Tài liệu Lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền trung (2017)

  • Số trang: 64 |
  • Loại file: PDF |
  • Lượt xem: 1807 |
  • Lượt tải: 176

Mô tả:

b TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN NGUYỄN THỊ HỢI LỄ HỘI CẦU NGƢ CỦA CƢ DÂN VEN BIỂN MIỀN TRUNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Việt Nam học HÀ NỘI, 2017 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam, khoa Ngữ Văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô, đặc biệt là cô giáo - TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cho tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này. Khóa luận được hoàn thành, song không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Hợi LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo - TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trong khóa luận này. Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Hợi MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4 6.Cấu trúc của khóa luận ................................................................................. 4Z NỘI DUNG ....................................................................................................... 6 Chương 1 ......................................................... Error! Bookmark not defined. ĐẶC ĐIỂM LỄ HỘI CẦU NGƯ CỦA CƯ DÂN VEN BIỂN ........................ 6 MIỀN TRUNG .................................................................................................. 6 1.1. Đối tượng thờ phụng .................................................................................. 6 1.1.1. Thờ cá ...................................................................................................... 6 1.1.2. Thờ người có công .................................................................................. 8 1.2. Thời gian, địa điểm tổ chức lễ hội cầu ngư................................................ 9 1.2.1 Thời gian tổ chức ..................................................................................... 9 1.2.2. Địa điểm tổ chức .................................................................................. 11 1.3. Các hoạt động của lễ hội cầu ngư ............................................................ 12 1.3.1. Các hoạt động diễn ra trước lễ hội ........................................................ 12 1.3.2. Các hoạt động có tính chất nghi thức.................................................... 13 1.3.3. Các hoạt động có tính chất vui chơi, giải trí ......................................... 18 Chương 2 ......................................................... Error! Bookmark not defined. NHỮNG NÉT VĂN HÓA ĐẶC SẮC TRONG LỄ HỘI CẦU NGƯ CỦA CƯ DÂN VEN BIỂN MIỀN TRUNG .................................................................. 24 2.1. Tục thờ cá Ông – tín ngưỡng cổ xưa của cư dân ven biển ...................... 24 2.1.1. Nguồn gốc tục thờ cá Ông .................................................................... 24 2.1.2. Đặc điểm thờ cúng ............................................................................... 28 2.2. Hát bả trạo – hình thức diễn xướng đậm chất văn hóa vùng biển ........... 34 2.2.1. Về tên gọi "Hát bả trạo" ........................................................................ 34 2.2.2. Đặc điểm diễn xướng ............................................................................ 