Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
3
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
4. Phương pháp nghiên cứu
5
5. Bố cục của tiểu luận
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
7
Khái quát chung về phát triển bền vững
7
1.1.
1.1.1.
Sự hình thành về lý thuyết phát triển bền vững
1.1.2.
Khái niệm về phát triển bền vững
7
11
Phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững
15
1.2.1.
Khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững
15
1.2.2.
Nội dung của phát triển nông nghiệp bền vững
17
1.2.
CHƯƠNG 2- THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN
VỮNG Ở NƯỚC TA
2.1. Tổng quan về sản xuất nông nghiệp của Việt Nam
20
20
2.1.1.
Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
20
2.1.2.
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp Việt Nam
24
2.2. Những thành tựu đạt được trong phát triển nền nông nghiệp bền
vững ở nước ta
29
2.2.1. Đảm bảo giữ vững được nhịp độ tăng trưởng ổn định và có hiệu
quả trong thời gian dài
29
2.2.2. Giải quyết các vấn đề về mặt xã hội nảy sinh trong khu vực nông
nghiệp, nông thôn
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
38
1
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
2.2.3. Từng bước xây dựng một nền nông nghiệp theo hướng phát triển
sạch, môi trường tự nhiên được bảo vệ và hình thành các vùng nông nghiệp sinh
thái
38
2.3. Những hạn chế và thách thức trong phát triển nền nông nghiệp bền vững
ở nước ta
39
CHƯƠNG 3- GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP THEO HƯỚNG BỀN VỮNG Ở NƯỚC TA
43
3.1. Các giải pháp để phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững ở
nước ta
43
3.1.1. Về luật pháp và quy hoạch
43
3.1.2. Về kinh tế
44
3.1.3. Về kỹ thuật và công nghệ
45
3.2. Phương hướng, chiến lược phát triển
46
KẾT LUẬN
56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
58
PHỤ LỤC
59
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
2
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua kinh tế Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn,
tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định vào tốp những nước đầu của thế giới. Đời
sống của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đến năm 2009
chúng ta đã thoát khỏi tình trạng là nước nghèo. Có được những thành tựu to lớn
này là có sự đóng góp công sức của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của tất cả
các ngành các cấp trong đó có sự đóng góp to lớn của ngành nông nghiệp. Nhờ
có sự đổi mới cơ chế, chính sách mà Việt Nam đã thu được rất nhiều thành tựu
trong sản xuất nông nghiệp. Với mức tăng trưởng bình quân trên 4% năm, đến
nay sản xuất nông nghiệp nói chung đã đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước
và đóng góp một phần vào giá trị kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế. Sản xuất
lựơng thực, đặc biệt là lúa gạo tăng lên liên tục cả về diện tích gieo trồng và năng
suất, đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đưa Việt Nam trở thành một
trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, ổn định an ninh lương thực đã
tạo ra nền tảng vững chắc cho nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, phục hồi và phát
triển mạnh mẽ trong suốt gần 30 năm qua.
Những thành tựu đạt được trong sản xuất nông nghiệp là vô cùng to lớn.
Song đứng trước những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, nông nghiệp Việt
Nam đang có những bước chuyển mình phát triển theo xu thế chung của thế giới.
Một trong những bước chuyển đó chính là phát triển một nền nông nghiệp bền
vững.
Ở Việt Nam vấn đề phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp vẫn
còn là một vấn đề mới. Đặc biệt trong gần 30 năm đổi mới vừa qua bên cạnh
những thành tựu mà chúng ta đạt được thì thực tiễn cũng đang đặt ra cho chúng
ta rất nhiều khó khăn và thách thức khi xây dựng nền nông nghiệp hiện đại.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
3
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Đứng trước những khó khăn và thách thức đó, thì việc xây dựng một nền
kinh tế nông nghiệp phát triển theo xu hướng bền vững có ý nghĩa rất quan trọng.
