LỜI NÓI ĐẦU
Ngắm nhìn lại tổng quan bối cảnh quốc tế trong những ngày gần đây đó là thế
giới đang phải quay cuồng với các vấn đề nợ công Châu Âu, bất ổn tại Hàn Quốc, đe
dọa thắt chặt tiền tệ của Trung Quốc, hàng loạt thị trường hàng hóa thế giới dao động
mạnh, những tin xấu liên tục dồn dập như vậy đã làm kinh tế thế giới rung lắc dữ dội
trong suốt những ngày vừa qua. Những mối quan tâm nổi cộm đó dường như đã làm thị
trường tạm quên đi một vấn đề đã từng rất nóng bỏng, chưa hề được giải quyết, hiện
nay vẫn còn âm ỉ và có thể sẽ kéo dài dai dẳng liên quan đến sự mất cân bằng thương
mại toàn cầu: đó chính là một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba mang tên “Chiến tranh
tiền tệ” – một cuộc chiến nơi đồng tiền là súng đạn và mức sát thương của nó không
hề nhỏ. Vậy cuộc chiến ấy là gì và độ khốc liệt của nó đến mức nào và thực sự nó đã
xảy ra chưa mà đã làm cho nền kinh tế toàn cầu phải chao đảo. Và vấn đề thực sự
nằm ở đâu, ngay sau đây chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu.
Chương 1: CHIẾN TRANH TIỀN TỆ
1
1.1. Khái niệm chiến tranh tiền tệ
Chiến tranh tiền tệ là việc các nước dùng chính sách tiền tệ của mình nhằm làm
cho đồng tiền của nước mình được định giá thấp hơn so với đồng tiền của các nước
khác.
Theo báo Le Monde của Pháp ra ngày 23/10, một cuộc chiến tiền tệ dễ dẫn đến
chiến tranh thương mại. Để bảo vệ sản phẩm của mình và công ăn việc làm của dân
chúng, các nước sẽ sử dụng các vũ khí như hỗ trợ xuất khẩu, đồng thời áp đặt thuế
hải quan và quota để giới hạn nhập khẩu. Các bên sẽ trả đũa nhau.
1.2. Lịch sử về chiến tranh tiền tệ
Quay trở lại với quá khứ, trong lịch sử kinh tế thế giới, đã nhiều lần diễn ra
cuộc chiến tranh tiền tệ, chúng ta có thể kể đến như đầu những năm 1930, sau khủng
hoảng kinh tế thế giới 19291933, khi các nước phải áp mức thuế cao và qui định hạn
ngạch đối với hàng nhập khẩu, hậu quả là hàng hóa tồn đọng, nhưng không nước nào
được lợi và kinh tế toàn cầu đã sụp đổ. “Luật Hawley – Smooth của Mỹ thông qua
ngày 17/6/1930 đã tăng thuế trên 20.000 mặt hàng nhập khẩu, làm lượng hàng nhập
khẩu từ châu Âu giảm 70%, nhưng xuất khẩu của Mỹ cũng giảm tương tự vì bị châu
Âu trả đũa”. Khi khủng hoảng kinh tế và tiền tệ khiến các nền kinh tế lớn phá bỏ chế
độ “bản vị vàng”, thực hiện chính sách hạ tỉ giá đẩy mạnh xuất khẩu, tranh cướp thị
trường, làm đại suy thoái trở nên tồi tệ hơn nữa. Các quốc gia lúc bấy giờ đua nhau
dựng lên những rào cản thương mại, khiến lượng hàng hóa lưu thông trên toàn cầu
giảm sút nghiêm trọng. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới Chiến tranh
thế giới thứ hai, và hậu quả cũng như mức độ sát thương mà nó gây ra và để lại như
thế nào thì không ai trong chúng ta là không biết đến và cảm thấy kinh hoàng.
Hay như câu chuyện đồng Yên vào thập niên 1980. Năm 1979 trường Đại học
Harvard Mỹ xuất bản cuốn “Nhật Bản đứng đầu thế giới”, cuốn sách đã thu hút đông
đảo độc giả và giới kinh tế Mỹ. Nhưng ngay sau đó thì Nhật Bản trở thành mục tiêu
số 1 để Mỹ kiềm chế, trừng phạt, thể hiện rõ nhất là “Hiệp định Plaza” năm 1985:
năm nước Pháp, Đức, Nhật, Anh, Mỹ đồng ý định giá lại đồng Đô la Mỹ trong tương
quan với đồng Yên Nhật và đồng Mark Đức vì lúc đó hàng hóa của Nhật đang tràn
ngập thị trường nhờ giá rẻ và Mỹ đang chịu cảnh thâm hụt mậu dịch lớn với nước này.
