cây cau. Trình chiếu cho các em quan sát để các em thấy công việc của mèo là leo trèo, rình, vồ bắt mồi. leo trèo 10 + Để giúp các em biết từ “trái đào” tôi giải thích cho các em hiểu “trái đào” hay còn gọi là “quả đào” còn có tên gọi khác là quả sơn đào, mai đào, bạch đào, hồng đào. Quả đào hơi vàng, hơi đỏ, có vỏ mượt như nhung, cùi thịt trắng hoặc vàng, nhiều nước. Từ đó giúp các em hiểu được tác dụng của quả đào là loại trái cây ngon tuyệt vời và có nhiều tác dụng khác, ngoài ra đối với phái nữ làm đẹp da, giảm cân. trái đào + Khi các em luyện đọc từ "Chào cờ” tôi giải thích cho các em hiểu và cho HS quan clip sau để các em thấy được hình ảnh. Chào cờ 11 Lễ chào cờ đầu tuần vào mỗi sáng thứ hai, tất cả các thầy cô giáo, nhân viên và các em học sinh cùng đứng nghiêm trang tham gia chào cờ. VD2: Bài 39 : Từ: “sáo sậu”. ( SGK Tiếng Việt 1-Tập 1- Trang 80) sáo sậu Để cho HS hiểu biết được từ “sáo sậu” tôi giải thích cho HS hiểu là con vật thuộc họ chim, có thân nhỏ, lông thường màu đen hoặc đen xám, tím biếc hoặc xanh biếc, mỏ và chân thường màu vàng. Thức ăn của sáo là các loại hạt thực vật và các loại côn trùng nhỏ. Chúng là loại chim ở đất và cây, kiếm ăn trên đất, làm tổ trong hốc cây hay khe đá. Chúng có giọng hót rất hay nên thường bị bắt để nuôi nhốt. Tạo một Slide có hình ảnh con sáo sậu. Trình chiếu cho HS quan sát, tổ chức cho HS thảo luận theo nhóm đôi để tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật của sáo sậu và so sánh với một số con vật đang nuôi ở địa phương các em: con vẹt, con chim vành khuyên, con khiếu… về hình dáng bên ngoài. VD3: Bài 52: Từ: “công viên”. ( SGK Tiếng Việt 1-Tập 1- Trang 106) - Tạo một Slide có hình ảnh công viên trình chiếu cho HS quan sát, tổ chức cho HS thảo luận theo nhóm đôi để tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật của công viên. Công viên là khu vực được bảo vệ các nguồn thiên nhiên tự có hay trồng, một nơi vui chơi, giải trí đại chúng, các hoạt động văn hóa, hưởng thụ. Hình ảnh công viên quen thuộc với các em vì đó là khu vui chơi, giải trí. Để giúp các em hình dung ra “công viên” là nơi như thế nào và dành cho lứa tuổi nào? 12 công viên VD4: Bài 54: Từ: “trung thu” ( SGK Tiếng Việt 1-Tập 1- Trang 110). Tạo một Slide có hình ảnh trung thu. Trình chiếu cho HS quan sát, tổ chức cho HS thảo luận theo nhóm đôi để tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật của “Tết trung thu” là vào ngày 15 hay rằm tháng 8 âm lịch hằng năm là ngày tết của trẻ em (Tết Thiếu nhi) còn gọi là Tết trông trăng hay Tết hoa đăng. Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì được người lớn tặng đồ chơi và bày cỗ trông trăng còn được chơi các trò chơi….. Ngoài ra còn giúp các em hiểu được nguồn gốc và ý nghĩa của tết trung thu là do ta phỏng theo phong tục của người Tàu. Đây là dịp con cái hiểu được sự săn sóc quý mến của cha mẹ với con cái. Từ các hình ảnh được thấy, HS biết, hiểu được nghĩa của từ mà các em đọc. Từ đó các em nhớ từ lâu hơn và cũng từ những hình ảnh trực quan các em được mở rộng thêm sự hiểu biết về thiên nhiên, phong tục tập quán. Qua đó tôi giáo dục cho HS tình yêu thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào về dân tộc Việt Nam. trung thu 13 2.3.7. Tìm từ ngoài bài có âm vần đã học: Để củng cố, khắc sâu kiến thức cho HS về các âm, vần đã học đồng thời mở rộng, nâng cao hơn cho phù hợp với từng đối tượng HS. Chẳng hạn đối với HS đạt và chưa đạt, chỉ yêu cầu các em tìm tiếng, từ có chứa vần mới nhưng đối với HS tốt các em có thể nói câu có