Vì những lý do trên tôi đã lựa chọn tìm hiểu đề tài “Phát triển nông nghiệp
bền vững ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài: trên cơ sở hệ thống hoá các vấn đề lý luận
và thực tiễn về phát triển nông nghiệp bền vững, tiểu luận đề ra các giải pháp để
xây dựng và phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài :
-
Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về phát triển bền vững và phát triển
bền vững trong nông nghiệp từ góc độ lý luận và thực tiễn.
-
Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nông nghiệp bền vững của một
số quốc gia trên thế giới.
-
Phân tích thực trạng việc phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt
Nam và những vấn đề đặt ra.
-
Đề xuất định hướng và giải pháp để phát triển nông nghiệp bền vững
ở nước ta trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu sự phát triển bền vững
trong nông nghiệp. Việc phát triển nông nghiệp bền vững đó được xem xét, tiếp
cận trên góc độ: đảm bảo nhịp độ tăng trưởng ổn định, giải quyết tốt các vấn đề
xã hội, xây dựng nền nông nghiệp theo xu thế nền nông nghiệp sinh thái và bảo
vệ môi trường.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
4
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu thực tiễn phát triển nông nghiệp
theo hướng bền vững ở Việt Nam. Đề tài không đi vào nghiên cứu những vấn đề
có tính vi mô của từng ngành, từng địa phương cụ thể.
4. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp thu thập số liệu
Do điều kiện hạn chế, nên tôi chủ yếu tiến hành thu thập số liệu thứ cấp từ
các nguồn:
+ Những thông tin, số liệu được thu thập từ các báo, tạp chí, luận văn có liên quan
tử thư viện tổng hợp, thư việc ĐHSP TP. Hồ Chí Minh, một số thư viện online.
Từ đó chọn lọc những kiến thức, những kết quả có thể sử dụng được.
+ Thu thập từ các trang web có liên quan trên mạng Internet.
-
* Phương pháp xử lý số liệu
Căn cứ vào mục đích của đề tài, tôi tiến hành thu thập những số liệu cần có
bên trên và phân tích các số liệu đó. Tuy nhiên, để phân tích được, tôi sẽ phân tích
các số liệu đó ra theo thời gian, sau đó sắp xếp chúng lại để tạo thành một chuỗi
thời gian nhằm cho thấy sự thay đổi qua từng năm trong lĩnh vực Nông nghiệp
nông thôn Việt Nam. Từ đó có thể nhận biết được những thành tựu đã đạt được
và những hạn chế cần khắc phục để đưa Nông nghiệp nông thôn Việt Nam phát
triển theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.
Một phương pháp nữa phục vụ tôi trong quá trình phân tích và xử lý số liệu
là phương pháp so sánh, nhằm so sánh giữa các năm với nhau và so sánh giữa
Nông nghiệp với các ngành khác cũng như giữa Nông nghiệp với tổng thể nền
kinh tế…
5. Bố cục của tiểu luận
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển bền vững và phát
triển nông nghiệp bền vững.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
5
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Chương 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở nước
ta.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp để phát triển nông nghiệp theo
hướng bền vững ở nước ta.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
6
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
1.1. Khái quát chung về phát triển bền vững
1.1.1. Sự hình thành về lý thuyết phát triển bền vững
Đã có một lịch sử phát triển tương đối dài để hình thành khái niệm phát
triển bền vững:
+ Năm 1963: Phát hành cuốn sách Mùa xuân câm lặng (Silent Spring):
Cuốn sách “Mùa xuân câm lặng” của nữ văn sĩ Rachel Carson, được xuất bản năm
1962, với những tiết lộ về những hiểm họa của thuốc trừ sâu DDT, đã hoài nghi
một cách biện chứng niềm tin của nhân loại vào tiến bộ khoa học kỹ thuật này và
giúp tạo ra một sân khấu cho các phong trào môi trường. DDT, thuốc trừ sâu mạnh
nhất từng được biết đến trên thế giới, đã làm tổn thương tới các hệ tự nhiên. Chỉ
một lần phun DDT để diệt một loài sâu hại cây trồng, nó không chỉ diệt được loài
sâu bệnh trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng, mà đồng thời cũng tiêu diệt luôn
nhiều loài côn trùng có lợi khác và tồn lưu như một độc chất trong môi trường.