Ngay lập tức đồng Yên lên giá mạnh, từ 239 Yên/1 Đô la vào năm 1985 lên 128 Yên/1
Đô la vào năm 1988, một mức tăng gần gấp đôi và điều này làm cho kinh tế Nhật điêu
đứng từ đó tới hiện nay.
1.3. Nguyên nhân và đặc điểm của cuộc chiến tranh tiền tệ lần này
Cuộc chiến tranh tiền tệ lần này âm ỉ từ cuối thế kỷ 20 đến đầu thế kỷ 21 khi
hai thực thể kinh tế lớn là Trung Quốc và Mỹ tiến hành các biện pháp trừng phạt kinh
tế lẫn nhau mà phía Mỹ cho rằng Trung Quốc thực hiện chính sách “thao túng tỉ giá”
2
để xuất siêu sang Mỹ, làm cán cân thương mại hai nước không cân bằng. Theo Bộ
thương mại Mỹ, tới cuối năm 2006 tổng ngạch xuất siêu của Trung Quốc sang Mỹ tới
235,5 tỉ USD, riêng năm 2006 nhập siêu của Mỹ với Trung Quốc tới 177,4 tỉ USD. Vì
vậy, Mỹ ra sức đấu tranh đòi Trung Quốc tăng tỉ giá đồng Nhân dân tệ (NDT) từ 25%
30% so với đồng USD để giảm nhập siêu cho Mỹ. Yêu cầu này đã được EU và các
nước khác đồng tình ủng hộ, bởi EU cũng cùng chung cảnh ngộ với Mỹ. Năm 2006,
EU nhập siêu của Trung Quốc là 128 tỉ EUR, năm 2007 tới 170 tỉ EUR, năm 2008 tuy
có giảm nhưng vẫn lên tới 160 tỉ EUR.
Trước yêu cầu của Mỹ và EU, phía Trung Quốc kiên quyết phản đối và lập
trường này dường như không thể lay chuyển. Bởi vậy, cuộc chiến về tỉ giá giữa Mỹ
Trung Quốc và EU Trung Quốc luôn căng thẳng và gay gắt kể từ năm 2003 tới nay.
Nhìn chung, tình hình kinh tế hiện nay không mấy khả quan khi các quốc gia
đang thi nhau tìm cách ghìm giá đồng tiền của mình: Ngân hàng Trung ương Nhật Bản
và Trung Quốc tung tiền ra mua ngoại tệ, trong khi đó Mỹ thì có thể in thêm tiền.
Những nước đang vươn lên như Brazil, Thái Lan… cũng có biện pháp nhằm giảm
luồng vốn đầu cơ bằng cách đánh thuế trên cổ phiếu mà các nhà đầu tư ngoại quốc
mua vào.
Những lời chỉ trích tố cáo nhau ngày càng nhiều: ngoài Trung Quốc luôn bị từ
Mỹ đến châu Âu, Nhật Bản chỉ trích là thao túng đồng tiền của mình, thì vừa qua Hàn
Quốc bị Nhật tố cáo ghìm giá đồng won. Châu Âu chỉ trích Trung Quốc nhưng cũng
khá bất an khi nhìn tỉ giá đồng euro quá cao so với đồng USD trong thời gian qua.
Ta có thể tóm gọn lại dấu hiệu hay đặc điểm nổi bật của Chiến tranh tiền tệ
lần này là các nước đua nhau hạ thấp tỉ giá đồng tiền của mình so với ngoại tệ mạnh
để tìm cách đẩy mạnh xuất khẩu, từ đó góp phần phục hồi kinh tế đất nước sau
khủng hoảng.
1.4. Hậu quả
Hậu quả nhãn tiền của Chiến tranh tiền tệ là gây nguy hại tới buôn bán quốc tế
và cản trở phục hồi kinh tế thế giới. Việc tăng nhanh chóng giá trị tiền tệ làm giảm
trầm trọng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu, tạo ra mối đe dọa nghiêm
trọng đối với các nền kinh tế “dựa dẫm” xuất khẩu như Hàn Quốc, Nhật Bản,
Brazil.v.v.
