HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
------------------------Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐỀ TÀI: “PHÊ PHÁN CÁC QUAN ĐIỂM PHỦ NHẬN SỨ
MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY VÀ
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU NÀY”
Giảng viên: NGHIÊM SỸ LIÊM
Sinh viên: NGUYỄN LINH GIANG
Mã số sinh viên: 2156150010
Lớp tín chỉ: CN01002_8
Lớp: QUAN HỆ CÔNG CHÚNG K41
Hà nội, tháng 12 năm 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
I. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
II.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................1
III.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................2
IV.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài ....................................................................2
NỘI DUNG .....................................................................................................................3
I. Phê phán những luận điệu sai trái của những thế lực phản động, chống phá phủ
nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay...............................................3
1.
Luận điệu 1: Trong thời đại ngày nay cách mạng khoa học – công nghệ diễn
ra như vũ bảo. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Do đó, trí thức
chứ không phải là GCCN là lực lượng tiên phong cách mạng................................ 3
2.
Luận điệu 2: Ngày nay giai cấp công nhân đã được cải thiện về điều kiện sinh
hoạt, vật chất, tinh thần, đang được thỏa mãn nhu cầu nên mất đi những xung đột
cách mạng, tính chất cách mạng của họ đã tan biến. Họ đang hòa nhập vào xã hội
tư bản. ......................................................................................................................6
3.
Luận điệu 3: Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
vào cuối thế kỷ XX cùng với hiện nay, thế giới đang bước vào cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư (4.0) là hồi chuông báo hiệu sự cáo chung của chủ nghĩa xã
hội, học thuyết Mác-Lênin đã lỗi thời, sứ mệnh lịch sử của GCCN không còn nữa.
9
ĐẤU TRANH PHẢN BÁC NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH
II.
XUYÊN TẠC SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM. .........................................................................................12
III.
GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM HIỆN NAY. .....................................................................................................13
1.
Địa vị và vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay .......................13
2.
Những thuận lợi và thách thức đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
14
3.
IV.
Giải pháp xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. ..15
Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .................................................................16
KẾT LUẬN ..................................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................19
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Giai cấp công nhân là một giai cấp cách mạng triệt để, có sứ mệnh lịch sử
thế giới là xóa bỏ sự thống trị của chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản để giải phóng chính mình, giải phóng các dân
tộc bị áp bức, giải phóng xã hội loài người và giải phóng con người1.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một phạm trù cơ bản nhất của
CNXH khoa học, do đó nó đã được C.Mác – Ăngghen và Lênin nghiên cứu và
phát triển hết sức hoàn thiện trong trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, giai cấp công nhân tiếp tục đảm đương
SMLS lớn lao, không chỉ tiếp tục là giai cấp lãnh đạo cấch mạng mà còn là lực
lượng tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới.
Thế nhưng trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá như hiện nay, dưới
tác động của những thành tựu khoa học kĩ thuật công nghệ phát triển, lại có một
số quan điểm sai trái của những thế lực thù địch, chống phá cách mạng phủ nhận
sứ mệnh lịch sử cao cả của giai cấp công nhân. Chính vì lí do này, em sẽ trình bày
về đề tài “Phê phán các quan điểm phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân hiện nay và ý nghĩa của việc nghiên cứu này”
II.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Chỉ ra và phê phán những quan điểm sai trái phủ nhận sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân hiện nay.
- Chứng minh được tầm quan trọng của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
- Đề ra những giai pháp xây dựng và phát triển nâng cao sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân.
GS. TS. Hoàng Chí Bảo (Hà Nội, 2019), Giáo trình Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học (dành cho bậc đại học),
https://moet.gov.vn/content/vanban/Lists/VBDH/Attachments/2730/GT%20h%E1%BB%8Dc%20ph%E1%BA
%A7n%20Ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20khoa%20h%E1%BB
%8Dc%20(C)%20Tr%20%C4%91%E1%BA%A7u%20-%20tr60.pdf
1
1
III.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: phê phán những quan điểm phủ nhận sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân.
- Phạm vi nghiên cứu: sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân trên toàn thế giới
trong giai đoạn hiện nay liên hệ với Việt Nam
IV.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Giúp nhận thức đúng đắn, chính xác và nhận thức được tầm quan trọng của
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân từ đó có những hành động đẩy lùi và ngăn
chặn những luận điệu sai trái và những thế lực chống phá cách mạng. Đồng thởi
củng cố vị trí, vai trò của giai cấp công nhân đối với sự nghiệp phát triển kinh tế
xã hội trong thời đại hiện nay. Từ đó rút ra bài học và ý thức trách nhiệm của mỗi
đơn vị, cá nhân trong công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước nói chung.
2
NỘI DUNG
I.
PHÊ PHÁN NHỮNG LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI CỦA NHỮNG THẾ
LỰC PHẢN ĐỘNG, CHỐNG PHÁ PHỦ NHẬN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA
GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY.