chứa vần mới. Dưới nhiều hình thức tổ chức khác nhau: trò chơi đối mặt, giải ô chữ, quan sát tranh điền vần… các em sẽ được “học mà chơi, chơi mà học”. VD: Bài 38: eo-ao (Tiếng Việt 1- Tập 1-Trang 78) - Tạo slide có hình ảnh chứa tiếng, từ có vần mới. - Tổ chức cho HS quan sát tranh, điền vần cho phù hợp: eo hay ao Quả t… dưa l…… 14 HS tìm vần phù hợp để điền: “quả táo”, ”dưa leo” GV tạo hiệu ứng để đổ màu vần eo cho HS dễ nhận thấy đồng thời giới thiệu thêm cho các em về tác dụng và ích lợi quả táo và quả dưa leo. Từ phần mở rộng, nâng cao kiến thức cho HS đồng thời bồi dưỡng HS tốt ngay trong từng bài học. Khi ứng dụng CNTT vào giờ học sẽ trở nên nhẹ nhàng, thu hút được các em vào hoạt động học tập một cách chủ động, say mê, các em sẽ yêu thích môn học và học bài tốt hơn. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường: Qua quá trình áp dụng thử nghiệm sáng kiến kinh nghiệm: “Ứng dụng CNTT vào dạy vần mới và rèn kĩ năng đọc hiểu từ ứng dụng trong dạy Học vần lớp 1” tôi thấy đạt được một số kết quả sau: - HS nắm được cấu tạo vần, tiếng, từ rất tốt đây là cơ sở để các em đọc câu, đọc đoạn, bài Tập đọc và các văn bản khác. - Khi các em nắm vững được cấu tạo của vần, tiếng, từ các em sẽ làm tốt các bài tập dạng: tìm tiếng trong bài có vần.., tìm tiếng ngoài bài có vần.., nói câu chứa tiếng có vần… trong các bài Tập đọc ở học kì 2. - Từ chỗ nắm chắc được cấu tạo của vần, tiếng, từ các em viết bài rất tốt. - Các em rất thích thú tham gia học tập một cách chủ động, tích cực. Tiết học trở nên sinh động hấp dẫn thu hút được học sinh. - Từ các hình ảnh trực quan học sinh được mở rộng thêm sự hiểu biết về thiên nhiên, đất nước, các phong tục tập quán truyền thống của người dân Việt Nam. - GV lên lớp nhẹ nhàng, không cần sử dụng bộ đồ dùng bằng chữ, tranh, ảnh trong quá trình dạy học. - Quy trình tiết Học vần tương đối thống nhất nên thuận tiện cho việc thiết kế giáo án điện tử. Qua một thời gian thử nghiệm trên lớp 1A trong năm học 2017 - 2018 do tôi phụ trách, kết quả thu được của phần Học vần nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung thu được kết quả như sau: Sĩ số 24 hs HS nhận diện vần mới và đọc từ ứng dụng tốt SL Tháng 2/2018 13 HS nhận diện vần mới và đọc từ ứng dụng đạt yêu cầu tỉ lệ SL tỉ lệ 54,2 10 41,6 HS nhận diện vần mới và đọc từ ứng dụng chưa đạt yêu cầu SL tỉ lệ 1 4,2 Từ kết quả đạt được trên, cho thấy số học sinh nói nhận diện vần mới và đọc từ ứng dụng đạt kết quả rất tốt. Như vậy việc thực hiện: "Ứng dụng CNTT vào dạy vần mới và rèn kĩ năng đọc hiểu từ ứng dụng trong dạy Học vần lớp 15 1". của phân môn Học vần - Tập đọc nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung sẽ được nâng cao rõ rệt và đạt hiệu quả tốt. 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận: Trong môn Tiếng Việt lớp 1 phần Học vần là một phần rất quan trọng. Nó là cơ sở là tiền đề để các em học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác. Khi các em nắm được các phụ âm đầu, thuộc hết các vần…thì các em sẽ đọc bài và viết bài một cách dễ dàng. Đây là điều kiện để các em học tốt các lớp trên. Từ khi ứng dụng CNTT vào dạy Học vần. HS học bài một cách sôi nổi, hứng thú, say mê học tập. Hiệu quả từ tiết học mang lại rất cao. Tiết học trở nên nhẹ nhàng. Sự gần gũi giữa cô và trò ngày càng thân thiết hơn. HS bạo dạn, tự tin hơn trong giao tiếp với thầy cô, bạn bè và mọi người xung quanh. Hiệu quả từ tiết học mang lại làm tôi phấn khởi rất nhiều. Bước đầu việc làm của tôi đã mang lại kết quả. Nó giúp tôi tự tin