Ngoài ảnh hưởng đối với xuất khẩu do tỷ giá liên tục tăng cao, các nền kinh tế
mới nổi còn lo ngại tỷ giá tăng mạnh sẽ đẩy nhanh các khoản tiền nóng chảy vào thị
trường mới nổi, từng bước thổi cao giá tiền tệ và tài sản, càng làm tăng nguy cơ bùng
nổ khủng hoảng tài chính lần hai. Báo cáo của Standard Chartered cho biết, châu Á và
châu Âu sẽ vấp phải nguy cơ giá tài sản tăng, dòng chảy của vốn tăng.
3
Như đã nói, đây là một cuộc chiến mà đồng tiền là súng đạn và mức sát thương
là không thể lường trước được.
Chương 2: CHIẾN TRANH TIỀN TỆ VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH
2.1. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF
2.1.1. Một vài đặc điểm và mục đích của IMF
2.1.1.1. Đặc điểm
IMF được thai nghén từ phiên họp của Liên Hợp Quốc tháng 7 năm 1944 tại
Bretton Woods, New Hampshire, Hoa Kỳ. 45quốc gia thành viên có mặt trong phiên họp
đã tìm kiếm một cơ cấu hợp tác kinh tế có thể tránh được sự lặp lại các chính sách
kinh tế sai lầm từng dẫn tới cuộc đại khủng hoảng thập kỷ 30. Và sau đó, IMF chính
thức ra đời vào tháng 12 năm 1945 và đi vào hoạt động ngày 1/3/1947. Hiện nay IMF có
187 quốc gia thành viên. Số lượng nhân viên khoảng 2400 người, hoạt động trên 141
nước.
Nguồn vốn của IMF: chủ yếu là vốn cổ phần của các nước thành viên và tích
lũy của IMF. Ban đầu, mức cổ phần đóng góp phụ thuộc vào tỷ trọng kim ngạch xuất
nhập khẩu của nước đó so với kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới. Ngoài ra, trong
trường hợp cần thiết, IMF cũng có thể vay vốn trên thị trường tài chính quốc tế để
phục vụ cho các hoạt động của mình. Đến tháng 8/2009, tổng vốn cổ phần của IMF là
325 tỉ USD.
Cơ cấu tổ chức : Cơ cấu hiện hành của IMF gồm có Hội đồng Thống đốc, Ban
Giám đốc Điều hành, Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc và các cán bộ Quỹ.
2.1.1.2. Mục tiêu hoạt động
Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm
cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế.
Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế và
nhờ đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế
và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên, coi đó là mục tiêu quan
trọng nhất của chính sách kinh tế.
Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao
dịch ngoại hối giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh.
4
Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành
viên và xóa bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới sự tăng trưởng của mậu
dịch quốc tế.
Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ nguồn lực
dự trữ của quỹ được đảm bảo an toàn và tạo cơ hội cho họ sửa chữa mất cân đối
trong cán cân thanh toán quốc tế.
Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh toán của
các nước thành viên.
Thúc đẩy sự hợp tác tiền tệ quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở
rộng và tăng trưởng thương mại quốc tế một cách cân đối; tăng cường ổn định tỷ giá;
hỗ trợ cho việc thành lập hệ thống thanh toán đa phương; cho các nước hội viên tạm
thời sử dụng các nguồn vốn chung của Quỹ với những đảm bảo thích hợp; và rút ngắn
thời gian và giảm bớt mức độ mất cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế của các
nước hội viên.
2.1.2. Các biện pháp ngăn ngừa chiến tranh tiền tệ của IMF
Tổng giám đốc IMF Dominique StraussKahn cho rằng, các chính phủ đang tạo
ra nguy cơ châm ngòi cho một cuộc chiến tranh tiền tệ khi cố gắng dùng công cụ tỷ giá
để giải quyết những khó khăn của nền kinh tế trong nước. Trong thông cáo chung phát
đi sau cuộc họp của IMF diễn ra tại Washington, định chế này chỉ gián tiếp đề cập tới
những căng thẳng đang gia tăng xung quanh vấn đề tỷ giá. Thậm chí, trong thông cáo
này, IMF tuyên bố sẽ tăng cường giám sát các nền kinh tế phát triển. “Sự giám sát chặt
chẽ hơn để phát hiện bất ổn ở những nền kinh tế phát triển lớn là một ưu tiên”, thông
cáo của IMF có đoạn viết.
Dù các biện pháp giám sát vẫn chưa được vạch ra cụ thể nhưng Giám đốc điều
hành IMF Dominique StraussKahn có ý tưởng là IMF sẽ rà soát 5 khu vực kinh tế lớn
nhất gồm Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Eurozone và Anh, đồng thời đánh giá ảnh
hưởng từ chính sách của các khu vực này đối với nền kinh tế toàn cầu.
IMF cũng đã nhiều lần lên tiếng khẳng định đồng NDT đang bị định giá thấp,
động thái này khiến cho áp lực đối với nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới xung quanh vấn
đề tỉ giá đồng nhân dân tệ ngày càng gia tăng, thế nhưng điều này cũng chẳng khiến
phía Trung Quốc quan tâm.
Giới lãnh đạo IMF cho rằng tổ chức này cần hoạt động tích cực hơn để kiểm
soát dòng chảy tư bản và biến động tỉ giá hối đoái. Cũng theo tuyên bố chính thức của
hội nghị, trước tình hình bất ổn của kinh tế toàn cầu, chủ nghĩa bảo hộ cần được loại
bỏ bằng mọi giá.
5
2.1.3. Đánh giá vai trò của IMF trong cuộc chiến tiền tệ
Vai trò của IMF chỉ dừng lại ở chỗ cảnh báo, kêu gọi chứ chưa có một biện
pháp cứng rắn tích cực nào hay nói cách khác, IMF đã không hoàn thành trách nhiệm
của mình. Điều 4 quy định về hoạt động của IMF đã chỉ rõ, tổ chức này phải thực
hiện nhiệm vụ giám sát nghiêm ngặt và chấp nhận các nguyên tắc cụ thể để quản lý
giao dịch ngoại hối. Tuy vậy những điều này đã không được thực thi. Sự thiếu hụt một
cơ chế rõ ràng để can thiệp và áp dụng luật đã buộc G20 phải hành động. Thay vì để
G20 là nơi thí nghiệm chính sách, IMF cần thực hiện những nguyên tắc căn bản trong
điều 4 của mình. Như một phần của trách nhiệm giám sát, IMF cần tính toán giới hạn
của cân bằng trung gian trong giao dịch trên thị trường tiền tệ. Cùng với World Bank,
IMF nên hỗ trợ các nước thành viên định ra các mức dự trữ ngoại hối tối ưu cho mục
tiêu tăng trưởng bền vững. Những hành động tích trữ ngoại hối vượt quá mức cần
được tổ chức giám sát cảnh cáo.
Làm sao để những nguyên tắc cơ bản này được thực hiện? Rõ ràng Trung Quốc
cần góp sức để giúp IMF hoạt động ổn định hơn. Trong khi đó, nước này lại tiếp tục
can thiệp sai hướng, chống lại xu thế cân bằng. Tỷ giá đồng NDT cần cao hơn mức
hiện nay thì mới có thể duy trì mức phát triển bền vững và tăng trưởng kinh tế toàn
cầu. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đang nắm giữ mức dự trữ cao hơn nhiều so
với ngưỡng cần thiết, đồng thời Trung Quốc cũng coi thường các lời kêu gọi của IMF
về vấn đề đồng NDT.
2.2. Ngân hàng thế giới WB
2.2.1. Khái quát
WB là một tổ chức tài chính đa phương có mục đích trung tâm là thúc đẩy phát
triển kinh tế và xã hội ở các nước đang phát triển bằng cách nâng cao năng suất lao
động ở các nước này.
WB là tổ chức liên kết chặt chẽ với 5 thành viên thuộc hệ thống LHQ gồm:
Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD): được thành lập năm 1945.
Hiện nay có 187 thành viên.
Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA): được t hành lập năm 1960. Hiện nay có 170
thành viên, đồng thời là thành viên của IBRD.
Công ty Tài chính Quốc tế (IFC): được thành lập năm 1956. Hiện nay có 182
thành viên, đồng thời là thành viên của IBRD.
Cơ quan Bão Lãnh Đầu Tư Đa Phương (MIGA): được thành lập năm 1988.
Hiện nay có 175 thành viên, đồng thời là thành viên của IBRD.
6
Trung tâm Quốc tế Giải quyết Tranh chấp Đầu tư (ICSID): thành lập năm
1966. Hiện nay có 144 thành viên, đồng thời là thành viên của IBRD.
Các nước tham gia WB phải có điều kiện tiên quyết là thành viên của IMF. Mỗi
thành viên làm một vai trò riêng biệt trong nhiệm vụ chống lại đói nghèo và cải thiện
mức sống của người dân các nước đang phát triển. Thuật ngữ “World Bank” (WB) chỉ
bao gồm 2 tổ chức là IBRD và IDA, 3 tổ chức còn lại có cơ cấu tổ chức tương đối độc
lập với WB.
2.2.2. Cơ cấu tổ chức
Hội đồng Thống Đốc (hay Hội đồng quản trị): là cơ quan lãnh đạo cao nhất của
WB. Mỗi nước thành viên cử một đại diện của nước mình làm thành viên của Hội
đồng Thống đốc, thường là Bộ trưởng tài chính hoặc Thống đốc Ngân hàng trung
ương của các nước thành viên.
Ban Giám đốc Điều hành: các thống đốc chia nhiệm vụ cụ thể cho 24 Giám đốc
điều hành, những người có mặt thường xuyên tại Ngân hàng. Năm cổ đông lớn nhất là
Pháp, Đức, Nhật Bản, Anh Quốc và Hoa Kỳ bổ nhiệm mỗi nước một giám đốc điều
hành, trong khi các nước thành viên khác được đại diện bởi 19 giám đốc điều hành. Họ
thường họp ít nhất hai lần một tuần để giám sát kinh doanh của Ngân hàng, bao gồm
cả phê duyệt các khoản vay và bảo lãnh, các chính sách mới, ngân sách hành chính,
chiến lược hỗ trợ quốc gia, cho vay và các quyết định tài chính.
Chủ tịch Ngân hàng Thế giới: là người đứng đầu của Ban Giám đốc Điều hành
và chịu trách nhiệm quản lý tổng thể của Ngân hàng.
2.2.3. WB và chiến tranh tiền tệ
Trước tình hình ngày càng căng thẳng của chiến tranh tiền tệ, gây ra tình trạng
mất cân đối thương mại và bất ổn trên thị trường vốn, Chủ tịch WB rất lo ngại với hệ
thống tiền tệ quốc tế khi Mỹ và các nước khác đổ lỗi cho Trung Quốc giữ NDT không
đúng giá trị thực. Tại hội nghị thượng đỉnh G20 diễn ra tại Seoul (Hàn Quốc), Chủ tịch
Ngân hàng Thế giới (WB) Robert Zoellick kêu gọi G20 khôi phục chế độ bản vị vàng,
xem vàng như chiếc mỏ neo định hướng các hoạt động tiền tệ toàn cầu, để tránh xuất
hiện tình trạng tương tự như tranh chấp tỷ giá giữa Trung Quốc và Mỹ. Bản vị vàng là
chế độ tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định bằng hàm
lượng vàng. Theo ông Zoellick, thế giới cần cách thức quản lý mới nhằm đạt được
thành công của cái mà ông gọi là hệ thống “Bretton Woods II”. Hệ thống này sẽ dùng
vàng làm yếu tố tham chiếu kỳ vọng của thị trường đối với lạm phát, giảm phát, giá trị
tiền tệ tương lai. Theo ông Zoellick, hệ thống này có thể sẽ liên quan chủ yếu đến đô
la Mỹ, euro, yên Nhật, bảng Anh và nhân dân tệ để tiến đến quốc tế hóa.
Ông Zoellick còn cho biết trên tờ Financial Times (Anh) ngày 811 nên kết thúc
việc lấy đô la Mỹ làm mỏ neo cho tiền tệ của các nước. Việc áp dụng chế độ bản vị
7
vàng sẽ góp phần trang bị lại nền kinh tế thế giới trong thời điểm căng thẳng tỷ giá và
chính sách tiền tệ của Mỹ.
2.3. Cục dự trữ liên bang Mỹ FED
2.3.1. Khái quát:
Cục dự trữ liên bang (tiếng Anh: Federal Reserve System – FED) là ngân hàng
trung ương của Hoa Kỳ. FED bắt đầu hoạt động năm 1915 theo "Đạo luật Dự trữ Liên
bang" của Quốc hội Hoa Kỳ thông qua cuối năm 1913.
FED bề ngoài là ngân hàng của chính phủ, bao gồm Hội đồng thống đốc đóng
tại thủ đô Washington được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ, Ủy ban thị trường, 12
Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và các ngân hàng thành viên có sở hữu một phần ở
các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Chủ tịch Hội đồng thống đốc của FED hiện
nay là Ben Bernanke.
2.3.2. Cơ cấu tổ chức:
Hội đồng thống đốc (the Board of Governors of the Federal Reserve System).
Ủy ban thị trường ((Federal Open Market Committee FOMC).
Các Ngân hàng của FED.
Các ngân hàng thành viên (có cổ phần tại các chi nhánh).
Mỗi ngân hàng khu vực và ngân hàng thành viên của Cục dự trữ liên bang FED
tuân thủ sự giám sát của Hội đồng thống đốc. Bảy thành viên của Hội đồng thống đốc
được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ và phê chuẩn bởi Quốc hội. Các thành viên
được lựa chọn cho nhiệm kỳ 14 năm (trừ khi bị phế truất bởi Tổng thống) và không
phục vụ quá một nhiệm kỳ. Tuy nhiên, một thành viên nếu được chỉ định để phục vụ
nốt phần chưa hoàn tất của thành viên khác có thể phục vụ tiếp một nhiệm kỳ 14 năm
nữa, ví dụ cựu chủ tịch Hội đồng là Alan Greenspan đã phục vụ 19 năm từ 1987 đến
2006.
Ủy ban thị trường gồm 7 thành viên của Hội đồng thống đốc và 5 đại diện từ
các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Luôn có một đại diện của ngân hàng FED tại
Quận 2, thành phố New York là thành viên trong Ủy ban này (hiện tại là Timonthy
Geithner). Thành viên từ các ngân hàng khác được luân phiên theo thời gian 2 hoặc 3
năm.
2.3.3. FED và chiến tranh tiền tệ
Ngay khi cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu lắng xuống vào cuối nửa đầu
2010, đồng USD bắt đầu yếu đi nhanh chóng khi cục Dự trữ liên bang Mỹ kiên quyết
8
lập trường nới lỏng tiền tệ, thậm chí áp dụng chính sách nới lỏng số lượng (QE) để
kích thích kinh tế. Lúc này các nước trên thế giới thi nhau giảm giá đồng tiền nội tệ
của mình bằng cách đẩy đồng USD ra khỏi hệ thống tài chính nhằm tăng xuất khẩu,
cải thiện cán cân thương mại của mình. Đối với các nước thuộc khối PIIGS( Hy Lạp,
Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ireland) thì việc đồng USD giảm giá càng làm cho khả
năng vỡ nợ của các nước này giảm đi. Các nước trong khu vực mới nổi như Brazil,
Hàn Quốc, Thái Lan và Philipine đều có những biện pháp ngăn chặn dòng tiền nóng
này.
Cùng với việc neo giá đồng CNY vào đồng USD đã được Trung Quốc sử dụng
từ cuối năm 2008 nhằm giữ giá đồng CNY ở mức thấp, thuận lợi cho việc tạo ra
thặng dư cán cân thương mại. Điều này tác động làm tăng thâm hụt cán cân thương
mại của Mỹ và làm cho căng thẳng đồng tiền giữa hai nước này tăng lên.
Cùng lúc này, tình trạng thất nghiệp ở Mỹ cũng tăng cao cùng tình trạng lạm
phát đã khiến FED đi đến quyết định tung ra gói định lượng 600 tỷ bằng USD để mua
trái phiếu của bộ tài chính trong khoảng thời gian từ nay đến hết tháng 6/2011.
Chủ tịch FED đang cố gắng vực dậy tăng trưởng kinh tế Mỹ khi lãi suất cơ bản
gần 0% và 1,7 nghìn tỷ USD mua trái phiếu nhưng vẫn không thể giải quyết được vấn
đề thất nghiệp và khiến các quan chức kinh tế vẫn “điên đầu” với khả năng giảm phát.
Nếu tính cả trái phiếu được mua bằng tiền từ thế chấp, FED sẽ mua tổng số
khoảng 850 đến 900 tỷ USD trái phiếu trong khoảng thời gian từ nay đến hết tháng
6/2011, như vậy tương đương khoảng 110 tỷ USD/tháng. 86% trái phiếu được mua sẽ
tập trung chủ yếu vào thời hạn 2,5 đến 10 năm.
Tuy nhiên, Chủ tịch FED đã đưa ra quyết định về gói kích thích mới bất chấp
5/18 nhà hoạch định chính sách cao cấp nhất tại FED phản đối hay thể hiện sự nghi
ngờ về hiệu quả của chính sách này.
Trong tình hình nợ công và khiếm hụt ngân sách của Mỹ và các nước châu Âu
đang ở mức không thể chấp nhận được thì một quyết định bơm ồ ạt tiền này trước
mắt sẽ gia tăng món nợ công khổng lồ hiện có (gần 100% GDP).
Việc bơm 600 tỷ USD tất nhiên làm giảm giá đồng USD và khuyến khích xuất
khẩu của Mỹ nhưng đồng thời lại gây ảnh hưởng đến đến các nước khác. Thực vậy,
việc đồng USD mất giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị các công khố phiếu được
một số nước mua với khối lượng lớn như: Trung Quốc (868 tỷ USD), Nhật B ản (836
tỷ), Anh (448 tỷ), các quốc gia xuất khẩu dầu (226 tỷ). Nó cũng ảnh hưởng trực tiếp
đến giá trị khối dự trữ ngoại tệ 2600 tỷ USD của Trung Quốc.
Sau khi FED công bố quyết định bơm tiền, đồng Euro đã tăng giá liên tục ảnh
hưởng đến xuất khẩu của Âu châu sang Mỹ, nhất là đối với một số nước yếu về kinh
tế như Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland, Ý.
9
Theo ông Liu Shijin, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu thuộc Hội đồng Nhà
nước Trung Quốc cho rằng quyết định làm suy yếu đồng USD của Mỹ sẽ dẫn đến rối
loạn lớn trong hệ thống tiền tệ toàn cầu và cuộc chiến tiền tệ là khó tránh. Hậu quả
đối với Trung Quốc là tăng trưởng kinh tế nước này trong từ 3 đến 5 năm tới sẽ chỉ
còn khoảng 7% so với mức 10% hiện nay. Mức tăng trưởng dưới 8% của kinh tế
Trung Quốc được đánh giá là không đủ để bảo đảm ổn định xã hội và tạo việc làm.
2.4. Ngân hàng trung ương Trung Quốc PBOC
2.4.1. Khái quát
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) là Ngân hàng Trung ương của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền kiểm soát chính sách tiền tệ và quản lý các định chế
tài chính của nước này. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc có lượng tài sản tài chính
nhiều hơn bất cứ định chế tài chính công cộng nào trong lịch sử thế giới.
2.4.2. Cơ cấu tổ chức
Bộ máy điều hành tối cao của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc gồm Thống đốc
và một số Phó thống đốc. Vị trí Thống đốc được bổ nhiệm hay bãi nhiệm bởi Chủ tịch
nước. Ứng viên vào vị trí Thống đốc được đề xuất bởi Thủ tướng và phê chuẩn bởi
Quốc hội. Khi Quốc hội không tổ chức kỳ họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ phê
chuẩn việc bổ nhiệm này. Các Phó thống đốc do Thủ tướng bổ nhiệm hoặc bãi
nhiệm.
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc áp dụng hệ thống trách nhiệm tập trung của
Thống đốc, theo đó Thống đốc quản lý công việc chung của toàn ngân hàng, các Phó
thống đốc trợ giúp Thống đốc hoàn thành trách nhiệm.
Thống đốc đương nhiệm là ông Chu Tiểu Xuyên.
2.4.3. PBOC và chiến tranh tiền tệ
2.4.3.1. Nguyên nhân PBOC định giá thấp đồng NDT
Từ trước đến nay Trung Quốc (TQ) luôn duy trì “cơ chế tỷ giá ngoại hối có
kiểm soát” thực chất là kiềm chế tỷ giá đồng NDT dưới mức giá trị thực để thúc đẩy
xuất khẩu. Tỷ giá thấp là một ‘vũ khí’ lợi hại bên cạnh những thuận lợi trong nước
như là giá nhân công rẻ và sự hỗ trợ của nhà nước. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho
rằng cơ chế đó đem lại sự tăng trưởng thần kỳ cho kinh tế Trung Quốc trong mấy
thập niên qua.
Việc nâng giá NDT cũng có những mặt tích cực, trước hết là giảm căng thẳng
xung quanh câu chuyện tỷ giá trong thời gian gần đây và nguy cơ chiến tranh thương
mại và điều này gây bất lợi cho các bên. Hơn hết Chính phủ hiểu rõ tăng giá NDT làm
10
- Xem thêm -