"Mùa xuân câm lặng" đã làm thay đổi nhận thức của người dân Mỹ về môi trường,
góp phần thúc đẩy các chính sách về môi trường của đất nước này.
+ Tháng 4 năm 1968: Câu lạc bộ Rome được thành lập: Đây là một tổ chức
phi chính phủ, hỗ trợ cho việc nghiên cứu “Những vấn đề của thế giới” – một cụm
từ được đặt ra nhằm diễn tả những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường
và công nghệ trên toàn cầu với tầm nhìn lâu dài. Tổ chức này đã tập hợp những
nhà khoa học, nhà nhiên cứu, nhà kinh doanh cũng như các nhà lãnh đạo của các
quốc gia trên thế giới (bao gồm cả Tổng thống Liên xô Mikhail Sergeyevich
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
7
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Gorbachyov và Rigoberta Menchus Tum). Trong nhiều năm, Câu lạc bộ Rome đã
công bố một số lượng lớn các báo cáo, bao gồm cả bản báo cáo Giới hạn của sự
tăng trưởng – được xuất bản năm 1972 – đề cập tới hậu quả của việc tăng dân số
quá nhanh, sự hữu hạn của các nguồn tài nguyên...
+ Năm 1970: Thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển: Năm
1970, UNESCO thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển, với mục tiêu
là phát triển cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý và bảo tồn các tài nguyên
của sinh quyển và cải thiện quan hệ toàn cầu giữa loài người và môi trường.
+ Tháng 6 năm 1972: Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Con người và Môi
trường: Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Con người và Môi trường được tổ chức
tại Stockhom, Thụy Điển được đánh giá là hành động đầu tiên đánh dấu sự nỗ lực
chung của toàn thể nhân loại, nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường. Hội nghị
có 113 quốc gia tham dự và đã đạt được những kết quả chính sau: (i) Khởi động
các cuộc đối thoại Bắc – Nam; (ii) Khởi động chương trình “Viễn cảnh toàn cầu”;
(iii) Khởi động sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ trong giám sát và bảo
vệ môi trường; (iv) Thành lập Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc
(UNEP); (v) Đề nghị Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lấy ngày 5 tháng 6 làm Ngày
Môi trường Thế giới và quyết định rằng vào ngày này hàng năm các tổ chức thuộc
Liên Hợp Quốc và tất cả chính phủ các nước tiến hành các hoạt động trên phạm
vi toàn thế giới để tái khẳng định mối quan tâm của cả thế giới đối với việc gìn
giữ và cải thiện môi trường sống cho nhân loại. Hội nghị đã có một tuyên bố về
môi trường con người, thỏa thuận về một chương trình hành động quốc tế rộng
lớn, thành lập Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP), Ban thư ký
thường trực về môi trường đặt tại Kenya và thành lập Quỹ Môi trường.
+ Năm 1980: Chiến lược bảo tồn thế giới: Tiếp theo Hội nghị Stockholm,
các tổ chức bảo tồn như Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN), Chương
trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) và Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
8
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
(WWF) đã đưa ra “Chiến lược bảo tồn thế giới”. Chiến lược này thúc giục các
nước soạn thảo các chiến lược bảo tồn quốc gia của mình. Ba mục tiêu chính về
bảo tồn tài nguyên sinh vật được nhấn mạnh trong Chiến lược như sau: (i) Duy trì
những hệ sinh thái cơ bản và những hệ hỗ trợ sự sống (như cải tạo đất, tái sinh các
nguồn dinh dưỡng, bảo về an toàn nguồn nước); (ii) Bảo tồn tính đa dạng di
truyền; và (iii) Bảo đảm sử dụng một cách bền vững các loài và các hệ sinh thái.