35 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 43 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những vùng đất giàu tài nguyên trên đất nước Việt Nam, miền Trung là vùng đất nhiều sắc màu văn hóa, đa dạng mà vẫn riêng biệt về cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, lối sống, ngôn ngữ, ẩm thực và con người. Đó là di sản bằng đá Thành Nhà Hồ (Thanh Hóa) – tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới; Động Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình) – kiệt tác của thiên nhiên với nhiều kỷ lục thế giới như hang có kích thước lớn nhất, dài nhất, cửa hang cao và rộng nhất, hồ ngầm đẹp nhất… Huế với sự tinh tế của Nhã nhạc cung đình, sự thâm nghiêm của Quần thể di tích cố đô Huế – di sản được UNESCO xem là “một thí dụ điển hình về đô thị hóa và kiến trúc của một kinh đô phòng thủ, thể hiện quyền lực của vương quốc phong kiến cổ của Việt Nam ở thời kỳ huy hoàng vào thế kỷ XIX”. Không chỉ vậy nhân dân miền Trung, trải qua lịch sử, đã xây dựng được một bản sắc văn hóa vùng miền đáng ngưỡng mộ và tự hào, điển hình là các lễ hội dân gian trong đó có lễ hội cầu ngư. Lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung là một hoạt động văn hóa có từ lâu đời, được duy trì qua nhiều thế hệ. Ở đó, không chỉ duy trì những vấn đề tín ngưỡng, các nghi thức cúng tế mà còn có nhiều trò chơi, các hình thức vui chơi giải trí, các trò diễn… được trình diễn trong lễ hội, tạo nên nét đặc trưng trong đời sống văn hóa của ngư dân vùng biển rất sôi nổi, vui tươi và cũng rất trang trọng, linh thiêng. Lễ hội cầu ngư được tổ chức hàng năm mang màu sắc tâm linh trong ý thức của cộng đồng ngư dân vùng biển, thể hiện tính nhân văn sâu sắc đáng phát huy và giữ gìn. 1 Là sinh viên ngành Việt Nam học, chúng tôi muốn đi sâu nghiên cứu về văn hóa của dân tộc mình, đặc biệt là lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung để nâng cao kiến thức và góp phần bổ sung thông tin tư liệu cho việc bảo tồn những giá trị truyền thống. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Lễ hội cầu ngư là một trong những sinh hoạt văn hóa độc đáo của ngư dân ven biển. Đây là vấn đề thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Có thể kể đến một số bài viết về nguồn gốc tục thờ cá Ông như Giao lưu văn hóa Việt - Chăm nhìn từ tục thờ cá Ông của tác giả Nguyễn Thanh Lợi [7]; Từ đền thờ Đức Ông, Đức Bà ở Cảnh Dương nghĩ về tục thờ cá voi của người Việt của Nguyễn Xuân Đức [2]. Trong bài viết của mình, tác giả Nguyễn Xuân Đức đã phản bác lại một số ý kiến về nguồn gốc tục thờ cá Ông mà Nguyễn Thanh Lợi đã trình bày. Không đồng tình, sau đó tác giả Nguyễn Thanh Lợi tiếp tục có bài viết Nói thêm về tục thờ cá Ông [10], để nói rõ và lý giải kỹ hơn về vấn đề này. Có thể thấy, những ý kiến trao đổi của các nhà nghiên cứu về nguồn gốc của tục thờ cá Ông của người Việt, đã có những gợi ý nhất định cho chúng tôi trong quá trình tiếp cận đề tài. Trên trang điện tử baoquangngai.vn, tác giả Trịnh Phương có bài Tín ngưỡng thờ cá Ông của ngư dân. Theo đó “Tương truyền cá Ông được gắn với những ngày đầu lập quốc của vua Gia Long. Khi Nguyễn Ánh bị Tây Sơn truy đuổi, thủy quân của Nguyễn Ánh tháo chạy ra biển và gặp phải sóng to gió lớn, trong lúc nguy khốn bỗng có một con cá Ông to lớn ghé đưa thuyền vào bờ. Sau này khi thắng quân Tây Sơn và lên ngôi, nhớ ơn cứu mạng, vua Gia Long đã phong tặng cá Ông là Nam Hải Đại tướng quân và cho lập lăng miếu thờ cúng” [13]. Tác giả cho rằng tục thờ cá Ông được biết đến từ thời Nguyễn. 