1. Luận điệu 1: Trong thời đại ngày nay cách mạng khoa học – công nghệ
diễn ra như vũ bảo. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Do đó, trí thức chứ không phải là GCCN là lực lượng tiên phong cách
mạng.
Khi cách mạng KH – CN ngày càng phát triển với tốc độ chóng mặt đòi hỏi
một lực lượng, đội ngũ tri thức cao dẫn đến vai trò của trí thức được nâng cao
nhưng việc đề cao vai trò của trí thức đến mức phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân là một quan điểm hoàn toàn sai lầm, không có cơ sở khoa học và
thiếu căn cứ thực tiễn.
“Trí thức là một tầng lớp xã hội bao gồm những người lao động trí óc phức
tạp, có trình độ học vấn và chuyên môn cao, có khả năng sáng tạo tri thức khoa
học mới, đồng thời truyền bá và ứng dụng tri thức này vào thực tiễn, góp phần to
lớn vào sự phát triển và trình độ văn minh của nhân loại”2. Ngày nay, cùng với sự
phát triển nhanh chóng của cách mạng KH – CN hiện đại, trí thức trở thành đội
ngũ là nguồn lực đặc biệt quan trọng tạo nên sự phát triển của mỗi quốc gia. Họ
là các nhà khoa học nghiên cứu, cơ quan lãnh đạo, quản lý, bác sĩ, giáo viên,
những học sinh, sinh viên…, họ xuất thân từ nhiều giai cấp, nghề nghiệp và trí
thức không thể nào thay thế GCCN lãnh đạo xã hội vì:
* Tầng lớp trí thức không phải là một lực lượng kinh tế chính trị độc lập và
họ không có hệ tư tưởng độc lập. Lợi ích của tầng lớp trí thức luôn gắn
chặt với lợi ích của giai cấp thông trị nên họ dễ dàng thoả hiệp với giai cấp
tư sản và họ không có cách mạng.
Trí thức chỉ là một đội ngũ xã hội đặc biệt trong phân công lao động xã hội,
tầng lớp này không có quan hệ riêng hay trực tiếp với tư liệu sản xuất, không có
Ngô Thị Phượng (2007), Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr. 16
2
3
vị trí độc lập trong hệ thống sản xuất – các dấu hiệu quan trọng nhất để xác định
giai cấp. Vậy nên họ không có khả năng đại diện cho phương thức sản xuất nào
và họ không phải là một lực lượng kinh tế, chính trị độc lập trước các giai cấp hay
các tầng lớp xã hội khác. V.I.Lênin đã chỉ rõ rằng “Nếu không nhập cục với một
giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi.”3
Trí thức không có hệ tư tưởng độc lập, luôn đi liền với những giai cấp nhất
định với tư cách là một đội ngũ và là một thành phần trong một thể chế chính trị
cụ thể. Trí thức nói chung là của giai cấp thống trị được giáo dục và đạo tạo bởi
đường hệ thống Nhà nước của giai cấp thống trị ấy tạo ra. Đội ngũ này có thể tự
giác hoặc không tự giác để phục vụ cho chế độ của giai cấp thống trị. Lịch sử đã
chỉ ra rằng, một giai cấp chỉ khẳng định được vai trò lãnh đạo của mình nếu giai
cấp đó có hệ tư tưởng.
Trí thức không đại diện được cho lợi ích của nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội,
họ không có lợi ích đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Bên cạnh đó, tầng lớp
trí thức cũng không có được tinh thần cách mạng triệt để như giai cấp công nhân
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Nhìn lại vào lịch sử, trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế ta có thể thấy rằng, trong giai đoạn đầu của
cách mạng vô sản thì phần lớn những người trí thức đứng về phía giai cấp tư sản,
bảo vệ quan điểm, lập trường của tư sản từ đó phản ánh rõ những lợi ích của giai
cấp tư sản. Tuy nhiên, trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân
dân, đội ngũ trí thức đã ngày càng nhận rõ vai trò và sứ mệnh lịch sử của GCCN
đồng thời tìm thấy được lợi ích cuta mình trong cuộc đấu tranh chung đó. Vì thế,
đã có ngày càng nhiều trí thức đi theo GCCN và ủng hộ phong trào đấu tranh của
GCCN và nhân dân lao động.
* Theo như C.Mác, sản xuất vật chất là hoạt động đặc trưng của con người.
Đó là những hoạt động cơ bản nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của
3
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 1 (1893-1894), Nxb, Chính trị quốc gia, H,2005, tr.552.
4
con người và xã hội loài người. Mà ta biết rằng trong xã hội, ngay từ những
ngày đầu GCCN mới là người sản xuất của cải vật chất.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, cuộc sống của con người
đã bước tới văn minh hơn, số người có trình độ đại học, cao đẳng trở lên cũng
tăng theo nhưng phần lớn trong số đó lại là sự bổ sung cho GCCN, những người
có trình độ cao để đáp ứng yêu cầu của quá trình lao đọng trong điều kiện cách
mạng KH-CN phát triển mạnh mẽ và kinh tế tri thức. Theo đó, tốc độ “trí thức
hoá” công nhân ngày càng diễn ra nhanh và công nhân trí thức dần chiếm tỷ lệ
cao trong tổng số lao động xã hội ở các nước đang phát triển, trong đó có nước ta.