Từ khi Chiến lược bảo tồn thế giới được công bố tới nay, đã có trên 60 chiến lược
bảo tồn quốc gia được phê duyệt. Trong chiến lược này, thuật ngữ Phát triển bền
vững lần đầu tiên được nhắc tới, tuy nhiên mới chỉ nhấn mạnh ở góc độ bền vững
sinh thái. Tiếp theo Chiến lược này, một công trình khoa học có tiêu đề “Cứu lấy
Trái đất – Chiến lược cho cuộc sống bền vững” đã được IUCN, UNEP và WWF
soạn thảo và công bố (1991) (cuốn sách này đã được Trung tâm Nghiên cứu Tài
nguyên và Môi trường dịch ra tiếng Việt vào năm 1993). Trong cuốn sách, nhiều
khuyến nghị về cải cách luật pháp, thể chế và quản trị đã được đề xuất.
+ Năm 1984: Thành lập Ủy ban Brundtland: Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
đã ủy nhiệm cho bà Gro Harlem Brundtland, khi đó là Thủ tướng Na Uy, quyền
thành lập và làm Chủ tịch Ủy ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển (WCED),
nay còn được biết đến với tên Ủy ban Brundtland. Tới nay, Ủy ban này đã được
ghi nhận có những cống hiến rất giá trị cho việc đẩy mạnh sự phát triển bền vững.
+ Năm 1987: Xuất bản Báo cáo Brundtland: Hoạt động của Ủy ban Môi
trường và Phát triển Thế giới trở nên nóng bỏng khi xuất bản báo cáo có tựa đề
“Tương lai của chúng ta” (tựa tiếng Anh: Our Common Futur và tiếng Pháp là
Notre avenir à tous, ngoài ra còn thường được gọi là Báo cáo Brundtland). Bản
báo cáo này lần đầu tiên công bố chính thức thuật ngữ “phát triển bền vững”,
sự định nghĩa cũng như một cái nhìn mới về cách hoạch định các chiến lược
phát triển lâu dài.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
9
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
+ Năm 1989: Sự phát hành và tầm quan trọng của bản báo cáo “Tương lai
của chúng ta” đã được đưa ra bàn bạc tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và đã dẫn
đến sự ra đời của Nghị quyết 44/228 – tiền đề cho việc tổ chức Hội nghị về Môi
trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc.
+ Năm 1992: Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc:
Rio de Janeiro, Brazil là nơi đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất,
tên chính thức là Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc
(UNCED). Tại đây, các đại biểu tham gia đã thống nhất những nguyên tắc cơ bản
và phát động một chương trình hành động vì sự phát triển bền vững có tên Chương
trình Nghị sự 21 (Agenda 21). Với sự tham gia của đại diện hơn 200 nước trên
thế giới cùng một số lượng lớn các tổ chức phi chính phủ, hội nghị đã thông qua
các văn bản quan trọng: – Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển với 27 nguyên
tắc chung, xác định những quyền và trách nhiệm của các quốc gia nhằm làm cho
thế giới PTBV; – Chương trình Nghị sự 21 về PTBV; – Tuyên bố các nguyên tắc
quản lý, bảo vệ và PTBV rừng; – Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến
đổi khí hậu nhằm ổn định các khí gây hiệu ứng nhà kính ở mức độ không gây đảo
lộn nguy hiểm cho hệ thống khí hậu toàn cầu; – Công ước về Đa dạng sinh học.
Đây là các văn kiện quốc tế quan trọng có mối liên quan với nhau, được quán triệt
trong suốt thế kỷ XXI. Từ đó, Chương trình Nghị sự 21 về Phát triển bền vững đã
trở thành chiến lược phát triển của toàn cầu trong thế kỷ XXI, và “Mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ”, với 8 nội dung (xóa đói, giảm nghèo; phổ cập giáo dục tiểu
học; thúc đẩy bình đẳng giới tính, đồng thời nâng cao quyền lợi của nữ giới; giảm
tỷ lệ trẻ em tử vong; cải thiện và đảm bảo sức khỏe sản phụ; đấu tranh với các loại
bệnh như HIV, sốt xuất huyết; bảo vệ môi trường; thúc đẩy phát triển hợp tác toàn
cầu) đã được tập trung thực hiện.
+ Năm 2002: Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững: Hội
nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững nhóm họp tại Johannesburg,
Nam Phi là dịp cho các bên tham gia nhìn lại những việc đã làm 10 năm qua theo
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
10
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
phương hướng mà Tuyên ngôn Rio và Chương trình Nghị sự 21 đã vạch ra, tiếp
tục tiến hành với một số mục tiêu được ưu tiên. Những mục tiêu này bao gồm xóa
nghèo đói, phát triển những sản phẩm tái sinh hoặc thân thiện với môi trường,
nhằm thay thế các sản phẩm gây ô nhiễm, bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên
thiên nhiên. Hội nghị cũng đề cập tới chủ đề toàn cầu hóa gắn với các vấn đề liên
quan tới sức khỏe và phát triển. Các đại diện của các quốc gia tham gia Hội nghị
cũng cam kết phát triển chiến lược về phát triển bền vững tại mỗi quốc gia trước
năm 2005.
1.1.2. Khái niệm về phát triển bền vững
Thuật ngữ Phát triển bền vững (PTBV – Sustainable Development) lần đầu
tiên được sử dụng trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do IUCN đề xuất năm
1980. Mục tiêu tổng thể của Chiến lược là “đạt được sự PTBV bằng cách bảo vệ
các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ PTBV ở đây được đề cập tới với một nội
dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu
gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật. Năm 1987, trong báo cáo “Tương lai
chung của chúng ta”, Ủy ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển lần đầu tiên đã
đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ về PTBV là: “Sự phát triển đáp ứng được
nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng của các thế hệ tương lai
trong việc thỏa mãn các nhu cầu của chính họ”.
Nội hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Rio – 92 và được bổ
sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Johannesburg – 2002: “Phát triển bền vững là quá
trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát
triển. Đó là: phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Ngoài
ba mặt chủ yếu này, có nhiều người còn đề cập tới những khía cạnh khác của phát
triển bền vững như chính trị, văn hóa, tinh thần, dân tộc... và đòi hỏi phải tính toán
và cân đối chúng trong hoạch định các chiến lược và chính sách phát triển kinh tế
- xã hội cho từng quốc gia, từng địa phương cụ thể.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
11
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Chương trình của Liên Hợp Quốc đã đề xuất 5 nội dung của phát triển bền
vững gồm:
-
Tập trung phát triển những vùng nghèo đói, đặc biệt là những vùng
rất nghèo mà ở đó con người không có lựa chọn nào khác ngoài làm giảm cấp
nguồn lực và môi trường.
-
Tạo ra sự phát triển cao về tính tự lập của cộng đồng trong điều kiện
có hạn về nguồn lực, nhất là tài nguyên thiên nhiên.
-
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực dựa trên các kĩ thuật và công
nghệ thích hợp, kết hợp với khai thác tối đa kĩ thuật truyền thống.
-
Thực hiện các chiến lược phát triển nhằm đảm bảo tự lực về lương
thực, cung cấp nước sạch và nhà ở, giữ gìn sức khỏe chống suy dinh dưỡng qua
những công nghệ thích hợp.
-
Xây dựng và thực hiện các chiến lược có người dân tham gia.
Để có sự phát triển bền vững cần có các yếu tố sau (theo Mal Com Gillis):
-
Một hệ thống chính trị đảm bảo sự tham gia có hiệu quả của người
dân vào việc ra quyết định.
-
Một hệ thống kinh tế góp phần tạo sản phẩm thặng dư và kĩ thuật
công nghệ dựa trên tính tự lập và bền vững.
-
Một hệ thống sản xuất đảm bảo phục hồi hệ sinh thái cho sự phát
-
Một hệ thống công nghệ làm nền tảng chọn xây dựng các phương
triển.
pháp bền vững, lâu dài.
-
Một hệ thống quốc tế đẩy mạnh mối quan hệ bền vững về thương
mại và tài chính.
Hiện nay, đã có khoảng 120 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện
chương trình nghị sự 21 về PTBV cấp quốc gia và gần 7.000 chương trình nghị
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
12
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
sự 21 cấp địa phương. Đối với Việt Nam phát triển bền vững là con đường tất yếu.
Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự
giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận
của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt
chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo
vệ môi trường. Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong
tiến trình phát triển của xã hội loài người. Điều đó đã được khẳng định qua Tuyên
bố Rio de Janeiro (1992) về môi trường và phát triển, bao gồm 27 nguyên tắc cơ
bản và Chương trình nghị sự 21. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển
bền vững (2002) ở Johannesburg, các nguyên tắc trên và Chương trình nghị sự 21
về phát triển bền vững đã được khẳng định lại và cam kết thực hiện đầy đủ.
Phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm và chính sách của
Đảng và Nhà nước ta. Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ
Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời
trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tất cả các
cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Quan điểm phát triển bền
vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 là: "Phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường" và "Phát triển kinh tế - xã hội gắn
chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường
nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững và thực hiện cam kết quốc tế,
Chính phủ Việt Nam đã ban hành "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở
Việt Nam" (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) theo Quyết định 153/QĐTTg ngày 17/8/2004 làm cơ sở cho việc xây dựng các chiến lược, quy hoạch tổng
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
13
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
thể và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như của các ngành và
địa phương.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng (2011) tiếp tục khẳng định: “phát
triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội, môi trường;
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần
cho xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) được Đại hội thông qua cũng chứa đựng nhiều nội dung quan trọng của
phát triển bền vững, như gắn phát triển kinh tế tri thức với bảo vệ môi trường; kết
hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức
mạnh quốc phòng - an ninh; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh,
quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn.
Quan điểm của Đảng về phát triển bền vững còn được phát triển, hoàn thiện
và cụ thể hóa trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được thông
qua tại Đại hội XI của Đảng, trong đó nổi bật nhất là quan điểm về mối quan hệ
tác động qua lại giữa “phát triển nhanh” với “phát triển bền vững”: “Phát triển
bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát
triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong
quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội”.
Như vậy, Đại hội XI của Đảng đã kế thừa và phát triển quan điểm của các
Đại hội Đảng trước đây về phát triển bền vững ở Việt Nam với những nội dung
phong phú, đa dạng, cụ thể, toàn diện và khoa học, vừa thể hiện được quan niệm
chung của thế giới về phát triển bền vững, vừa phù hợp với khả năng, điều kiện
và đặc điểm của Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
14
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Nhằm triển khai thực hiện các quan điểm chỉ đạo của Đại hội XI về phát
triển bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 432/2012/QĐTTg ngày 12/4/2012 phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai
đoạn 2011 - 2020 và Quyết định số 160/2013/QĐ-TTg ngày 15/1/2013 ban hành
Kế hoạch hành động quốc gia về phát triển bền vững giai đoạn 2013 - 2015. Điều
đó cho thấy có sự thống nhất cao trong nhận thức tư tưởng của Đảng và Nhà nước
về vấn đề này.
Hiện nay, định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam xác
định 19 lĩnh vực ưu tiên: 5 lĩnh vực thuộc kinh tế; 5 lĩnh vực xã hội; 9 lĩnh vực tài
nguyên môi trường. Trong các lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên có lĩnh vực phát triển
nông nghiệp và nông thôn bền vững.
1.2. Phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững
1.2.1. Khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững
Cùng với định nghĩa về PTBV, khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững
cũng hình thành. Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, những vấn đề đặt ra
chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp: bảo vệ môi trường đất, nước và khởi
xướng một số hệ thống canh tác bền vững. Mục đích của nông nghiệp bền vững
là kiến tạo một hệ thống bền vững về sinh thái, có tiềm lực về kinh tế, có khả năng
thoả mãn những nhu cầu của con người mà không huỷ diệt đất đai, không làm ô
nhiễm môi trường.
Sau khi tổng kết nhiều mô hình và để phát triển toàn diện hơn, năm 1991
khái niệm “Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn Bền vững” (SARD) được đưa
ra ở hội nghị của FAO về Nông nghiệp và Môi trường, tổ chức ở Hertogenbosch,
tập trung vào những vấn đề bền vững trong tiến trình phát triển nông nghiệp và
nông thôn ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Vấn đề quan trọng là khái
niệm SARD được nhận thức và khẳng định tại Hội nghị thượng đỉnh trái đất Rio
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
15
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
(UNCED) năm 1992, chương 14 của Agenda 21, với những chương trình hành
động đặc biệt thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. Đến hội
nghị thượng đỉnh về PTBV năm 2002 tại Johannesburg đã khẳng định lại Chương
14 vẫn giữ nguyên chương trình hoạt động và đã đổi mới cam kết quốc tế để đạt
được mục tiêu PTBV.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững là một quá trình đa chiều,
bao gồm: (1) tính bền vững của chuỗi lương thực (từ người sản xuất đến người
tiêu thụ, liên quan trực tiếp đến cung cấp đầu vào, chế biến và thị trường); (2) tính
bền vững trong sử dụng tài nguyên đất và nước về không gian và thời gian; và (3)
khả năng tương tác thương mại trong tiến trình phát triển nông nghiệp và nông
thôn để đảm bảo cuộc sống đủ, an ninh lương thực trong vùng và giữa các vùng.
Quan niệm vềphát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững đã có ảnh hưởng đến
các cách thực hành trong nông nghiệp. Các cách thực hành này phải đảm bảo tính
chất bền vững, có nghĩa là phải đáp ứng đồng thời ba mục tiêu: (1) bền vững về
sinh thái; (2) lợi ích về kinh tế; và (3) lợi ích xã hội đối với nông dân và cộng
đồng.
Trong số ba mục tiêu nêu trên, mục tiêu bền vững về sinh thái được coi là
rất mới. Để đạt được mục tiêu này, các chủ thể canh tác nông nghiệp phải đồng
thời thực hiện quản lý đất bền vững, quản lý sâu bệnh bền vững và bảo vệ đa dạng
sinh học.
Nông nghiệp bền vững là việc quản lý có hiệu quả các nguồn lực để thỏa
mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người mà vẫn duy trì hay làm tăng thêm
chất lượng của môi trường và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên (FAO).
Theo dự báo đến 2025, trong 8,5 tỷ dân toàn cầu sẽ có 83% thuộc các nước
đang phát triển, song tiềm năng tài nguyên, công nghệ để thoả mãn nhu cầu của
dân số đang tăng này về lương thực và các nông sản thiết yếu khác lại không chắc
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
16
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
chắn và giới hạn. Nông nghiệp là ngành phải đáp ứng yêu cầu này trong điều kiện
quỹ đất trồng trọt đã khai thác cạn, và lại phải tránh sử dụng những đất ít hoặc
không thích hợp cho sản xuất nông nghiệp.
Quan niệm “Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững” xứng đáng
được đặt ở vị trí trọng tâm trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn của các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Hơn
nữa, phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giúp các quốc gia sớm đạt
được các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG), bởi vì nó có mối liên kết chặt
chẽ với các mục tiêu này, cụ thể là xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường (Sơ
đồ 1).
1.2.2. Nội dung của phát triển nông nghiệp bền vững
1.2.2.1. Phát triển bền vững nông nghiệp về kinh tế
Phát triển bền vững nông nghiệp về kinh tế là sự phát triển đảm bảo tăng
trưởng, phát triển ổn định lâu dài về mặt kinh tế của nông nghiệp, góp phần tích
cực vào phát triển kinh tế của quốc gia, cộng đồng. Mục tiêu của phát triển bền
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
17
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu
cầu nâng cao đời sống của người dân, tránh được sự suy thóai và gánh nặng nợ
nần cho thế hệ tương lai. Điều đó được thể hiện ở các tiêu chí sau:
- Sản xuất nông nghiệp phải đáp ứng nhu cầu xã hội về sản phẩm nông
nghiệp gồm: gia tăng sản lượng, làm tăng giá trị sản phẩm hàng hóa; hàng hóa sản
xuất ra đáp ứng một phần nhu cầu sử dụng của người dân; chất lượng sản phẩm
phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường, trước hết là đảm bảo tiêu chuẩn
về vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp ngày càng cao. Người nông
dân phải có sự đầu tư tăng năng suất lao động, năng suất ruộng đất và năng suất
cây trồng, đảm bảo sản xuất ra một khối lượng hàng hóa lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng.
- Sử dụng hiệu quả các nguồn lực lao động, vốn, lựa chọn hình thức sản
xuất phù hợp để sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, tăng năng suất.
1.2.2.2. Phát triển bền vững nông nghiệp về xã hội
Phát triển bền vững nông nghiệp về xã hội đó chính là sự đóng góp cụ thể
của nông nghiệp cho phát triển xã hội, đảm bảo sự công bằng trong phát triển.
Phát triển nông nghiệp bền vững về xã hội sẽ đảm bảo cuộc sống của người nông
dân đạt kết quả ngày càng cao; nâng cao thu nhập, đảm bảo cuộc sống gia đình,
cải thiện chất lượng cuộc sống, góp phần xóa đói giảm nghèo, giảm khoảng cách
giàu nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội. Giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao
trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần cho người nông dân. Điều đó
được thể hiện ở các yếu tố sau:
- Sử dụng hợp lý lao động: phát triển kinh tế nông nghiệp phải đi đôi với
giải quyết việc làm cho người lao động.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
18
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
- Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo.
- Tăng trưởng kinh tế làm giảm khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo ổn định
xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
1.2.2.3. Phát triển bền vững nông nghiệp về môi trường
Phát triển bền vững nông nghiệp về môi trường là phải khai thác hợp lý, sử
dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên đất, nước, rừng, biển, phòng
ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ các
nguồn tài nguyên thiên nhiên kết hợp với việc phát triển nông lâm nghiệp và
nuôi trồng thủy sản.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
19
Tiểu luận môn: Một số vấn đề về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở NƯỚC TA
2.1. Tổng quan về sản xuất nông nghiệp của Việt Nam
2.1.1. Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Nó
không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học – kỹ thuật,
bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh học
– cây trồng, vật nuôi. Chúng phát triển theo qui luật sinh học nhất định con người
không thể ngăn cản các quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chúng, mà
phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn các qui luật để có những giải pháp tác động
thích hợp với chúng. Mặt khác quan trọng hơn là phải làm cho người sản xuất có
sự quan tâm thoả đáng, gắn lợi ích của họ với sử dụng quá trình sinh học đó nhằm
tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cuối cùng hơn.
Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn
nuôi và ngành dịch vụ trong nông nghiệp. Còn nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng
nó bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn trong việc
phát triển kinh tế ở hầu hết cả nước, nhất là ở các nước đang phát triển. Ở những
nước này còn nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, ngay cả những
nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp không
lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và không ngừng tăng
lên, đảm bảo cung cấp đủ cho đời sống con người những sản phẩm tối cần thiết
đó là lương thực, thực phẩm. Những sản phẩm này cho dù trình độ khoa học –
công nghệ phát triển như hiện nay, vẫn chưa có ngành nào có thể thay thế được.
Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
20
- Xem thêm -