2 Lễ hội cầu ngư được giới thiệu như một nét văn hóa độc đáo của cư dân ven biển miền Trung, có thể kể đến công trình Các lễ hội vùng biển miền Trung của Trần Hồng [5]. Trong đó, tác giả đã giới thiệu về lễ hội cầu ngư và các hình thức sinh hoạt văn hóa nổi bật của lễ hội nhưng mới chỉ dừng lại ở những đánh giá khái quát mà chưa đi sâu phân tích các biểu hiện cụ thể của lễ hội này. Đề cập đến lễ hội cầu ngư ở một số địa phương ven biển miền Trung, có bài viết của Hoàng Minh Tường, Tục thờ cá Ông ở làng Diêm Phố - Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa [15]. Gần đây, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Vũ trong công trình Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi, đã dành toàn bộ chương 2 để giới thiệu về Tín ngưỡng – lễ hội, trong đó Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông được nhìn nhận là một hình thức tín ngưỡng tiêu biểu trong đời sống văn hóa của cư dân ven biển Quảng Ngãi [18]... Một trong những biểu hiện độc đáo, làm nên bản sắc riêng của lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung, là múa hát bả trạo. Tác giả Thùy Trang trong bài viết Miền Trung tưng bừng khai hội cầu ngư trên báo điện tử vnexpress.net đã nhấn mạnh: “Hình thức múa hát đặc trưng của lễ hội cầu ngư là múa hát bả trạo (bả: nắm, trạo: chèo đò) diễn tả tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong một con thuyền, vượt qua sóng to gió cả, mang về một mùa bội thu cho ngư dân. Hát múa bả trạo, vừa là nghi thức tế lễ, vừa là hoạt động nghệ thuật” [16]. Điểm qua tình hình nghiên cứu, có thế thấy đề tài “Lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung”, bước đầu đã được tiếp cận ở những mức độ khác nhau. Đó là cơ sở khoa học, là gợi ý quan trọng để chúng tôi tiếp tục tìm hiểu về tục thờ cá Ông với các biểu hiện văn hóa dân gian đặc sắc, dưới góc nhìn của một sinh viên ngành Việt Nam học. 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu + Mục đích nghiên cứu: Thấy được những nét văn hóa nổi bật của lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung; Góp phần quảng bá hình ảnh văn hóa, du lịch của các tỉnh miền Trung tới độc giả, du khách trong và ngoài nước. + Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ đặc điểm của lễ hội cầu ngư và chỉ ra những biểu hiện văn hóa đặc sắc trong lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu + Đối tượng nghiên cứu: Lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung với thuộc tính riêng biệt của nó. + Phạm vi nghiên cứu: - Lễ hội cầu ngư diễn ra ở rất nhiều địa phương ven biển, từ Bắc chí Nam. Trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi chỉ khảo sát lễ hội cầu ngư ở một số địa phương thuộc các tỉnh ven biển miền Trung: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. - Lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung được khai thác ở một số phương diện cơ bản: đặc điểm nổi bật và các biểu hiện văn hóa đặc sắc. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp tiếp cận hệ thống - Phương pháp phân tích, tổng hợp - Phương pháp so sánh - Phương pháp liên ngành 6. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung của khóa luận gồm 2 chương: 4 Chương 1. Đặc điểm lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung Chương 2. Những nét văn hóa đặc sắc trong lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung 5 NỘI DUNG CHƢƠNG 1. ĐẶC ĐIỂM LỄ HỘI CẦU NGƢ CỦA CƢ DÂN VEN BIỂN MIỀN TRUNG Lễ hội cầu ngư có vị trí đặc biệt trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân, đặc biệt là ngư dân các làng vạn chài. Qua thời gian, lễ hội càng được củng cố trong cộng đồng ngư dân ven biển và trở thành lễ hội truyền thống của bà con ngư dân. Hàng năm, thường là sau khi ăn Tết xong, ngư dân tổ chức lễ tế cá Ông lồng ghép dưới hình thức lễ hội cầu ngư và lễ ra quân đánh bắt vụ cá nam. Lễ hội cầu ngư lưu giữ trong mình tín ngưỡng dân gian, phong tục tập quán cùng mối quan hệ mật thiết với đời sống tâm linh. Tất cả những mối quan hệ ấy gắn bó chặt chẽ với nhau, có ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình tồn tại, cho đến ngày nay vẫn mang đậm những đặc trưng văn hóa biển. 1.1. Đối tƣợng thờ phụng 1.1.1. Thờ cá Đối tượng thờ phụng trong lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung đó chính là cá Ông (cá voi). Tục thờ cá là một trong những tín ngưỡng dân gian khá phổ biến của cư dân ven biển miền Trung. Tục thờ cúng cá Ông, còn gọi là thần Nam Hải, bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ cá của người Việt các tỉnh Bắc bộ. “Ông” là tiếng gọi tôn kính của ngư dân dành riêng cho cá voi, loài cá thường giúp họ vượt qua tai nạn khi lênh đênh trên biển cả. Trong dân gian, người Việt cũng như người Chăm và người Hoa đều cho rằng cá voi không phải là loài cá bình thường mà là một loài cá thần. Biểu hiện ở đây không phải là sức vóc to lớn và sức chịu đựng khác thường, mà là loài cá có suy nghĩ, có tình cảm và đặc biệt là sự 6 cảm nhận và tâm linh như con người. Cho đến bây giờ nhiều người vẫn nghĩ như vậy. Do đó, việc thờ phụng rất tôn nghiêm. Từ điển bách khoa [3] cho biết: Cá voi thuộc loài động vật có vú thuộc bộ catalea, họ Balaceidac – bề ngoài giống cá nhưng có máu nóng, thở bằng phổi, đẻ con và nuôi con bằng sữa. Tổ tiên của cá voi có lẽ là một loài động vật ăn thịt sống ở trên cạn, 70 – 60 triệu năm về trước chuyển xuống nước. Do môi trường nước có độ ma sát lớn, nên trên thân thể của cá có những biến đổi để thích nghi như thân trần, hình thoi, thuôn về phía đuôi, kết thúc bằng vây đuôi với 2 cánh nằm ngang. Chi trước biến thành vây ngực, chi sau, da, lông, các tuyến mỡ, tuyến mồ hôi và tai ngoài đều bị thái hóa, dưới da có lớp mỡ dày, cổ thể hiện không rõ, mũi có 1 hoặc 2 lỗ có van, phổi rất dễ co giãn, mắt bé, cột sống có từ 41 đến 98 đốt, xương sườn có 17 đôi, nhưng chỉ có 10 đôi nối liền, thính giác phát triển mạnh, nên xác định chính xác hướng chuyền âm tới. Nhờ xoang khí ở sọ và việc tách hệ thần kinh hai tai nên vị giác và xúc giác khá nhạy. Cá voi là loài động vật xương sống lớn nhất hiện nay, có thân dài từ 12 đến 33 mét tùy theo loài, có con nặng đến 150 tấn, là loài động vật thở bằng phổi nên thường nổi lên mặt nước để hít thở, cùng với đặc tính tự nhiên là thường hay tựa vào thuyền bè, các vật trôi nổi trên biển khi có bão tố, gió to rồi cùng vào bờ. Từ đặc điểm này ngư dân tin rằng cá voi đã cứu giúp con người và họ đã tôn cá voi là vị thần biển. Việc cá Ông liên tục cứu giúp ngư dân miền biển lúc giông to gió lớn đã khiến cho tục thờ cá Ông đã trở thành một nét văn hóa của Việt Nam. Niềm tin của ngư dân càng được nhân lên khi cá Ông được triều đình phong kiến nhà Nguyễn ban sắc phong tặng cá Ông là “Nam Hải cự tộc Ngọc Lân tôn Thần”, và cho các làng biển nhận làm Thành Hoàng. Liên tiếp trong nhiều thế kỷ, các triều đại vua khác nhau đã ban sắc phong cho thần Nam Hải, 7 chính thức công nhận tục thờ cúng cá Ông tại các làng quê dọc ven biển miền Trung. Lăng Ông luôn được làng chài thờ cúng quanh năm và đặc biệt vào mùa xuân hay mùa thu hằng năm, lễ hội cúng cá Ông theo nghi lễ truyền thống, rất trang trọng. 1.1.2. Thờ ngƣời có công Cầu ngư là một trong những lễ hội nước lớn nhất của ngư dân Việt Nam. Lễ hội có nhiều tên gọi như: Lễ rước cốt ông, lễ cầu ngư, lễ tế cá Ông, lễ cúng ông, lễ nghinh ông, lễ nghinh ông Thủy tướng... Tên gọi tuy khác nhau nhưng tất cả đều có chung một quan niệm: cá Ông là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển. Lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung về đối tượng thờ phụng ngoài thờ cá, ngư dân ở đây thường phối thờ cá Ông cùng với các vị Thần khác đã giúp đỡ và phù hộ cho ngư dân no ấm như: Ngũ Hành Nương Nương, Hữu Lý Ngư, Tả Lý Lịch… Ngoài ra có địa phương trong lễ hội cầu ngư còn là dịp tưởng nhớ đến người có công gúp dân làng. Lễ hội cầu ngư là hội của nhân dân làng Thái Dương Hạ, thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế. Hội được tổ chức vào ngày 12 tháng Giêng để tưởng nhớ vị thành hoàng của làng là Trương Quý Công biệt danh của Trương Thiều, người gốc miền Bắc, là người có công khai khẩn và truyền nghề đánh bắt cho dân trên đầm, phá và ngoài biển khơi. Các nghi lễ diễn ra trong lễ hội cầu ngư là cuộc đối thoại giữa người sống với người đã khuất. Nó cộng gộp về ý thức nguồn cội thiêng liêng và là cách thể hiện thế giới tâm linh của cộng đồng. Đó là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên; tín ngưỡng thờ thành hoàng; tín ngưỡng thờ nghiệp tổ và tín ngưỡng thờ quỷ thần. Từ việc tôn thờ một hiện tượng tự nhiên, một sinh vật có mối quan hệ gắn bó lâu đời với ngư dân trong phương thức sinh tồn đã trở thành một hình thức tín ngưỡng và cũng từ một hình thức tín ngưỡng đã có sự tích hợp những 8 giá trị văn hóa phi vật thể, trở thành một sinh hoạt văn hóa cộng đồng của ngư dân làm nghề biển hàm chứa những giá trị nhân văn. 1.2. Thời gian, địa điểm tổ chức lễ hội cầu ngƣ 1.2.1. Thời gian tổ chức Mùa xuân cũng là mùa của lễ hội. Ngay sau Tết Nguyên Đán cả nước lại rộn ràng tưng bừng với hàng ngàn lễ hội lớn nhỏ thấm đẫm văn hoá truyền thống gắn liền với đời sống tâm linh của con người Việt Nam. Từ lễ đâm trâu, lễ bỏ mả đến ngày hội cồng chiêng của đồng bào Tây Nguyên, còn có các lễ cơm mới, lễ xuống đồng, lễ cầu ngư của người miền xuôi và ngư dân vùng biển... đâu đâu cũng lấp lánh vẻ đẹp văn hoá truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Suốt một dải duyên hải miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, Tết Nguyên Đán vừa xong, người dân của hầu hết các làng chài đã bắt tay chuẩn bị ngay lễ hội cầu ngư. Tục thờ cá Ông, hát bả trạo trong lễ hội cầu ngư hàng năm ở vùng biển nước ta vẫn được các ngư dân vùng biển miền Trung lưu giữ đậm nét văn hóa cội nguồn. Với thời tiết gió mưa, bão tố bất thường, giữa cái chết và sự sống luôn đe dọa tính mạng con người. Họ chỉ biết cầu trời khấn Phật xin các Thần linh phù hộ, độ trì, cầu mong cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa đánh bắt được nhiều cá, ngư dân được ấm no hạnh phúc, tai qua nạn khỏi ngoài biển khơi gặp khi sóng to gió lớn, bão tố bất ngờ, đang ở biển khơi chưa kịp vào nơi ẩn nấp. Cầu xin thần Phật, các đấng Thần linh nơi sông nước, biển khơi, các vị thần Hà Bá, Thổ địa, Thủy thần, các đấng Âm linh, các Cô hồn, cá Ông luôn phù hộ, cứu giúp cho ngư dân được mạnh khỏe làm ăn được mùa, gia đình ấm no hạnh phúc. Với lòng thành kính, tin tưởng Trời Phật, Thần linh ngư dân ở vùng biển miền Trung nơi nào cũng lập miếu, đình thờ, xây các lăng mộ cá Ông, đình thờ các vị Thần ngư để cúng tế, tổ chức các lễ hội rất linh đình, nghiêm trang. 9 Ngày tháng tổ chức lễ hội cầu ngư ở từng địa phương từ sau Tết Nguyên Đán mỗi nơi lấy ngày tháng, thời tiết thuận lợi của từng vùng tùy theo thời tiết, con trăng, mùa cá nổi có khác nhau. Có nơi lấy ngày phát hiện cá Ông lụy, có nơi lấy ngày cá Ông được triều đình sắc phong, có nơi kết hợp với lễ xuống mùa đi biển để tổ chức, cũng có nơi kết hợp với lễ lệ nông nghiệp như lễ cầu mưa, lễ cầu an để tổ chức. Lễ hội này được tiến hành, coi như một hình thức “ngày giỗ ông” vậy. Có nơi tổ chức hàng năm hay 2, 3 năm một lần hoặc cũng có nơi khi có điều kiện mới tổ chức. Nói chung chung lễ hội cầu ngư ở ven biển miền trung được tổ chức trong khoảng thời gian từ tháng Giêng âm lịch đến tháng 12 âm lịch tập trung nhiều nhất vào tháng Giêng và tháng 2 âm lịch. Trong đó nổi bật nhất là các lễ hội ở: - Thanh Hóa: làng Diễm Phố, xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc trước tổ chức vào ngày 23 tháng 12 âm lịch (ngày cá Ông giạt vào làng), sau đổi ngày 15 tháng Hai âm lịch, từ năm 1945 đổi sang các ngày 22 – 24 tháng Hai âm lịch. - Ở Quỳnh Lưu Nghệ An vào ngày 12 và 13 tháng Giêng âm lịch - Ở Đà Nẵng: Thanh Khê (6/1 âm lịch), Mân Thái, Thọ Quang (26/1 âm lịch), Tân Chính (16/2 âm lịch). - Ở Quảng Nam: Tam Hải (20/1 âm lịch), Cẩm Thanh (10/2 âm lịch). - Ở Quảng Ngãi: An Vĩnh (Lý Sơn) (20/2 âm lịch), An Bảng ( 15/1 âm lịch), Bình Thạnh (18/1 âm lịch và 15/8 âm lịch), Bình Thuận (15/2 âm lịch và 16/2 âm lịch), Bình Dương (8/1 âm lịch và 15/7 âm Lịch), Nghĩa An (16/1 âm lịch), Phổ Thạnh (3/1 âm lịch). - Ở Bình Định: Nhơn Hải (12/2 âm lịch), Đề Gi (10/4 âm lịch), Tiên Châu (15/12 âm lịch), Lăng Ông ở 72 Nguyễn Huệ (Quy Nhơn) (5/2 âm lịch). - Ở Khánh Hòa: Trí Nguyên (12/5 âm lịch), Khánh Cam (16/4 âm lịch), Cam Linh (16/7 âm lịch), Bà Hà 1 (16/2 âm lịch), Xương Huân (23/6 âm 10 lịch), Cù Lao (16/6 âm lịch), Trường Tây (16 và 17/7 âm lịch), Vĩnh Trường (11/2 âm lịch). - Ở Bình Thuận: Thủy Tú (20/6 âm lịch), Bình Thạnh (16/6 âm lịch), Hưng Long (15-17 âm lịch), Hiệp Hưng, Bình Hưng (15 và 17/2 âm lịch), Liên Hương, Tả Tán (15 và 17/2 âm lịch). Như vậy là sau khi ăn Tết Nguyên Đán, các phường chài, vạn chài đều tổ chức lễ hội cầu ngư, ngày tháng được ấn định thường xuyên của từng làng, xã, vùng miền khác nhau, để các ngư dân biết tục lệ ngày giờ đã quy định mà sắp xếp, tụ họp để tổ chức lễ hội cầu ngư được đông đủ. 1.2.2. Địa điểm tổ chức Lễ hội cầu ngư của cư dân ven biển miền Trung, tại mỗi địa phương, địa điểm tổ chức khác nhau. Lễ hội cầu ngư được bà con ngư dân xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc (Thanh Hóa) tổ chức trang nghiêm từ ngày 21 đến 24 tháng 2 âm lịch hàng năm. Đây là lễ hội truyền thống, mang đậm bản sắc văn hóa vùng biển, thu hút hàng nghìn lượt người tham gia. Được tổ chức trang nghiêm với lễ rước thuyền Long Châu từ thôn Bắc Thọ xuống sân vận động xã để bà con đến tế lễ, cầu khấn. Trong những ngày diễn ra lễ hội, các dòng họ trong xã đến trước thuyền Long Châu cầu khấn mong cho mưa thuận, gió hòa; quốc thái dân an; trời yên, biển lặng; đánh bắt được nhiều hải sản từ biển khơi và cầu được bình an cho người, phương tiện trong mỗi chuyến ra khơi. Tại Thừa Thiên - Huế, lễ hội cầu ngư làng Thái Dương thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang đã diễn ra ngày 17 và sáng 18 tháng 2 tại sân đình Thái Dương theo chu kỳ cứ 3 năm tổ chức một lần (tam niên đáo lệ). Tại thành phố Đà Nẵng, lễ hội cầu ngư được tổ chức ở những vùng ven biển các phường Hòa Hiệp, Xuân Hà, Thọ Quang, Thanh Lộc Đán, Mân Thái, 11 An Hải Tây, Quận Thanh Khê, Bắc Mỹ An… Lễ hội được diễn ra trong hai ngày đêm vào các ngày trung tuần tháng 3 âm lịch hàng năm. Lễ hội cầu ngư ở Bình Định, cúng "ông Nam Hải" hay cá voi để cầu xin cho trời yên bể lặng, tàu thuyền ra khơi vào lộng được nhiều tôm cá. Lễ hội cầu ngư thường được tổ chức ở lăng thờ cá voi vào dịp mùa xuân. Đây là nơi cải táng hài cốt của cá voi (cá Ông) chết trôi dạt vào bờ. Như vậy, địa điểm diễn ra lễ hội cầu ngư ở từng địa phương có sự khác nhau. Nhưng chủ yếu vẫn được tổ chức trên bãi biển hay lăng thờ cá Ông. 1.3. Các hoạt động của lễ hội cầu ngƣ 1.3.1. Các hoạt động diễn ra trƣớc lễ hội Lễ hội cầu ngư xuất phát từ đời sống của người dân vùng biển “đi trên ba tấc nang” (con thuyền nhỏ bé, mong manh), biệt lập trong nghề sông nước. Chính vì lênh đênh trên biển mưu sinh, nên con người có thể gặp nguy bất cứ lúc nào. Mỗi khi gặp sóng to, gió lớn, người dân thường cầu cứu Đức ngư Ông. “Những lúc đó, Ngài xuất hiện, có khi đi trước dẫn đường, có khi đi dưới lòng mê. Thật lạ kỳ, trời lập tức êm hẳn. Vì thế, với chúng tôi, cá Ông là biểu tượng của sự thiêng liêng, uy quyền, cứu nhân độ thế” [4]. Sau này, theo lý giải khoa học, người ta đã chứng minh hiện tượng cá voi hay cứu người. Nhưng trong tiềm thức của người dân vùng biển, cá Ông là vị thần của biển cả, có vị trí quan trọng, được tôn kính hết mực. Mỗi làng biển đều có lăng thờ cá Ông. Khi Ngài lụy (mất đi) thì được ngư dân chôn cất nghiêm trang và sau thời gian sẽ mang cốt Ông về thờ tại lăng. Tùy theo mỗi địa phương, lễ hội cầu ngư được tổ chức trong vòng 2 hoặc 3 ngày. Tuy diễn ra chỉ vài ngày nhưng công tác chuẩn bị cho phần lễ khá công phu. Trước ngày diễn ra lễ hội khoảng nửa tháng, các chư phái tộc của làng, vạn trưởng, ban phụng sự di tích Lăng, chính quyền địa phương cùng họp bàn để bầu ra Ban tổ chức lễ hội. Trong khi đó, vài ngày trước thời 12 gian tổ chức lễ hội, các tàu thuyền đánh cá tập trung về neo đậu gần bờ, treo cờ Tổ quốc. Đồng thời, Ban tổ chức cùng nhân dân dựng rạp, trang trí bàn thờ rực rỡ và trang nghiêm tại nơi diễn ra lễ. Lễ vật cúng được chuẩn bị gồm: Hương, đèn, giấy tiền, hoa, rượu, bánh, chuối, cháo, xôi, chè, gạo, muối, heo quay (hoặc gà), khoai lang, sắn, đường bát, trứng, bánh tráng. Điều quan trọng và đặc biệt là không cúng các loại thủy sản như cá, tôm, cua… làm lễ vật, đó là thành lệ và cấm kỵ Tổ chức lễ hội cầu ngư trên bãi biển, có dựng rạp, có cắm cờ gồm: 2 lá cờ vuông, 8 lá cờ đuôi nheo, thêu 4 màu xanh, đỏ, trắng, vàng, 8 cây cờ phướn truyền thống và 1 lá cờ Tổ quốc lớn. Ngoài cờ xí, còn có đội nhạc lễ bát âm và trống, chiêng. Phần lễ được các ngư dân chuẩn bị rất cẩn thận từ khâu chuẩn bị lễ vật, bầu Ban tổ chức, dọn dẹp lăng thờ cá Ông và nơi diễn ra lễ hội cho buổi lễ trang nghiêm sắp diễn ra. Về phần hội các đội tham gia chuẩn bị kĩ càng về tiết mục múa hát như hát bả trạo và phần thi các trò chơi như đua thuyền, kéo co, thi lắc thuyền thúng, đan lưới… các đội có sự phân công tìm ra những thanh niên trai tráng khỏe mạnh để đua thuyền, hay cho phần thi đan lưới cần những người phụ nữ khéo tay. Như vậy các hoạt động diễn ra trước lễ hội được các ngư dân vùng biển tiến hành chuẩn bị rất chu đáo, tỉ mỉ làm sao cho buổi lễ được diễn ra thành công tốt đẹp. 1.3.2. Các hoạt động có tính chất nghi thức Lễ hội cầu ngư được tổ chức rất nghiêm trang, bài bản đúng với phong tục lễ nghi của từng địa phương vùng ven biển có thờ cúng cá Ông. Xây dựng Dinh thờ cá Ông rất to và đẹp đẽ. Xây dựng Lăng Ông rất lớn để hài cốt cá Ông hàng trăm hài cốt lớn nhỏ. Có nơi để hài cốt từng đống một Ngài, có nơi xây mộ to giữa đình thờ đem hài cốt Ông bỏ vào trong xây nắp kín như huyệt 13 mộ. Hầu hết đều xây dựng Dinh thờ, Lăng mộ Ông phải ở gần cửa biển, gần làng, Vạn của ngư dân, những nơi thường là chỗ tắp cá Ông lụy vào, nơi neo đậu thuyền của ngư dân từng làng, từng Vạn đã được quy định. Trong nghi lễ cầu ngư, người ta thiết lập bàn thờ gần mép biển, hướng ra khơi, đó là điểm chung địa phương nào cũng như thế. Về phần lễ vật cúng không cúng lễ vật bằng hải sản, đây là điều cấm kỵ từ xa xưa đến nay. Ban nghi lễ là 3 vị chánh tế, tả ban, hữu ban, phân hiến và 08 học trò gia lễ, 04 bồi tế, 01 đánh trống, 01 đánh chiêng, 01 đánh trống xây chầu, 02 người cầm che lọng, 18 người cầm cờ hội làng, cờ phướn ngũ sắc, ban nhạc cổ dân tộc: kèn, nhị, bầu, sáo, nguyệt, tam, tứ, tranh, trống, chiến, xập xỏa… Đội múa hát bả trạo. Các bước tiến hành có thể thay đổi chút ít ở các địa phương nhưng vẫn đảm bảo những nguyên tắc chính. Lễ hội cầu ngư ở đây được tổ chức trong 3 ngày 2 đêm. Ngày thứ nhất: Buổi sáng Ban tổ chức và các lão ngư, chủ tế, các vị tả ban, hữu ban và phân hiến thiết lập bàn thờ Chánh điện, tả ban, hữu ban, sắp xếp bàn hương án, cờ, lọng, cây nêu, vật phẩm cúng tế, hương, hoa, đèn đầy đủ. Ngư dân đưa kiệu ra cửa biển, một bàn án có đầy đủ vật phẩm, cúng đọc văn tế, đoàn thuyền cờ xí rực rỡ rước Ông từ biển vào bãi biển. Đoàn nghinh rước Ông chờ sẵn khiêng sắc phong của Ông, đội học trò gia lễ đứng xếp hai hàng sau chủ tế và phân hiến hai tay nâng đèn thắp sáng, tiếp theo là đội hát bả trạo chèo rập ràng theo tiếng sanh của Tổng Mũi, đi đầu là cờ lọng, trống, chiêng, ban nhạc dân tộc, 4 người khiêng kiệu rước Ông và sắc chỉ có 2 lọng che 2 bên, hai hàng học trò gia lễ và đội hát bả trạo, dân làng, Vạn cầm cờ nối tiếp đi từ bãi biển rước Ngài về ngự tại Chánh điện thờ, làm lễ Vọng, lễ Nghinh Ông và các Thủy thần cùng về an vị. 14 Buổi chiều, thiết lập bàn thờ ngoài sân để làm lễ tế cô hồn và đọc Văn tế, phát lộc, rải gạo muối, đốt vàng mã, áo giấy, đốt văn tế. Ngày thứ hai: Buổi sáng tổ chức lễ Chính Thức, đó là lễ cúng Nghinh Thần, đọc Văn tế lễ hội cầu ngư - lễ Xây Chầu hát bả trạo. Hiến lễ: Dâng lễ lên Thần linh, gồm có Sơ hiến lễ và Chung hiến lễ. Phần Sơ hiến lễ có đọc văn tế gọi là đọc chúc. Tiếp theo là vào tế lễ: Xướng và Nhạc. Đốt văn, phục vị, nhạc chỉ, lễ tất. Buối tối: Tổ chức sân khấu hát bội tại Võ ca Ngày thứ ba: Buổi sáng: Tổ chức hội đua ghe giữa làng này, làng kia, vạn này, vạn kia. Có các đội đua của nam và các đội đua của nữ. Tố chức đua lắc thúng cá nhân, từng 4 thúng một lần, có khi đến 6, 7 lần, ai dẫn đầu ¼ thì vào bán kết, tứ kết, chung kết. Chọn thuyền thúng đứng nhất, nhì, ba để lãnh thưởng. Đua thuyền nam nữ cũng chọn ra nhất, nhì, ba để lãnh thưởng. Các trò chơi dân gian khác chỉ trao thưởng cho người đứng đầu mà thôi. Buổi chiều: Tiếp tục các trò chơi dân gian Buổi tối: Đến Võ ca xem hát bội Lúc nửa đêm về sáng: Lễ cúng tế, đưa Ông về lăng, về với biển khơi. Đọc văn tế, mong Ông phù hộ cho ngư dân, vụ mùa thắng lợi, tôm cá đầy khoang, ngư dân làng, vạn được ấm no, hạnh phúc, mưa thuận gió hòa, cuộc sống yên vui, khi gặp nạn ngoài biển khơi, kêu Ngài đến cứu hộ kịp thời. Phần tế với các nghi thức dâng hương, dâng rượu, đọc văn tế, đốt văn tế, lễ rước đưa ngài và các Thần linh về Dinh về biển khơi, có cờ xí lọng, khiêng kiệu, học trò gia lễ, trống chiêng ban nhạc dân tộc, đội hát bả trạo, hò đưa linh Ông rất nghiêm trang, thành kính theo nghi lễ tục lệ của ngư dân vùng biển. 15
- Xem thêm -