Do đó, công nhân tri thức được coi là đại biểu tiêu biểu cho GCCN hiện nay.
Chính vì điều này đã làm cho nhiều người nhầm tưởng rằng trí thức đã chiếm vị
trí chủ đạo trong sự phát triển sản xuất xã hội và là lực lượng thay thế giai cấp
công nhân trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Bên cạnh đó, trí thức hiện nay chiếm tỷ lệ cao trong tổng số đảng viên của
Đảng và có nhiều trí thức là đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý trong các cơ
quan ban ngành của Đảng và Nhà nước. Đảng viên của Đảng cộng sản không bắt
buộc phải là công nhân, có thể là nông dân hay trí thức, doanh nhân,… nhưng
điều nhất thiết là họ phải giác ngộ được sứ mệnh lịch sử của GCCN và đứng trên
quan điểm, lập trường cùng lợi ích của GCCN tức mang trong mình bản chất của
giai cấp cách mạng. Đặc biệt, những đảng viên khi trở thành cán bộ lãnh đạo, quản
lý, chỉ huy thì càng phải có tầm cao trí tuệ, có tri thức và tầm nhìn sâu rộng. Dó
đó, nếu vội vàng cho rằng trí thức là đội ngũ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, xã
hội thay thế cho GCCN là một kết luận máy móc, không hiểu đúng được nội hàm
bản chất của giai cấp công nhân và là nhận định thiếu căn cứ thực tiễn và không
có cơ sở khoa học.
* Kết luận
Giai cấp công nhân vẫn là giai cấp tiên tiến nhất được tuyển mộ trong các
tầng lớp dân cư với trình độ quốc tế hoá, toàn toàn hoá ngày càng cao, nền công
nghiệp hiện đại không chỉ tạo ra giai cấp công nhân mà còn tạo ra môi trường để
giai cấp công nhân không ngừng rèn luyện. Khi giai cấp công nhân bước lên vũ
5
đài chính trị, tính tiên tiến ấy ngày càng được củng cố và phát triển. Giai cấp công
nhân có tinh thần cách mạng triệt để, ý thức tổ chứ kỷ luật cao và mang bản chất
quốc tế. Những điều đó là yếu tố quyết định cho việc giai cấp công nhân là giai
cấp duy nhất có thể lãnh đạo cách mạng và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân hiện nay mà tầng lớp trí thức không thể nào thay thế. Tuy nhiên cũng
cần phải lưu ý rằng, mặc dù không thừa nhận tầng lớp trí thức là lực lượng lãnh
đạo cách mạng xã hội xoá bỏ áp bức bóc lột nhưng chủ nghĩa Mác luôn khẳng
định trí thức cũng giữ một vai trò quan trọng trong tiến trình cách mạng XHCN,
nhất là trong giai đoạn hiện nay.
2. Luận điệu 2: Ngày nay giai cấp công nhân đã được cải thiện về điều
kiện sinh hoạt, vật chất, tinh thần, đang được thỏa mãn nhu cầu nên
mất đi những xung đột cách mạng, tính chất cách mạng của họ đã tan
biến. Họ đang hòa nhập vào xã hội tư bản.
Trong xã hội tư bản, khi các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng
với sự phát triển của nền đại công nghiệp thì trí lại GCCN là sản phẩm của nền
đại công nghiệp, là lực lượng sản xuất tiên tiến đại diện cho phương thức sản xuất
tiên tiến của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đây là yếu tố quyết định GCCN là giai
cấp duy nhất mang sứ mệnh thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy lấy sự nghèo khổ làm cơ sở lí giải sứ mệnh lịch sử
của GCCN là một lập luận hoàn toàn phản khoa học, xuyên tạc chủ nghĩa Mác –
Lê-nin.
Hiện nay một bộ phận khá đông GCCN đã trở nên trung lưu hoá nhưng đó
là sự phản ánh mức sống trong điều kiện mới do sự tiến bộ chung của sự phát triển
xã hội và đồng thời cũng là kết quả của sự đấu tranh bền bỉ, liên tục của chính
GCCN chống lại GCTB trong suốt nhiều thế kỷ qua. Sự phát triển của LLSX và
phân công lao động xã hội cũng như sự biến đổi trong cơ cấu xã hội của GCCN
đã làm cho diện mạo của GCCN hiện đại trong xã hội tư bản không giống như
những mô tả của C.Mác trong thế kỷ XIX (là giai cấp lao động làm thuê, bị bóc
lột và xuất thân chủ yếu từ nông dân và nông thôn). Thế nhưng với sự biến đổi là
sự tiến bộ ấy mầ đi đến kết luận rằng bản chất cách mạng tan rã là một sai lầm cả
6
về chính trị và khoa học. Công nhân hiện nay dù có cổ phiếu, cũng chẳng thể thay
đổi được địa vị làm thuê và bị bóc lột trong xã hội tư bản. Họ không thể nào trở
thành “nhà tư bản” theo cách tuyên truyền của các lý luận gia tư sản mà chỉ là
“nhà tư bản” đối với chính mình. Chế độ cổ phiếu ấy là một phương pháp hữu
hiệu buộc chặt người lao động và bắt họ lệ thuộc hơn vào giới chủ. Việc mua bán
cổ phiếu ở các nước tư bản đã tạo nên cái gọi là hiệu ứng của cải khiến cho “tư
bản giả” ngày càng tăng lên so với thực tế. Điều đó càng nói lên tính chất ăn bám
của CNTB độc quyền chứ CNTB chẳng thể nào đã là CNTB nhân dân như người
ta cố tình tô vẽ. Thế nên không thể nói giai cấp công nhân đã hoà nhập vào xã hội
tư bản.
Trong lòng xã hội tư bản, đời sống của nhân dân lao động tuy có được cải
thiện nhưng những người vô ra cư, bị hất ra hè phố, số người nghèo khổ vẫn ngày
càng tăng mà chưa biết bao giờ dừng lại. Sự phát triển của các tập đoàn, công ty
tư bản xuyên quốc gia cùng sự bòn rút tài nguyên và bóc lột nhân dân nhiều nước
thuộc thế giới thứ ba; những cuộc chiến tranh đẫm máu chống lại các quốc gia có
chủ quyền do chủ nghĩa đế quốc phát động,… Tất cả là dều là nguyên nhân chủ
yếu khiến cho hơn 500 triệu người đối mặt với cái chết đói, 1,6 tỷ người sống
trong cảnh khốn cùng, 600 triệu người không có việc làm, hơn 800 triệu người
mù chữ… Những điều đó chứng minh cho tính bóc lột, phản động của CNTB.
Trong đại hội XI, Đảng ta đã chỉ rõ “Hiện tại, CNTB còn tiềm năng phát triển,
nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu
thuẫn cơ bản vốn có của CNTB,... chẳng những không giải quyết được mà ngày
càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra”4
Vào năm 2008, khi cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu
diễn ra, tình hình nợ công ở các quốc gia châu Âu và Mỹ, phong trào “Chiếm phố
U-ôn” ở Mỹ, những cuộc biểu tình ở các nước châu Âu tư bản đã chứng minh chi
nhận định trên. Tính đến ngày 2/8/2011, nợ công của Mỹ là 14.580,7 tỷ USD
(vượt GDP năm 2010: 14.526,5 tỷ USD). Căn cứ vào dữ liệu của Quỹ Tiền tệ
4
ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 68.
7
quốc tế (IMF), thì nước Mỹ đã gia nhập lại nhóm nước có nợ cao hơn GDP, gồm:
Nhật Bản (229%), Hy Lạp (152%), Italia (120%)5. Ở Tây Ban Nha, có gần
180.000 doanh nghiệp phá sản từ năm 2008 do suy thoái kinh tế6. Ở châu Âu: 23
triệu thanh niên đang thất nghiệp. Ở Mỹ, có tới 46,2 triệu người (chiếm 15,2%
dân số) thuộc diện nghèo, mức cao nhất trong 20 năm qua.7 Năm 2011, phong trào
“Chiếm phố U-ôn” nhanh chóng lan rộng ra hơn 100 thành phố của nước Mỹ,
1.500 thành phố của 82 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc 5 châu lục. Với thông
điệp “Hãy đặt con người trên lợi nhuận”, phong trào “Chiếm phố U-ôn” thể hiện
sự bất bình của người lao động trước tình trạng bất công và khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn trong lòng xã hội tư bản. Trong điều kiện, hoàn cảnh này,
GCCN càng nhận thức rõ hơn sứ mệnh lịch sử của mình là đấu tranh loại bỏ CNTB
ra khỏi đời sống xã hội, xây dựng CNCS văn minh, xác định rõ hơn biện pháp,
con đường thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Đó chính là tinh thần cách mạng
của GCCN. Cần phải lưu ý rằng, GCCN lãnh đạo không có nghĩa là từng người
công nhân lãnh đạo mà là GCCN lãnh đạo thông qua chính đảng, đội tiền phong
của GCCN, lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu của giai cấp.
*Kết luận
Rõ ràng, CNTB hiện đại dù có biến đổi, thích nghi thì về mặt bản chất nó
vẫn không thay đổi. Đó vẫn là CNTB độc quyền nhà nước ở trình độ cao hơn, là
chế độ bóc lột, đầy rẫy bất công đối với GCCN. Trong thời đại ngày nay, khi đời
sống vật chất và tinh thần của GCCN đã được cải thiệm cùng với sự phát triển tất
yếu của thời đại nhưng điều đó có nghĩa là họ không bị bóc lột, không còn nghèo
khổ nữa. Sự thật là ở ngay những nước TB phát triển tình trạng công nhân nghèo
khổ, thất nghiệp, mù chữ, thiếu nhà ở, sống trong điều kiện bấp bênh vẫn chiếm
một tỷ lệ không nhỏ. Ở Pháp, hiện nay vẫn còn hàng triệu người lao động đang
ngày càng bị bần cùng hoá và “ngày một dông người nghèo, nghèo đến mức bị
5
Báo Nhân dân, ngày 01-02-2012, tr. 7
Sđd, ngày 19-10-2011, tr. 5
7
Báo Nhân dân, ngày 19-10-2011, tr. 5.
6
8
phá huỷ cả về thể xác lẫn tinh thần”8. Theo thống kê của chính phủ Mỹ, hiện nay
còn hơn 60 triệu người Mỹ sống dưới mức nghèo khổ, có hàng triệu người thất
nghiệp, hơn 80% số này không được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Ở đây sự giàu có
ngạo đời nhất là cảnh nghèo khổ quẫn bách đứng cạnh nhau, chỉ có 1% số dân
(những người giàu có) chiếm tới hơn 50% của cải của cả nước. Nhân dân lao động
Mỹ nói chung, công nhân nói riêng ngày càng nghèo.9 Như vậy, bản chất và sứ
mệnh lịch sử của GCCN vẫn luôn không thay đổi, không bao giờ biến mất. Sự
giàu nghèo không thể là thước đo cho điều này, đây là một luận điểu vô căn cứ và
phản khoa học. GCCN là người đại diện cho lợi ích và quyền lực của nhân dân,
của nhân loại.
3. Luận điệu 3: Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu vào cuối thế kỷ XX cùng với hiện nay, thế giới đang bước vào
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) là hồi chuông báo hiệu sự
cáo chung của chủ nghĩa xã hội, học thuyết Mác-Lênin đã lỗi thời, sứ
mệnh lịch sử của GCCN không còn nữa.
Cách đây 173 năm, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời đánh
dấu bước phát triển quan trọng trong lịch sử hình thành chủ nghĩa Mác. Một trong
những quan điểm nổi bật của tác phẩm là C.Mác và Ph.Ăng - ghen đã luận giải
một cách thuyết phục sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đây là “vũ khí lý
luận” sắc bén để giai cấp công nhân có thể bước lên vũ đài chính trị và khẳng định
vai trò to lớn của mình trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Cho đến
ngày nay, quan điểm này vẫn luôn có ý nghĩa to lớn, nhất là cung cấp cơ sở lý
luận vững chắc để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Luận điệu trên là hoàn toàn không phải bởi sự vận động tất yếu của lịch sử
thế giới trong một phần tư thế kỷ qua chính là bằng chứng phủ nhận hoàn toàn
những tuyên bố đó. Chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn luôn tồn tại và phát triển trong
Theo H.Krauoki, Uỷ viên Bộ Chính trị ĐCS Pháp, Tổng Thư ký TLĐLĐ Pháp. Phong trào công đoàn thế giới;
số 05, tr.14.
9
Theo ác-nôn Bê-trét-ti, Uỷ viên BCT UBTƯ ĐCS Mỹ.
8
9
cải cách, đổi mới để phù hợp với xu thế thời đại; giai cấp công nhân không ngừng
phát triển cả về số lượng, chất lượng và vẫn luôn khẳng định vai trò sứ mệnh lịch
sử của mình. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã xuất phát từ những phân tích sâu sắc về
chủ nghĩa tư bản để đi tới kết luận “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với
giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các
giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp,
còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” . Vậy nên,
nền sản xuất TBCN càng hiện đại thì càng làm cho GCCN có số lượng, chất lượng
ngày càng cao cùng với những phẩm chất ưu việt như tiên tiến nhất, ý thức tổ
chức, kỷ luật cao nhất, luôn có tinh thần đoàn kết, thống nhất và cách mạng triệt
để nhất.
* Những bước phát triển mới của CNTB vào đầu thập niên 1970, thế kỷ XX
do tận dụng được thành tựu mới nhất của cách mạng KH – CN ứng dụng
vào phát triển sản xuất không làm thay đổi sứ mệnh lịch sử của GCCN hiện
nay.
Những khuyếtđiểm, sai lầm của CNXH hiện thực tích tụ nhiều năm do sự
chậm đổi mới đã dần lâm vào khủng hoảng toàn diện kéo theo sự thoái trào của
phong trào cách mạng thế giới. Các học giả tư sản cùng nhiều phần tử cơ hội đã
lợi dụng những biến đổi phức tạp này ra sức tuyên truyền, xuyên tạc bức tranh thế
giới rằng GCCN hiện đại trong nền kinh tế tri thức không còn vai trò sứ mệnh lịch
sử nữa.
Vai trò của KHKT ngày càng được nâng cao trong sản xuất không những
không phủ nhận thuyết giá trị lao động của C.Mác mà còn chứng minh rõ hơn tính
đúng đắn của thuyết đó. Nghiên cứu khoa học là một loại hình lao động đặc biệt,
lao động trí óc, sáng tạo giá trị lao động khoa học mới. Các thiết bị kỹ thuật dù có
tiên tiến nhất cũng không tự tạo ra giá trị mà chỉ là sự dịch chuyển giá trị. Giá trị
thặng dư vẫn luôn tồn tại trong XHTB hiện đại, không có bộ phận này thì không
thể có lợi nhuận. Như vậy, chỉ có lao động làm thuê (cả lao động trí óc, khoa học)
hay gọi là GCCN mới tạo ra được giá trị thặng dư, chứ không phải bản thân KH
– KT và các thiết bị tiên tiến sẽ sáng tạo ra những giá trị cốt lõi ấy.
10
Trong thời đại kinh tế toàn cầu hoá, sự xuất hiện của các công ty xuyên
quốc gia đã làm tăng tính xã hội của quan hệ sản xuất TBCN ở các nước tư bản
phát triển. Nhưng điều đó không có nghĩa là loại bỏ được mâu thuẫn cơ bản vốn
có giữa tính chất xã hội hoá sản xuất với việc chiếm hữu tư nhân về TLSX mà chỉ
mở rộng mâu thuẫn cơ bản đó ra phạm vi toàn thế giới. Mâu thuẫn kinh tế cơ bản
của nền sản xuất TBCN, ngay từ đầu được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn
giữa GCCN và GCTS có tính chất đối kháng.
Trải qua thời gian cùng sự thay đổi của hoàn cảnh, điều kiện lịch sử xã hội,
một số luận điểm cụ thể mà C.Mác, Ph.Ăng – ghen, V.I.Lênin đề cập, đến nay có
thể không còn phù hợp hoàn toàn cân có sự điều chỉnh thay đổi hoặc bổ sung mới
sao cho phù hợp. V.I. Lê-nin đã căn dặn: "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác
như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng
lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa
cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối
với cuộc sống"10
* Kết luận
Dù trong thời đại nào GCCN vẫn luôn tồn tại và giữ vững vị trí, bản chất
và sứ mệnh lịch sử của mình. Ngày nay cách mạng KHCN phát triển, lực lượng
sản xuất phát triển nhanh chóng trên toàn cầu khiến đội ngũ GCCN không ngừng
phát triển về mọi mặt. Đây cũng là tiền đề vật chất cho sự ra đời, phát triển của
CNXH ngày càng to lớn. Các phong trào phát triển theo xu hướng xã hội chủ
nghĩa đang được thức tỉnh ở các khu vực khác nhau trên thế giới chứng minh
những giá trị to lớn của CNXH cống hiến cho nhân loại vẫn còn nguyên. Hiện nay
CNTB đang có những biện pháp tự điều chỉnh để tồn tại nhưng những bất công
vốn có ngày càng sâu sắc (bất công, bất bình đẳng, thất nghiệp, tha hoá xã hội…)
Chính vì vậy GCCN vẫn liên tục diễn ra đấu tranh thậm chí ngày càng rộng lớn.
10
V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1974, t. 4, tr. 232
11
II.
ĐẤU TRANH PHẢN BÁC NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ
ĐỊCH XUYÊN TẠC SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
Hành động của Đảng ta trước những luận điệu sai trái đó.
Các cấp đảng uỷ từ trung ương đến cơ sở ngày càng coi trọng công tác bảo
vệ bản chất, vai trò, sứ mệnh lịch sử của GCCN của Đảng, đấu tranh, phản bác
đẩy lùi những quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc; thường xuyên chỉ đạo tăng
cường công tác giáo dục nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên.
Nhiều cấp uỷ đảng ngày càng quan tâm đến việc sử dụng các kết quả nghiên cứu
lý luận, xác định các luận cứ khoa học để đấu tranh, phản bác. Các hệ thống
chương trình, đề tài nghiên cứu cụ thể, bám sát thực tiến hơn; công tác quản lý
nhất là khâu nghiệm thu được cải tiến ngày càng hoàn thiện hơn. Đặc biệt công
tác này có bước phát triển mới được tổ chức trên phạm vi với quy mô rộng lớn về
cả lý luận và thực tiễn cùng sự vào cuộc của tất cả các cấp, ngành kể từ khi có
Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị về đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Dưới sự lãnh đão của cấp uỷ đảng, báo chí truyền thông tiếp tục khẳng định
vị trí tiên phong của mình trong việc thực hiện đấu tranh phản bác những quan
điểm, nhận định sai trái, thù địch, xuyên tạc sứ mệnh lịch sử của GCCN một cách
sắc bến, có hiệu lực và hiệu quả. Tiêu biểu là các kênh truyền hình như Đài Truyền
hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, báo Nhân dân, báo Quân đội nhân nhân,
Công an nhân dân, tạp chí cộng sản, Trang Thông tin điện tử của Hội đồng Lý
luận Trung ương, Tạp chí Tuyên giáo, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam…
đi sát thực tế, thông tin nhanh chóng, phân tích sâu sắc các sự kiện; phát hiện,
phản ánh trung thực những điển hình tiên tiến, cổ vũ những nhân tố mới; kịp thời
mở các chuyên mục, đăng tải các tin bài, vạch rõ các âm mưu, luận điệu sai trái,
thù địch của các tổ chức, cá nhân cơ hội, phản động.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và
Ban Bí thư, sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng, sự lãnh đạo của các cấp ủy
đảng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương, hầu hết cán bộ, đảng viên
12
có nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng;
vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân luôn được giữ vững.Các cơ
quan nghiên cứu, đào tạolý luận chính trị đã chủ động trong xây dựng chương
trình, kế hoạch giảng dạy, các hướng nghiên cứu, hình thành lực lượng tham gia
chuyên sâu trên nhiều lĩnh vực như Hội đồng lý luận Trung ương, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm khoa học và xã hội… với nhiều chương
trình trọng điểm cấp quốc gia.
Mặc dù, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị luôn yêu cầu các cấp ủy
đảng phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Tuy nhiên,
trên thực tế, nhiều cấp ủy chưa coi trọng công tác này. Việc tổ chức nghiên cứu
có lúc, có vấn đề chưa thật sự phù hợp với nhu cầu của thực tiễn. Tổ chức bộ máy
của các cơ quan nghiên cứu, giáo dục lý luận của Đảng chậm đổi mới. Điều đó
đòi hỏi đảng và nhà nước cần có những giải pháp cụ thể hơn.
III.
GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Địa vị và vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Về mặt chính trị: GCCN là chủ thể quan trọng trong đời sống chính trị của
đất nước; phát huy vai trò lãnh đạo qua Đảng cầm quyền; GCCN Việt Nam phát
huy quyền làm chủ của mình thông qua Nhà nước pháp quyền XHCN, tổ chức
công đoàn và các tổ chứ chính trị - xã hội.
Về mặt kinh tế: giai cấp công nhân đóng vai trò quan trọng trong đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại
hoá; nâng cao năng suất lao động, chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế, của
doanh nghiệp và sản phẩm; đóng góp to lớn vào phát triển nền kinh tế của đất
nước.
Về mặt xã hội, GCCN là nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ
sở liên minh công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; GCCN
cũng góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng mối
quan hệ lao động hài hoà, tiến bộ.
13
Tuy nhiên, do trình độ phát triển kinh tế - xã hội đất nước còn hạn chế; do
những hạn chế chậm khắc phục và hạn chế của bản thân GCCN trong quá trình
phát triển, vai trò, địa vị của GCCN chưa được phát huy hết toàn diện, đầy đủ.
Còn nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn cần tiếp tục được làm rõ và thực hiện tốt hơn
để tiếp tục xây dựng, phát huy đầy đủ, hiệu quả vai trò, địa vị của GCCN đối với
yêu cầu, thách thức của thời đại mới.
2. Những thuận lợi và thách thức đối với giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay.
* Thuận lợi:
GCCN Việt Nam đang được cải thiện tích cực cả về số lượng và cơ cấu.
Trong quá trình đổi mới, đất nước ta chủ trương phát triển kinh tế, mở rộng hội
nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể thì
thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được mở rộng và
phát triển tạo ra sự chuyển biến trong cơ cấu lao động xã hội.
Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn nghề nghiệp, chính trị của GCCN
ngày càng được cải thiện. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa
hội nhập quốc tế cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, kĩ thuật hiện
đại, công nhân được tiếp xúc với máy móc, thiết bị tiên tiến, làm việc với các
chuyên gia trong và ngoài nước nên được nâng cao tay nghề, kỹ thuật….
GCCN nước ta hiện nay đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
GCCN Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng trước đây. Đa số công nhân tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng XHCN.
* Thách thức
Quấ trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn chưa tương thích với quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động. Để hướng tới nền công nghiệp hiện đại, số lượng
GCCN lao động công nghiêkp chỉ chiếm 24% lực lượng lao động xã hội là một
tỷ lệ còn thấp.
Mặc dù trình độ văn hoá và tay nghề của công nhân đã được cải thiện song
vẫn còn thấp. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp thu khoa học kỹ thuật,
14
đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với
tốc độ tăng năng suất lao động như hiện nay, thì phải đến năm 2038 Việt Nam
mới bắt kịp Philippines, năm 2069 mới bắt kịp được Thái Lan. Do đó, cần tập
trung đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có kế hoạch đào tạo đón đầu.
3. Giải pháp xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay.
Từ những thực trạng trên, ta cần có những giải pháp để xây dựng và phát
triển GCCN Việt Nam hiện nay ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Một là, đẩy mạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế gắn
với phát triển kinh tế tri thức theo định hướng XHCN. Trước hết, cần chú trọng
ưu tiên phát triển những ngành nghề sử dụng nhiều lao động để giải quyết vấn đề
việc làm, phát huy lợi thế về nguồn lực lao động góp phần vào chuyển dịch nhanh
cơ cấu lao động, “tiếp tục phát triển một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao
động”11. Đây được xem là điều kiện để sử dụng nguồn lực lao động ở mọi trình
độ, phân bố hợp lý lao động giữa các vùng miền, thành phần và ngành nghề.
Hai là, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân
trình độ cao, làm chủ được khoa học công nghệ, có kỹ năng lao động, tác phong
công nghiệp, ý thức kỷ luật. Kịp thời bổ sung, sửa đổi, xây dựng chính sách đào
tạo và đào tạo lại công nhân; tạo điều kiện cho họ tự học tập nâng cao trình độ;
điều chỉnh, bổ sung quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề gắn với các ngành,
các vùng kinh tế trọng điểm. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế dành kinh phí thích đáng và thời gian cho đào tạo, đào tạo lại công
nhân.
Ba là, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật liên
quan đến việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Xây
dựng, hoàn thiện các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, đời sống, nâng
cao thể chất cho công nhân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước,
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
11
15
tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong doanh nghiệp, có
chế tài xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm chính sách, pháp luật. Khuyến
khích, tạo điều kiện cho người lao động chủ động học tập nâng cao nhận thức,
nắm bắt những quy định cơ bản về quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ lao
động, giúp họ tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng trong trường hợp cần thiết.
Bốn là, tăng cường vai trò của các cấp uỷ Đảng, Đoàn Thanh niên và đặc
biệt là của Công đoàn trong việc nâng cao đời sống, đảm bảo quyền lợi cho công
nhân nhất là công nhân ở các KCN, KCX. Tăng tỷ lệ tham gia của công nhân
trong cơ cấu tổ chức chính trị - đoàn thể ở doanh nghiệp, nhất là tổ chức Công
đoàn để tăng cường tính đại diện cho lợi ích của công nhân.
IV.
Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ngày nay là một nội dung quan
trọng đối với giai cấp công nhân nên nó rất cần được xã hội và nhất là Đảng cộng
sản chú trọng, tạo điều kiện hoàn thành một cách tốt nhất. Vì vậy việc nghiên cứu
đề tài có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Đảng và nhà nước, với toàn thể giai
cấp công nhân và đối với mỗi cá nhân trong xã hội.
Đối với Đảng và nhà nước:
Đảng cộng sản mang bản chất của giai cấp công nhân nên vai trò lãnh đạo
của đảng cộng sản cũng xuất phát từ bản chất cách mạng và vai trò của giai cấp
ấy. Do đó phủ nhận sứ mệnh lịch sử của GCCN đồng thời cũng là phủ nhận vai
trò, sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước đối với sự nghiệp cách mạng. Đó là những
quan điểm hoàn toàn sai lầm, xuyên tạc của những thế lực thù địch chống phá.
Phê phán những quan điểm sai trái giúp Đảng và nhà nước dẹp được những phần
tử phản cách mạng, bảo vệ và phát triển vai trò của Đảng trong công cuộc xây
dựng phát triển đất nước, khẳng định đúng đẳn những lý luận về bản chất và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nhằm củng cố niềm tin cho toàn thể nhân
dân nói chung và giai cấp công nhân nói riêng. Bên cạnh đó Đảng và nhà nước sẽ
có những hướng giải quyết đúng đắn, thực hiện những giải pháp nhằm xây dựng
và phát triển giai cấp công nhân cùng hướng tới mục tiêu chung là phát triển đất
nước.
16
Đối với bản thân giai cấp công nhân:
Phê phán những quan điểm phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân chính là khẳng định, củng cố vị trí quan trọng của giai cấp công nhân trong
mọi giai đoạn, từ khi ra đời, phát triển đến nay và cả tương lai sau này. Dù kinh
tế xã hội có phát triển đến đâu, khoa học công nghệ kĩ thuật có hiện đại thế nào
thì công nhân vẫn là yếu tố chủ chốt. Nhưng cũng chính vì sự phát triển ấy mà
giai cấp công nhân cũng cần không ngừng được đào tạo, nâng cao trình độ học
vấn, chuyên môn để bắt kịp với thời đại. Giai cấp công nhân cần nhận thức đúng
đắn những quan điểm xuyên tạc, sai trái để không bị những thế lực chống phá lợi
dụng, vô hình chung làm tiếp tay cho chúng nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc, chống phá cách mạng.
Đối mới mỗi cá nhân là công dân của đất nước:
Phê phán những quan điểm sai trái, xuyên tạc của những thế lực thù địch,
chống phá chính là bảo vệ đất nước nói chung và bảo vệ vị trí của giai cấp công
nhân nói riêng, khi đó nghĩa là chúng ta nhận thức đúng đắn được bản chất, vị trí,
vai trò của Giai cấp công nhân đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Từ đó không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm của mình về giai cấp, về nhận
thức xã hội để nâng cao trí thức văn hoá cửa mình. Bản thân em, là một sinh viên
đặc biệt là sinh viên của một ngôi trường Đảng, trường đại học trọng điểm quốc
gia càng phải ý thức rõ điều đó, cần phải cùng với thế hệ sinh viên nói chung
không ngừng nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm của mình, nhận thức đúng
đắn về những quan điểm lệch lạc, lên án, phê phán, bài trừ; cùng với đó là trau
dồi bản thân cả về tri thức và kỹ năng để có thể góp sức bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước.
17
- Xem thêm -