hơn trong công việc cũng như trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Từ đó tôi rút ra một số kinh nghiệm nhỏ như sau: - Mỗi thầy cô giáo cần thấy rõ trách nhiệm của mình làm sao phải tích cực trau dồi kiến thức về CNTT để đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy học, tạo sự gần gũi hơn đối với các em học sinh. - Lựa chọn PP, hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp với đối tượng HS của mình và đặc điểm tình hình của địa phương. - Tự bản thân GV phải có tinh thần học hỏi: “Học thầy không tày học bạn”. Bản thân tôi khi tiến hành ứng dụng CNTT vào dạy học vần lớp 1 tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn nhưng tôi cũng cố gắng khắc phục bằng cách học hỏi từ ban giám hiệu, đồng nghiệp... để mở rộng thêm sự hiểu biết cho bản thân. 3.2. Kiến nghị: Để ứng dụng CNTT vào giảng dạy được đồng bộ trong các trường Tiểu học. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất sau: - Đội ngũ GV có vai trò quyết định nhất trong việc ứng dụng các thành tựu của CNTT vào trường Tiểu học. - Tập huấn ứng dụng CNTT về sử dụng phần mềm dạy học để dạy các bộ môn cụ thể. Nên có các khóa tập huấn ngắn hạn cho các giáo viên nòng cốt của các trường Tiểu học. Sau đó triển khai mở rộng dần số lượng giáo viên cũng như số lượng trường có ứng dụng CNTT trong dạy học. - Nhà trường và phụ huynh học sinh cần tạo điều kiện để đầu tư về cơ sở vật chất như máy tính xách tay, máy chiếu, máy photocopy, máy scan, máy ảnh,... 16 Trên đây là một số giải pháp mà bản thân tôi đã thực hiện Ứng dụng CNTT vào dạy vần mới và rèn kĩ năng đọc hiểu từ ứng dụng trong dạy Học vần lớp 1 nhằm nâng cao hiệu quả trong phần Học vần lớp 1cũng như trong môn Tiếng Việt nói chung. Do vừa làm vừa học hỏi để rút kinh nghiệm cho nên không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến từ Ban Giám Hiệu nhà trường cũng như các đồng nghiệp để tôi rút kinh nghiệm và làm tốt hơn trong các năm sau. Tôi xin trân trọng cảm ơn. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Nga Vịnh, ngày 23 tháng 3 năm 2018 Tôi xin cam đoan trên đây là SKKN mà bản thân tôi đã tự viết. Không sao chép nội dung của người khác. Người viết: Mai Thị Mùi 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO - Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học. (Nhà xuất bản giáo dục) - Sách giáo khoa Tiếng Việt tập 1, tập 2 (Nhà xuất bản giáo dục ) - Sách giáo viên Tiếng Việt tập 1, tập 2 (Nhà xuất bản giáo dục) - GDTH (v/v Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học cấp tiểu học) - Sách thiết kế bài giảng Tiếng Việt 1. - Chỉ thị 29/2001/CT-Bộ GD&ĐT - Thông tư 22: 2016/TT- BGD&ĐT. - Tập tranh dạy Tiếng Việt 1 BGD & ĐT. 18 PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN TRƯỜNG TIỂU HỌC NGA VỊNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO DẠY VẦN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỚI VÀ RÈN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU TỪ ỨNG DỤNG TRONG DẠY HỌC VẦN LỚP 1A “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO DẠY VẦN TRƯỜNG TIỂU HỌC NGA VỊNH MỚI VÀ RÈN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU TỪ ỨNG DỤNG TRON DẠY HỌC VẦN LỚP 1A TRƯỜNG TIỂU HỌC NGA VỊNH” Người thực hiện: Mai Thị Mùi Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga Vịnh SKKN thuộc môn: Tiếng Việt Người thực hiện: Mai Thị Mùi Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường tiểu học Nga Vịnh SKKN thuộc môn: Tiếng Việt THANH HOÁ NĂM 2018 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất