Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chỉ đạo và quản lý ứng dụng cntt trong giảng dạy tại trường tiểu học phú nhiêu, ...

Tài liệu Chỉ đạo và quản lý ứng dụng cntt trong giảng dạy tại trường tiểu học phú nhiêu, huyện minh hóa, tỉnh quảng bình_tiểu luận cuối khóa lớp qlgd

.DOC
25
1865
95

Mô tả:

_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD MỤC LỤC Mục lục 1 1. Lí do chọn chủ đề 2 2. Tình hình thực tế về việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy tại trường Tiểu học Phú Nhiêu, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình” 4 2.1. Tình hình chung của nhà trường. 4 2.2. Thực trạng của việc ứng dụng CNTT trong quản lí và dạy học ở trường Tiểu học Phú Nhiêu. 4 2.3. Thống kê quá trình ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học từ năm 2009 đến nay, tại trường Tiểu học phú Nhiêu. 4 2.4. Những điểm mạnh, yếu, khó khăn, thuận lợi trong ứng dụng CNTT vào giảng dạy tại trường Tiểu học Phú Nhiêu. 6 2.5. Ứng dụng CNTT vào dạy học và vai trò của CBQL và giáo viên: 12 3. Kế hoạch hành động để ứng dụng CNTT vào quản lí và dạy học có hiệu quả. 13 3.1. Kế hoạch thực hiện trong vòng 1 tháng tới. 3.2. Kế hoạch thực hiện trong vòng 3 tháng tới. 3.3. Kế hoạch thực hiện trong vòng 1 năm tới. 3.4. Những lưu ý của giáo viên với giáo án điện tử 3.5. Các giải pháp thực hiện 4. Kết luận và kiến nghị 4.1. Kết luận. 13 13 14 14 14 16 16 17 4.2. Kiến nghị Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 1 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD 1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận Công nghệ thông tin (CNTT), là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để sử dụng, chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội. CNTT mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy học đồng loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường CNTT và truyền thông. Nếu trước kia người ta nhấn mạnh tới phương pháp dạy sao cho học sinh nhớ lâu, dễ hiểu, thì nay phải đặt trọng tâm là hình thành và phát triển cho học sinh các phương pháp học chủ động. Nếu trước kia người ta thường quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực hành kỹ năng vận dụng, thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Như vậy, việc chuyển từ “lấy giáo viên làm trung tâm” sang “lấy học sinh làm trung tâm” sẽ trở nên dễ dàng hơn. Nhờ sự phát triển của CNTT và truyền thông mà mọi người đều có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học nói chung và phần mềm dạy học nói riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy học này mà học sinh trung bình, thậm chí học sinh trung bình yếu cũng có thể hoạt động tốt trong môi trường học tập. Phần mềm dạy học được sử dụng ở nhà cũng sẽ nối dài cánh tay của giáo viên tới từng gia đình học sinh thông qua hệ thống mạng. Nhờ có máy tính điện tử mà việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh động hơn, tiết kiệm Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 2 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo phương pháp truyền thống, chỉ cần “bấm chuột”, vài giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội dung của bài giảng với những hình ảnh, âm thanh sống động thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú nơi học sinh. Thông qua giáo án điện tử, giáo viên cũng có nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học. Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của CNTT và truyền thông đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc, cách học tập, cách tư duy và quan trọng hơn cả là cách ra quyết định của con người. Trong những năm gần đây, ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học và quản lý giáo dục nói chung và trường Tiểu học Phú Nhiêu, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình (Sau này chỉ viết: trường tiểu học Phú Nhiêu) không còn là vấn đề mới mẻ. Mỗi giáo viên trường Tiểu học Phú Nhiêu đều thấy rõ và khẳng định được tầm quan trọng của CNTT trong việc hỗ trợ công tác giảng dạy, quản lý học sinh. Đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng CNTT vào dạy học là yêu cầu trọng tâm của ngành giáo dục nói chung và của nhà trường nói riêng. Để nâng cao chất lượng giáo dục người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng sử dụng các phương pháp tích cực kết hợp với các thành tựu của CNTT, để trong một tiết dạy học sinh được hoạt động, thực hành, thảo luận và suy nghĩ nhiều hơn. Việc sử dụng máy tính làm phương tiện dạy học có tác dụng làm tăng hiệu quả sư phạm của nội dung và phương pháp dạy học lên rất nhiều. Nhưng làm thế nào để việc ứng dụng công nghệ thông tin đạt hiệu quả cao và đồng đều ở mỗi giáo viên. Làm thế nào để tất cả thầy cô biết sử dụng và sử dụng có hiệu quả là một yêu cầu đặt ra đối với người làm công tác quản lí chuyên môn trong nhà trường. Đó là lí do tôi chọn đề tài “Chỉ đạo và quản lý ứng dụng CNTT trong giảng dạy tại trường Tiểu học Phú Nhiêu, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình” 2. Tình hình thực tế về việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy tại trường Tiểu học Phú Nhiêu, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình” Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 3 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD 2.1. Tình hình chung của nhà trường. Trường Tiểu học Phú Nhiêu đóng trên địa bàn xã Thượng Hóa, một xã biên giới của huyện Minh Hóa, nơi miền tây của tỉnh Quảng Bình. Là một trong những xã khó khăn của huyện, địa bàn xa trung tâm, dân cư thưa thớt, 100% là sản xuất nông nghiệp với canh tác chính là cây ngô, lạc mỗi năm chỉ có một vụ. một bộ phận nhân dân ở đây là người dân tộc nên trình độ tiếp thu, tiếp cận cái mới còn rất hạn chế. Từ trước năm 2004 đường giao thông đến nơi đây rất khó khăn, gần như không có đường cho xe ô tô, xe máy cũng chỉ đi được vào mùa khô, không có điện, những phương tiện nghe nhìn phổ thông nhất cũng không có, người dân gần như cô lập trong một địa bàn nhỏ hẹp: thôn Phú Nhiêu. Trường Tiểu học Phú Nhiêu nằm dưới chân đồi, cách một con suối nhỏ đó là một trở ngại lớn cho quá trình dạy học ở nơi đây. Bởi hằng năm vào mùa mưa (tháng 9 - 11) thì gần như cả thôn ngập chìm trong nước (người dân thì đã quen “sống chung với lũ”). Và học sinh phải nghỉ học, thầy cô cũng không thể đến được trường. Từ năm 2004 đến nay, thôn Phú Nhiêu đã có sự đổi thay đáng kể khi có đường mòn Hồ Chí Minh đi ngang qua, giao thông thuận tiện cùng với sự phát triển của các phương tiện nghe nhìn (tivi dùng chảo DTH thu sóng vệ tinh, điện thoại di động) làm cho người dân có cơ hội tiếp thu công nghệ và đặc biệt là nhận thức được “mở mang”. Internet bước đầu đã đến địa bàn. Mặc dù chưa có cáp quang, Internet băng thông rộng nhưng sóng 3G đã đến được những khu vực xa nhất, khó khăn nhất. Cùng với sự chuyển đổi của địa phương, thì trường Tiểu học Phú Nhiêu là đơn vị đi đầu trong việc tiếp thu và ứng dụng các thiết bị công nghệ trong dạy học và quản lý. Thế nhưng mãi đến năm 2009 thì việc ứng dụng các phương tiện khoa học kĩ thuật vào dạy học mới thực sự bắt đầu khi có một số giáo viên trẻ được phân công đến giảng dạy tại trường. Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 4 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD 2.2. Thực trạng của việc ứng dụng CNTT trong quản lí và dạy học ở trường Tiểu học Phú Nhiêu. Trường Tiểu học Phú Nhiêu chỉ có 8 lớp, trong đó có 3 lớp ghép hai độ tuổi, với 68 học sinh và 15 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Thiết bị công nghệ hiện đại nhất vào thời điểm năm học 2009 - 2010 là một chiếc máy vi tính được trang cấp mà cũng chỉ dùng vào mục đích duy nhất là đánh văn bản. Nhận thấy CNTT là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Đến năm học 2010 - 2011nhà trường đã đầu tư mua một máy chiếu Projecter và một số máy tính cho một số bộ phận làm việc, riêng máy tính phòng P.Hiệu trưởng được kết nối Internet. Nhiều giáo viên cũng đã tự mua được máy tính cho riêng mình. Thế nhưng việc sử dụng máy tính như là công cụ hỗ trợ quản lý và giảng dạy của cán bộ Quản lý và giáo viên trường Tiểu học Phú Nhiêu còn quá nhiều hạn chế. Máy tính chỉ sử dụng vào đánh văn bản, Internet bỏ không vì không biết sử dụng và khai thác. Soạn bài, thiết kế bài giảng điện tử chỉ có một người duy nhất làm được và cũng chỉ có lớp của thầy giáo đó là học sinh thỉnh thoảng được học những tiết có “máy chiếu”. Và… những tiết có sử dụng máy chiếu học sinh thích thú với cái máy hơn là nội dung bài học. Thấy được những hạn chế đó, lãnh đạo nhà trường đã tổ chức nhiều đợt tập huấn, nhiều buổi học để giáo viên làm quen và biết được cách sọan bài cũng như tầm quan trọng của ứng dụng CNTT trong dạy học. Từ chỗ chỉ một giáo viên soạn được giáo án điện tử (tính từ năm học 2009 2010) thì đến nay đa phần giáo viên của trường đã thiết kế và soạn được bài giảng điện tử. Trong các kì thi GVDG cấp trường có hơn 50% các tiết dạy bằng giáo án điện tử có chất lượng khá tốt. Đội ngũ giáo viên của trường ngày càng tỏ ra thành thạo hơn trong việc thiết kế, chỉnh sửa và trình chiếu. Chất lượng giáo án điện tử ngày càng được nâng cao. Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 5 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD 2.3. Thống kê quá trình ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học từ năm 2009 đến nay, tại trường Tiểu học phú Nhiêu. - Trong quản lí: TT 1 Năm học 2009 - 2010 Những ứng dụng Gửi và nhận thư điện tử (Email) Làm đề thi và kiểm tra. Biểu mẫu báo cáo, tập hợp. 2 2010 - 2011 Gửi và nhận thư điện tử (Email) Làm đề thi và kiểm tra Biểu mẫu báo cáo, tập hợp. 3 2011 - 2012 Gửi và nhận thư điện tử (Email) Làm đề thi và kiểm tra Biểu mẫu báo cáo, tập hợp. Quản lý thư viện (phần mềm) 4 2012 - 2013 Gửi và nhận thư điện tử (Email) Làm đề thi và kiểm tra Biểu mẫu báo cáo, tập hợp. Quản lý thư viện (phần mềm) Bỗi dưỡng thường xuyên qua mạng. 5 2013 - 2014 Gửi và nhận thư điện tử (Email) Làm đề thi và kiểm tra Biểu mẫu báo cáo, tập hợp. Quản lý thư viện (phần mềm) Bỗi dưỡng thường xuyên qua mạng. Quản lý nhân sự (PMIC) Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 6 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD Phổ cập giáo dục (phần mềm) - Đối với giáo viên TT Năm học 1 2009 - 2010 2 2010 - 2011 Những ứng dụng Soạn giáo án (in) Soạn giáo án (in) 3 2011 - 2012 Soạn giáo án (in) Thiết kế bài giảng điện tử 4 2012 - 2013 Gửi và nhận thư điện tử (Email) Biểu mẫu báo cáo, tập hợp. Soạn giáo án (in) Thiết kế bài giảng điện tử Bỗi dưỡng thường xuyên qua mạng. Tổ chức Rung chuông vàng (HDDNGLL) 5 Gửi và nhận 2013 thư điện tử - (Email) 2014 Biểu mẫu báo cáo, tập hợp. Soạn giáo án (in) Thiết kế bài giảng điện tử Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 7 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD Bỗi dưỡng thường xuyên qua mạng. Tổ chức Rung chuông vàng (HDDNGLL ) Thiết kế bài giảng E. learning - Số lượng tiết dạy có ứng dụng CNTT TT Năm học Số tiết 1 2009 - 2010 02 2 2010 - 2011 04 3 2011 - 2012 08 4 2012 - 2013 12 5 2013 - 2014 20 GV thực hiện Nhìn chung qua hằng năm tỷ lệ ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học được ứng dụng ngày một nhiều hơn, dù cho việc ứng dụng đó chưa thực sự đồng đều hoặc có những ứng dụng chỉ có một hoặc vài giáo viên thực hiện được. Nhưng bảng số liệu cũng cho thấy được sự thay đổi và sự cần thiết của ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học. 2.4. Những điểm mạnh, yếu, khó khăn, thuận lợi trong ứng dụng CNTT vào giảng dạy tại trường Tiểu học Phú Nhiêu. Như đã trình bày ở phần lí do, CNTT là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 8 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD nghị quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội. CNTT là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất nước (Chỉ thị Số: 55/2008/CT- BGDĐT) Trong nhà trường phổ thông nói chung và trường Tiểu học Phú Nhiêu nói riêng CNTT được ứng dụng vào nhiều hoạt động nhưng chủ yếu là: 2.4.1. Ứng dụng CNTT trong soạn giáo án. a. Soạn giáo án bằng máy vi tính (đánh máy giáo án): Hiện nay các trường đều khuyến khích giáo viên soạn giáo án bằng máy vi tính, đặc biệt trong các đợt hội giảng cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh. *Những ưu điểm: Giáo án đánh máy có hình thức đẹp, trình bày khoa học, dễ sử dụng khi giảng dạy. Rút ngắn thời gian soạn giáo án do có sử dụng những ưu điểm của phần mềm soạn giáo án ( Microsoft Word hay Open office), các phần mềm này sẽ tự động hóa một số thủ tục của giáo án theo một mẫu nhất định do người soạn đạt ra : ví dụ như tuần, ngày soạn, ngày dạy, kẻ khung, các mục của giáo án… Soạn giáo án bằng máy vi tính làm cho chúng ta có thể chỉnh sửa rất dễ dàng. Ngoài ra, phầm mềm còn cho phép chúng ta sưu tầm, lựa chọn sao chép những ý tưởng, nội dung hay trong các giáo án cũ của mình, của đồng nghiệp. Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 9 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD Có thể lưu trữ đến các năm học sau để bản thân, đồng nghiệp sử dụng tham khảo. Có thể sử dụng để đưa các nội dung cần thiết vào bài giảng điện tử một cách nhanh chóng mà không cần gõ lại. Qua việc soạn giáo án, giáo viên được tìm hiểu, học hỏi thêm về công nghệ thông tin từ đó nâng cao trình độ tin học của giáo viên góp phần nâng cao phong trào ứng dụng CNTT trong dạy học. Giáo viên có thể dễ dàng đưa vào giáo án những sơ đồ, biểu đồ, tranh, ảnh minh họa…. điều mà giáo án viết tay khó có thể làm được. *Thực trạng: Nhiều giáo viên chưa có đủ điều kiện có được bộ máy tính, máy in để soạn giáo án. Nhiều giáo viên còn lúng túng khi sử dụng máy vi tính và các phần mềm văn phòng để soạn giáo án, chưa biết khai thác mạng internet để sưu tầm giáo án, tư liệu phục vụ cho giáo án. Một số giáo viên lợi dụng mạng internet để khai thác một cách tiêu cực giáo án của đồng nghiệp như: sao chép y nguyên, không có sự nghiên cứu, không có chỉnh sửa cho phù hợp với điều kiện dạy học của mình. Giáo án sao chép từ nhiều nguồn nên bộ font chữ rất lộn xộn, không thực hiện theo đúng thể thức trình bày văn bản thông thường. Giáo viên không đủ trình độ tin học để sửa lỗi theo ý mình. Việc đóng bìa, kẹp, đánh số trang còn rất tùy tiện. Giáo án in không đủ cơ sở pháp lý: Không ghi họ tên, trường, lớp hoặc ghi bằng bút mực(ghi sau) Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 10 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD Thậm chí có giáo viên còn nhờ hoặc thuê người làm giáo án (chủ yếu là mua tại của hàng photocopy) cốt để có giáo án đối phó với kiểm tra, hầu như không xem lại giáo án. Những việc làm đó không những không mang lại hiệu quả cho việc dạy học bằng giáo án đánh máy mà còn làm cho người dạy lười không nghiên cứu bài dạy và kết quả là làm cho tiết dạy đạt hiệu quả thấp. b. Xây dựng bài giảng với sự hỗ trợ của máy tính. Khái niệm giáo án điện tử và bài giảng điện tử là khái niệm mà nhiều nhà giáo, nhà nghiên cứu vẫn còn tiếp tục tranh luận, ở đây tôi chỉ muốn nói nên những hiểu biết của mình về việc ứng dụng CNTT trong xây dựng bài giảng. Bài giảng có ứng dụng CNTT nói chung được xây dựng bằng máy tính với các phần mềm hỗ chợ chuyên dụng như: phần mềm trình chiếu Microsoft PowerPoint, phần mềm Movie Maker, Violet, Geo Sketchpad, Carbi, Crocodile Clips, Crocodile Physics, Macromedia Flash,… và sự hỗ trợ của máy chiếu Projecter, camera cùng các thiết bị khác. Những năm gần đây, việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là một quá trình đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến đổi mới về phương tiện, các thiết bị dạy học ngày càng phong phú về số lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao. Việc xây dựng và ứng dụng các phần mềm vào dạy học hiện nay đang được nhiều trường, nhiều giáo viên thực hiện để thiết kế bài giảng nhằm đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Đây là một trong những hướng đổi mới PPDH đạt hiệu quả. Do đó, CNTT có vai trò rất quan trọng trong dạy học, nó mang lại hiệu quả cao, tiết học sinh động, học sinh hứng thú học tập và tích cực tham gia xây dựng bài. Tuy nhiên, khi ứng dụng CNTT vào thiết kế bài giảng, giáo viên cần đảm bảo các nguyên tắc chung, các quy trình thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT sao cho có hiệu quả. Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 11 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD Dạy học với CNTT đòi hỏi người giáo viên phải biết định hướng, điều khiển quá trình học tập, giúp học sinh tự mình lĩnh hội tối đa kiến thức. Vì vậy giáo viên cần phải tích cực bồi dưỡng kiến thức tin học, sẵn sàng đổi mới phương pháp giảng dạy và ứng dụng CNTT vào dạy học phù hợp với đặc trưng bộ môn. c. Các nguyên tắc chung của một bài giảng có ứng dụng CNTT. Đảm bảo tính khoa học sư phạm và khoa học tin học. Đảm bảo tính hiệu quả, tính thực tế, tính giáo dục. Đảm bảo tính mở và tính phổ thông. Đảm bảo tính cập nhật nội dung kiến thức bài giảng. Cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung kiến thức cơ bản của bài học, xác định trọng tâm bài và căn cứ trình độ nhận thức của học sinh cùng các điều kiện hiện có để thiết kế bài giảng Đa dạng hóa kiến thức. Ứng dụng CNTT đảm bảo quan điểm dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, tránh hiện tượng nhìn chép. 2.4.2. Một số kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học. a. Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT. Ba khâu quan trọng nhất: soạn giáo án, trình chiếu giáo án và hướng dẫn học sinh ghi chép. Mỗi lớp học thường có trung bình từ 25 - 35 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy giáo án điện tử thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời để ảnh trên màn hình rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những học sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay công thức trên màn chiếu. Do đó để học sinh có thể ghi chép được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số nguyên tắc về hình thức sau: - Các trang trình chiếu phải đơn giản và rõ ràng. Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 12 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD - Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi slide. Về màu sắc của trang trình chiếu: Màu sắc không được lòe loẹt, không nên dùng các hình đồ họa vui nhộn gây mất tập trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản, chỉ nên sử dụng chữ đậm màu (đen, xanh đậm, đỏ đậm…)trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng. Về font chữ: Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các đề mục có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau”, màu xanh mực cho học sinh ghi vào vở…) Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn, không chân (Arial, Tahoma, VNIHelve…) hạn chế dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu. Về cỡ chữ: Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, trong kỹ thuật video, khi chiếu trên màn hình TV (25 inches) cho vài người xem hay dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho khoảng 50 người xem thì cỡ chữ thích hợp nên từ khoảng 20 đến 30 trở lên mới đọc rõ được. Tuy nhiên, với đối tượng học sinh tiểu học, không nên dùng cỡ chữ quá to, trông trang chiếu thô và không mỹ thuật. Về trình bày nội dung trên một slide: Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền trang từ trên xuống, từ trái qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp (thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu lên màn. Khi khai thác đa phương tiện (hình ảnh, âm thanh, hiệu Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 13 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD ứng…) cần phải được lựa chọn cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh. Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin như ta mong muốn. Trình chiếu giáo án Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay phân đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có nội dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ chép hơn. Hướng dẫn học sinh ghi chép: Cần thể hiện bố cục của bài giảng trong suốt quá trình giảng dạy. (vd: Tên bài dạy, các đề mục) để học sinh dễ dàng củng cố. Cần quy định màu chữ cho học sinh ghi vào vở. (vd: màu xanh mực…) và cần quy định để học sinh có thể tự ghi khi nhìn màn hình. Trong tiết học, học sinh phải có sẵn trước mặt sách giáo khoa quy định của Bộ GD&ĐT và dùng vở để ghi chép. Khi trình chiếu Power Point và giảng bài, giáo viên hướng dẫn học sinh cách ghi bài học vào vở như sau: Những kiến thức căn bản, thuộc nội dung giáo khoa quy định sẽ nằm trong các slide có ký hiệu riêng. Những nội dung có tính thuyết minh, minh họa, mở rộng kiến thức sẽ nằm trong các slide khác, không có ký hiệu riêng. Với những slide này, học sinh tự chọn học nội dung để chép tùy theo sự hiểu bài của mình. Với những kiến thức căn bản nhưng khá dài, nếu chép hết sẽ ảnh hưởng đến tiến độ của tiết học, sau khi giảng xong giáo viên hướng dẫn học sinh đánh dấu trong sách giáo khoa để về nhà chép (học sinh sẽ chừa khoảng trống thích hợp). Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 14 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD Nguyên tắc giáo dục chủ động là lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên trong quá trình giảng dạy là phải đảm bảo được việc học sinh nắm được kiến thức trọng tâm, nhưng giáo viên không có quyền bắt học sịnh công nhận tất cả các đơn vị kiến thức. Chính bản thân học sinh, trong khi tham gia tích cực vào tiết học, sau khi tìm hiểu lại sách giáo khoa và tìm tòi ở các phương tiện hỗ trợ, sẽ chọn lọc đúc kết những kiến thức của tiết học và ghi chép, lưu trữ cho riêng mình. b. Các tiêu chí đánh giá bài giảng: Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục tiêu, nội dung, tiến trình bài giảng. Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy tính tích cực của học sinh. Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy định, có tính hệ thống và khoa học. Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, nhằm phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi trường tương tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau. Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện. Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo dục. c. Khai thác mạng Internet phục vụ dạy học: Một trong các điều kiện quan trọng nhất để tăng cường hiệu quả giáo dục và chất lượng giảng dạy là tìm kiếm nguồn tư liệu phong phú và phù hợp để bổ sung những nội dung được quy định trong chương trình và sách giáo khoa. Internet là nguồn tư liệu vô tận cho các bài giảng sẽ giúp giáo viên và học sinh đáp ứng được yêu cầu đó . 2.4.3. Lợi ích từ internet đối với giáo viên: Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 15 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD Giáo viên có thể tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ tin học khi tham gia vào các diễn đàn, các câu lạc bộ, hay tìm hiểu các trang Web từ mạng internet. Giáo viên có thể tải các giáo án, bài giảng, tư liệu, đề thi và tài liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy. Qua mạng internet giáo viên có thể tham gia vào các diễn đàn của học sinh, các trường bạn, các blog … để tìm hiểu về tâm lý, sở thích của học sinh từ đó có những phương pháp giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao. Giáo viên có thể lập blog, trang web hay các câu lạc bộ để trao đổi cùng đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ sư phạm của mình. 2.4.4. Hạn chế: Nhiều giáo viên còn chưa thấy được các lợi ích từ việc khai thác internet, có nhiều người nghĩ rằng internet chỉ là để đọc báo, để giải trí, cũng có người sợ mình không biết cách khai thác mạng. Nhiều GV chưa có điều kiện để nối mạng internet hoặc là không có thời gian nghiên cứu khai thác mạng internet phục vụ công tác dạy học. Có những giáo viên còn yếu về kiến thức, kĩ năng tin học, rất lúng túng khi truy cập, khai thác mạng internet (tìm trang, download, lưu trữ, đưa vào bài giảng…) Có những giáo viên ngại học, ngại tìm hiểu nghiên cứu để nâng cao trình độ, bằng lòng với những kiến thức mình đã có. 2.5. Ứng dụng CNTT vào dạy học và vai trò của CBQL và giáo viên: Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách dạy và học đã được CBGV trường tiểu học Phú Nhiêu hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con đường ngắn để nâng cao chất lượng dạy học trong các nhà Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 16 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD trường, tuy nhiên để CBGV có thể làm chủ được CNTT còn nhiều vấn đề cần bàn… Việc ứng dụng CNTT trong dạy học cho đến nay không còn mới mẻ, nhưng cũng chưa hẳn đã được phổ biến rộng rãi, nhiều giáo viên còn e dè, ngại ngần, sử dụng CNTT trong dạy học một cách máy móc, thụ động…Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều giáo viên đã ăn sâu cách dạy học truyền thống, ngại đổi mới, bên cạnh đó trình độ tin học trong giáo viên chưa đồng đều, nhiều giáo viên chưa được đào tạo cơ bản. Cùng với đó, trang thiết bị, máy móc để phục vụ việc dạy học còn thiếu thốn… Việc đầu tư hệ thống máy tính, máy chiếu đòi hỏi nguồn kinh phí không nhỏ, máy chiếu projerter lại có khấu hao lớn, khi bị sự cố thì việc sửa chữa rất tốn kém. Việc lắp đặt máy chiếu cũng đòi hỏi phải có kỹ năng, nhiều giáo viên chưa tự làm được, những khi có trục trặc không thể tự xử lý nếu không có trợ giúp. Đứng trước những khó khăn này, nếu người thầy không thực sự say mê nghề nghiệp, không có sự lao động sáng tạo thì sẽ khó mà đưa được CNTT vào giảng dạy…. Đổi mới phương pháp dạy học, yếu tố quyết định là bản thân người giáo viên có quyết tâm hay không. Nếu quyết tâm cao thì chắc chắn sẽ làm được. Vai trò của CBQL: Chúng ta đều thấy rõ muốn đổi mới dạy học và ứng dụng CNTT có hiệu quả trong nhà trường, trước hết chính người hiệu trưởng cần phải hiểu rõ tầm quan trọng của đổi mới dạy học và vai trò của ứng dụng CNTT vào dạy học, phải giúp giáo viên hiểu được thế nào là đổi mới dạy học và muốn đổi mới dạy học giáo viên phải làm gì. Đồng thời hiệu trưởng cũng phải tạo điều kiện cơ sở vật chất để việc thực hiện đổi mới dạy học của GV có thể thực hiện… Khi bắt tay vào thiết kế bài giảng điện tử, nhiều giáo viên tỏ ra mệt mỏi vì công sức phải bỏ ra để có một tiết dạy không phải tính bằng giờ mà bằng ngày. Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 17 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD Chính vì vậy, những khó khăn và tốn kém về thời gian, vật chất này cần được nhà trường hiểu rõ để có sự động viên và đãi ngộ hợp lý, có sự hỗ trợ kinh phí …Hơn nữa, nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua giảng dạy bằng phương tiện hiện đại, có tổng kết, biểu dương, khen thưởng nhằm tạo thêm khí thế sôi nổi và để những giáo viên còn e ngại có những bước đi mạnh dạn hơn, đặc biệt là giáo viên đã có tuổi và giáo viên mới vào nghề. Đẩy mạnh việc tổ chức các hội thảo, trao đổi kinh nghiệm giữa các giáo viên, từ đó đề xuất với chuyên môn những giải pháp góp phần nâng cao trình độ tin học cho giáo viên, có chế độ đãi ngộ cho những giáo viên có bài giảng điện tử có giá trị, tích cực lao động sáng tạo trong nghề, đồng thời đầu tư cơ sở vật chất phục vụ việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy… 3. Kế hoạch hành động để ứng dụng CNTT vào quản lí và dạy học có hiệu quả. Vạn sự khởi đầu nan, ứng dụng CNTT vào giảng dạy ban đầu là một bài toán khó với giáo viên, nhưng qua một thời gian không dài, giáo viên trường Tiểu học Phú Nhiêu, từ làm quen đến biết và có một số giáo viên đã thành thạo trong việc ứng dụng CNTT vào dạy học. Với việc ứng dụng CNTT giáo viên có thể tổ chức tiết học một cách sinh động, các bài giảng không chỉ mang hơi thở cuộc sống hiện đại gần gũi hơn với học sinh mà còn giúp cả người dạy và người học được tiếp xúc với các phương tiện hiện đại, làm giàu thêm vốn hiểu biết của mình. Tuy nhiên, người giáo viên cần xác định được: Ứng dụng CNTT không đồng nhất với đổi mới phương pháp dạy học, CNTT chỉ là phương tiện tạo thuận lợi cho triển khai phương pháp tích cực chứ không phải là điều kiện đủ của phương pháp này. Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá trình dạy học. Để một giờ học có ứng dụng CNTT là một giờ học phát huy tính tích cực của học sinh thì điều kiện tiên quyết là việc khai thác CNTT phải đảm bảo các yêu cầu và tính đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực mà giáo viên sử dụng. Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 18 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD Việc ứng dụng CNTT vào dạy học góp phần đổi mới phương pháp dạy học là một công việc khó khăn, lâu dài, đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển CNTT trong dạy học ở trường Tiểu học Phú Nhiêu có hiệu quả. Tôi đã đề ra kế hoạch hành động cụ thể như sau: 3.1. Kế hoạch thực hiện trong vòng 1 tháng tới. Điều tra, khảo sát lại cơ sở vật chất của nhà trường, về máy chiếu, phòng học, các thiết bị hỗ trợ khác… Điều tra lại số lượng máy tính cá nhân của mỗi giáo viên, đề xuất Hiệu trưởng khảo sát lại khả năng soạn bài, thiết kế bài giảng và quá trình giảng dạy bằng giáo án điện tử của mỗi giáo viên. Khảo sát nhu cầu ứng dụng CNTT trong dạy học đối với giáo viên trong trường. 3.2. Kế hoạch thực hiện trong vòng 3 tháng tới. Tham mưu, đề nghị các cấp quản lí giáo dục tạo điều kiện trang bị những thiết bị cần thiết cho việc thực hiện giáo án điện tử như máy tính, máy chiếu đa năng, camera… Tổ chức các chuyên đề, tập huấn học tập về cách sử dụng máy chiếu, thiết lập các hiệu ứng trong PowerPoint, khai thác mạng internet cho giáo viên để họ có thể tự thiết kế giáo án điện tử cho mình, theo ý mình. Tránh việc phải nhờ soạn hộ hoặc chỉ biết nhấn chuột cho chạy các trang slide, không thể tự xử lí khi có sự cố. Tìm hiểu và nghiên cứu thêm những kỹ năng cơ bản và nâng cao trong việc sử dụng giáo án điện tử, khai thác mạng internet để làm phong phú thêm những dạng bài tập khác nhau. 3.3. Kế hoạch thực hiện trong vòng 1 năm tới. Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 19 _______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD Tham gia các buổi hội giảng, chuyên đề, tập huấn để thu nhận những góp ý chân thành từ đồng nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo phương pháp mới. Thăm dò và đánh giá chất lượng học sinh sau giờ học để nắm bắt được thực chất chất lượng của các em. Kịp thời điều chỉnh những bất cập trong quá trình giảng dạy với máy chiếu. 3.4. Những lưu ý của giáo viên với giáo án điện tử Tránh các quan điểm tiêu cực như cự tuyệt giáo án điện tử, chỉ dạy theo lối cổ điển “đọc chép” hoặc tuyệt đối hóa máy chiếu, học sinh thụ động tiếp thu “nhìn chép”. Chỉ nên coi máy chiếu là một trong những công cụ, phương tiện dạy học và cần được phối hợp với các công cụ phương tiện khác để làm cho giờ học phong phú và đạt hiệu quả cao hơn. 3.5. Các giải pháp thực hiện Biện pháp 1: Ngoài kiến thức chuyên môn cần phải trang bị những kiến thức tin học cơ bản nhất: Mặc dù giáo án điện tử chưa thực sự phổ biến trong tất cả đội ngũ nhưng bước đầu nó đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học và cách giảng dạy truyền thống. Việc dạy bằng giáo án điện tử sẽ giúp người thầy đỡ vất vả và tiết dạy thực sự hiệu quả hơn. Để làm được điều này người giáo viên cần: - Có kiến thức cơ bản về sử dụng máy tính - Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint hoặc các phần mềm tương tự. - Biết cách truy cập và khai thác tài nguyên Internet. - Có khả năng sử dụng một phần mềm chỉnh sửa ảnh, làm các ảnh động, cắt các file âm thanh … đơn giản. - Biết cách kết nối và sử dụng máy chiếu projecter. Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất