Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. liên...

Tài liệu Quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. liên hệ với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

.PDF
21
1
89

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA VIỆT NAM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT --------------------------------------------------- Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học Chủ đề: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Giáo viên: Đặng Kiều Diễm Nhóm: 1 Lớp: 205XH0529 Họ tên: 1. Nguyễn Trường Xuân Mai Phương 2. Nguyễn Thanh Thành Phú 3. Nguyễn Thị Lan Anh 4. Nguyễn Nam Phúc 5. Lê Thị Thanh Hằng 6. Nguyễn Thanh Việt K194071030 K194071028 K194071005 K194071029 K194071017 K194071043 Hồ Chí Minh, 09/07/2021 BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Nhóm/Lớp: 205XH0529 Tên nhóm: 1 HK hè Năm học 2020-2021 Đề tài: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. LIÊN HỆ VỚI THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ ký (%) 1. Nguyễn Thanh K194071028 1.1, mở đầu 1.2 100 Đã kí Thành Phú 2. Nguyễn Thị Lan Anh K194071005 2.2.1 2.2.2 100 Đã kí 3. Nguyễn Trường K194071030 Lời mở dầu, kết 100 Đã kí Xuân Mai Phương luận 4. Nguyễn Nam Phúc K194071029 1.2.3 1.2.4 100 Đã kí 5. Lê Thị Thanh Hằng K194071017 2.1 2.3 100 Đã kí 6. Nguyễn Thanh Việt K194071043 1.2.1 1.2.2 100 Đã kí Họ và tên nhóm trưởng: Nguyễn Thanh Thành Phú, Số ĐT: 0788883111 Email: [email protected] NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên) MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 3 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Nhiệm vụ của đề tài 4 PHẦN NỘI DUNG 5 Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 5 1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội5 1.1.1. Khái niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 5 1.1.2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 6 1.2. Đặc điểm của kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 7 1.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế 7 1.2.2. Trên lĩnh vực chính trị 8 1.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá 9 1.2.4. Trên lĩnh vực xã hội 9 2.1. Đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 2.2. Tiến trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời gian qua 9 13 2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân 13 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân 16 2.3. Giải pháp tiếp tục quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời gian tới KẾT LUẬN 16 18 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập ra đã chỉ rõ quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người trải qua các hình thái kinh tế xã hội như là: Cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, đến cộng sản chủ nghĩa. Và trong quá trình đó, đối với xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích rõ sự mâu thuẫn giữa giai cấp này và giai cấp khác. Vì vậy, giai cấp công nhân sẽ đứng lên thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình để giải phóng dân tộc. Sau khi giải phóng dân tộc, giải phóng con người, thống nhất đất nước, giai cấp công nhân tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, sau khi hoàn thành cơ bản những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Việt Nam chuyển sang thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong thực tế, không ít người cho đến thời điểm này vẫn còn hoài nghi về việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, và thậm chí, có ý kiến gay gắt hơn còn cho rằng không nhất thiết phải xây dựng đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà có thể chuyển sang lựa chọn một con đường khác. Do vậy, việc làm rõ tính tất yếu khách quan và nội dung của con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng là một vấn đề lý luận thực tiễn và thời sự cấp bách trong hoàn cảnh hiện nay. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với việc thực hiện những đường lối đổi mới đã đem đến những chuyển biến tích cực rõ rệt. Tuy nhiên, quá trình này vẫn đang gặp không ít những khó khăn, do vậy cần phải có sự hỗ trợ và quyết tâm rất lớn từ Đảng và người dân thì mới có thể đạt được một chủ nghĩa xã hội như mong muốn. Đây là một quá trình lâu dài và khó khăn. Trước những tình thế này, nhóm tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của chủ nghĩa xã hội, về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước để hiểu rõ hơn về việc lụa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 2. Nhiệm vụ của đề tài - Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - Làm rõ những đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Làm rõ tiến trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua - Đánh giá thực trạng … (ưu điểm, hạn chế) - Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời gian tới PHẦN NỘI DUNG Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1.1.1. Khái niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Theo Mác và Ăngghen, hình thái kinh tế xã hội cộng sản phát triển từ thấp đến cao theo hai giai đoạn, từ giai đoạn xã hội chủ nghĩa (làm theo năng lực, hưởng theo lao động) lên giai đoạn cộng sản chủ nghĩa (làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu). Thời kỳ quá độ chính là bước đầu tiên, nằm trong giai đoạn thấp chủ nghĩa xã hội, tức là thời kỳ chuyển đổi giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, xây dựng tiền đề cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau căn bản, thể hiện ở chỗ: chủ nghĩa tư bản là chế độ áp bức bóc lột, tồn tại dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong xã hội các giai cấp có mâu thuẫn đối kháng; còn chủ nghĩa xã hội là chế độ đã xóa bỏ áp bức bóc lột, là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và các giai cấp trong xã hội không có sự đối kháng. Vì thế, một thời kỳ chuyển dần từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội là cần thiết. Thời gian cho bước quá độ ấy không có giới hạn, mà theo như Lênin đã nói “cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài” hay Lênin ví nó như “những cơn đau đẻ kéo dài” bởi tính chất phức tạp và đấu tranh gay go của nó. Bước quá độ phải tùy thuộc vào xuất phát điểm, trình độ phát triển của mỗi đất nước, và sự vững mạnh về tư tưởng và quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân ở nước đó. Khi phân tích đặc điểm và tính chất của chủ nghĩa tư bản, Mác và Ăngghen có nêu ra khả năng quá độ lên chủ nghĩa cộng sản ở các nước lạc hậu tiền chủ nghĩa tư bản. Sau này, Lênin đã có sự kế thừa luận điểm này của Mác và Ăngghen, đồng thời đi sâu phân tích để chỉ rõ khả năng quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản. Việc đi lên chủ nghĩa xã hội diễn ra trong phạm vi từng nước riêng lẻ hoặc một số nước, không thể diễn ra cùng lúc trên toàn thế giới. Khi chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi ở một nước thì điều này sẽ làm tiền đề để các nước khác quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kể cả các nước lạc hậu, bởi lúc này, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên thế giới đã được mở ra. Tuy nhiên, việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước lạc đòi hỏi một số điều kiện nhất định : - Những nước lạc hậu phải có Đảng Cộng sản cầm quyền, sử dụng khối liên minh công – nông – trí thức để xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Giai cấp công nhân ở các nước đó phải có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến đã giành thắng lợi trong cách mạng vô sản. - Chủ nghĩa tư bản lỗi thời về mặt lịch sử, chủ nghĩa xã hội là chế độ mới tiến bộ hơn, ưu việt hơn để thay thế. Mặt khác, các nước lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa qua con đường quá độ gián tiếp, tức là thực hiện nhiều bước quá độ nhỏ, phù hợp với tình hình kinh tế và chính trị của nước đó. Trong thời kỳ quá độ, giai cấp công nhân đã nắm quyền lãnh đạo chính quyền. Tuy nhiên, các thế lực phản động và tàn dư của xã hội cũ vẫn chưa bị đánh gục hoàn toàn và luôn có âm mưu lật đổ, chống phá giai cấp công nhân. Vì thế trong thời kỳ này, các mâu thuẫn tồn tại một cách khá rõ nét. Đặc điểm cơ bản nhất của thời kỳ quá độ là những yếu tố của xã hội cũ và xã hội mới song song tồn tại và đan xen với nhau, đồng thời chúng có sự đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống : từ kinh tế (tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó các thành phần vừa mang tính chất thống nhất, vừa mang tính đối kháng nhau), đến xã hội (nhiều giai cấp, tầng lớp cùng tồn tại, họ vừa đấu tranh vừa liên minh với nhau), văn hoá - hệ tư tưởng (hệ tư tưởng thống trị của giai cấp công nhân cùng tồn tại với các hệ tư tưởng khác)… Vì thế, giai cấp công nhân cần phải có hệ tư tưởng vững chắc, nếu không rất dễ bị thất bại trong cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài để xây dựng một tiền đề vững chắc cho việc đi lên chủ nghĩa xã hội. 1.1.2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ rõ: lịch sử xã hội đã trải qua 5 hình thái kinh tế- xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. So với các hình thái kinh tế xã hội đã xuất hiện trong lịch sử, hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa có sự khác biệt về chất, trong đó không có giai cấp đối kháng, con người từng bước trở thành người tự do. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” . V.I.Lênin trong điều kiện nước Nga xô- viết cũng khẳng định: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định”. Khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ, đồng thời các nhà sáng lập chủ nghĩa xa hội khoa học cũng phân biệt có hai loại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản: 1) Quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Cho đến nay thời kỳ quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa cộng sản từ chủ nghĩa tư bản phát triển chưa từng diễn ra; 2) Quá độ gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Trên thế giới một thế kỷ qua, kể cả Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, Trung Quốc, Việt Nam và một số nước xã hội chủ nghĩa khác ngày nay, theo đúng lý luận Mác - Lênin, đều đang trải qua thời kỳ quá độ gián tiếp với những trình độ phát triển khác nhau. Xuất phát từ quan điểm cho rằng: chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo mà là kết quả của phong trào hiện thực, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cho rằng: Các nước lạc hậu với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản đã chiến thắng có thể rút ngắn được quá trình phát triển: “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản đã chiến thắng, các dân tộc lạc hậu có thể rút ngắn khá nhiều quá trình phát triển của mình lên xã hội xã hội chủ nghĩa và tránh được phần lớn những đau khổ và phần lớn các cuộc đấu tranh mà chúng ta bắt buộc phải trải qua ở Tây Âu”. C.Mác, khi tìm hiểu về nước Nga cũng chỉ rõ: “Nước Nga… có thể không cần trải qua đau khổ của chế độ (chế độ tư bản chủ nghĩa - TG) mà vẫn chiếm đoạt được mọi thành quả của chế độ ấy”. Vận dụng và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện mới, sau cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin khẳng định: “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xô - viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa (hiểu theo nghĩa con đường rút -TG)”. Quán triệt và vận dụng, phát triển sáng tạo những lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, trong thời đại ngay nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, chúng ta có thể khẳng định: Với lợi thế của thời đại, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, các nước lạc hậu, sau khi giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có thể chiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. 1.2. Đặc điểm của kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần đối lập. Đề cập tới đặc trưng này, V.I.Lênin cho rằng: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mãnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào? Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở đó". Tương ứng với nước Nga, V.I.Lênin cho rằng thời kỳ quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế: kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng hoá nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa. 1.2.2. Trên lĩnh vực chính trị Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương diện chính trị, là việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chất của nó là việc giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và, bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản đã chiến thắng nhưng chưa phải đã toàn thắng với giai cấp tư sản đã thất bại nhưng chưa phải thất bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới – giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, với nội dung mới – xây dựng toàn diện xã hội mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình thức mới – cơ bản là hoà bình tổ chức xây dựng. Thời kỳ quá độ là thời kỳ đầy khó khăn, phức tạp, trải qua nhiều bước trung gian, nhiều cuộc thử nghiệm, và đặc biệt là luôn luôn vấp phải sự phản kháng nhằm phá hoại, lật đổ chế độ mới, phục hồi, giành lại chính quyền của giai cấp tư sản vì vậy, nếu không tỉnh táo, sáng suốt và quyết liệt giai cấp công nhân có thể bị thất bại và mất chính quyền công nông. Hơn thế nữa, phải xây dựng và thực hiện chế độ tập trung dân chủ. Đổi mới xã hội chủ nghĩa đó là sự thống nhất giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở nhằm phù hợp và đáp ứng kịp thời những nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng của thời kỳ quá độ. Đồng thời, quan tâm xây dựng, củng cố và nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng nhằm đưa các tổ chức này thiết thực góp phần xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và bảo vệ lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. 1.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. Giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình là Đảng cộng sản, từng bước xây dựng văn hoá vô sản, nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, bảo đảm đáp ứng nhu cầu văn hoá – tinh thần ngày càng tăng của nhân dân. 1.2.4. Trên lĩnh vực xã hội Do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần quy định niên trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều tầng lớp, giai cấp và sự khác biệt giữa các giai cấp tầng lớp xã hội, các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn, thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Bởi vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện xã hội là thời kì đấu tranh chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội và tàn dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo. Chương 2. THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 1954 ở miền Bắc Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam đứng trước một tình hình mới, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc (1954), sản xuất công nghiệp từng bước được khôi phục và phát triển. Trong 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957) và tiếp theo là kế hoạch 5 năm 1961-1965 với đường lối công nghiệp hóa, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được phục hồi và xây dựng, hoạt động thương mại được chú trọng. Trong 5 năm 1961-1965, nhân dân miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Quan hệ sản xuất mới tiếp tục được củng cố, cơ sở vật chất được tăng cường, bước đầu có sự tìm tòi cải tiến cung cách làm ăn qua các cuộc vận động "ba xây ba chống" và "cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật", giáo dục văn hóa, y tế phát triển mạnh mẽ. Giai đoạn 1965-1970, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, miền Bắc vẫn vững vàng vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn với tiền tuyến lớn. Công cuộc khôi phục kinh tế và phát triển sản xuất đã thu được kết quả. So với năm 1960, số xí nghiệp công nghiệp ở miền Bắc năm 1975 tăng 32%, khu vực kinh tế quốc doanh chiếm 88,4% tổng sản phẩm xã hội và 84,1% thu nhập quốc dân. Chính trị Cuối năm 1964, miền Bắc hoàn thành những mục tiêu cơ bản của kế hoạch 5 năm 1961-1965. Đánh giá những chuyển biến của miền Bắc, tại Hội nghị Chính trị đặc biệt (27/3/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong 10 năm qua, miền Bắc Việt Nam đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới". Xã hội Cùng với phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cũng nâng lên. Lấy năm 1957 làm gốc so sánh, quỹ tiêu dùng của nhân dân tính bình quân đầu người tăng 82,8%; thu nhập bình quân đầu người của gia đình công nhân viên chức tăng 48,5%; của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 73,8%. Hoạt động giáo dục, y tế đạt được những thành tựu to lớn. Số người đi học năm 1955 là 1.288.000 người thì đến năm 1975 đạt 6.796.900 người, tăng gấp 5,3 lần, trong đó trung học chuyên nghiệp là từ 2.800 người lên 83.500 người, tăng gấp 29,8 lần, đại học từ 1.200 và 61.100 người, tăng gấp 50,9 lần. Tính bình quân cho 1 vạn dân, năm 1955 có 949 người đi học thì đến năm 1975 có 2.769 người, tăng gấp 2,9 lần, trong đó trung học chuyên nghiệp và đại học là 2,9 người và 59 người, tăng gấp 20,3 lần. 1975 cả nước đến 1986 Trong giai đoạn này, cơ cấu quản lý kinh tế của Việt Nam là tập trung bao cấp; theo đó, nền kinh tế tồn tại là nền kinh tế mệnh lệnh, chỉ huy. Đảng và Nhà nước chỉ chấp nhận hai thành phần kinh tế : thành phần kinh tế Nhà nước và thành phần kinh tế tập thể. Các thành phần kinh tế tư nhân không được phép tồn tại và hoạt động. Nói chung trong thời kỳ này, do ảnh hưởng của điều kiện lịch sử, chúng ta đã sao chép rập khuôn mô hình phát triển kinh tế xã hội và cơ cấu quản lý kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa. Và hậu quả tất yếu là năm 1979 và năm 1985-1986, nền kinh tế – xã hội Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng : tình trạng lạm phát trầm trọng (cao nhất là năm 1985 với tỷ lệ lạm phát là 600%), sản xuất trì trệ, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống của người lao động rất khó khăn… Điều này đã tạo áp lực lớn đối với sự phát triển của đất nước. Do đó, sự nghiệp đổi mới được bắt đầu ngay từ áp lực này. Về xã hội, ở thành thị, lương tháng của công nhân, viên chức chỉ đủ sống 10 - 15 ngày. Ở nông thôn, vào lúc giáp hạt có tới hàng triệu gia đình nông dân thiếu ăn, tiêu cực xã hội lan rộng, lòng dân không yên. Chính trị, các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước cũng thấy rõ không thể tiếp tục duy trì những chủ trương, chính sách đã lỗi thời, hoặc chỉ thay đổi có tính chất chắp vá, nửa vời một số chính sách riêng lẻ nào đó thôi. Đứng trước những khó khăn của thực trạng nền kinh tế đất nước, Đảng và Nhà Việt Nam nhận thấy rằng để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân thì việc đầu tiên là phải đổi mới tư duy và nhận thức trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta thực sự có chính sách đổi mới từ Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986). Đổi mới nhận thức về quản lý kinh tế là một vấn đề then chốt trong nội dung của chính sách đổi mới. Trong mười nhiệm vụ mà Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khóa VI chỉ đạo thực hiện thành công trong Báo cáo chính trị thì có 5 nhiệm vụ liên quan đến đổi mới kinh tế: - Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực – thực ẩm người tiêu dùng và hàng xuất khẩu. - Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xuyên với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. - Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. - Giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. - Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động… Như vậy, đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ nước phong kiến lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Việc xác định được vấn đề “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” chứ không phải “bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa” là một bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng ta. Hiểu theo “bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa” nghĩa là phủ định siêu hình, phủ định sạch trơn mọi thành tựu của chủ nghĩa tư bản, không có sự kế thừa những tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra, vì thế với nhận thức đó, nền kinh tế không được phép có sự tồn tại của các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản. Đó là một nhận thức sai lầm. Chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên lĩnh vực khoa học công nghệ kỹ thuật. Thực tế đã chứng minh hoạt động sản xuất và lao động của con người đều có bước tiến khi áp dụng những thành tựu trong khoa học kĩ thuật. Do đó, việc xác định “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” thể hiện tư duy tiến bộ, sự đổi mới trong nhận thức. Đó chỉ là sự rút ngắn, quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà không qua chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa, tức là chúng ta vẫn kế thừa và phát huy thành quả của tư bản chủ nghĩa, áp dụng sáng tạo phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước. V.I.Lênin đã khẳng định : “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được”. Qua đại hội IX - đại hội đầu tiên của thế kỷ XXI của Đảng, đã tổng kết đánh giá, kiểm điểm 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được; điều chỉnh bổ sung, phát triển đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước tiến lên trong thời đại mới. Tính đến hiện nay trong 35 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi; dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. 2.2. Tiến trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời gian qua 2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân Trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội từ sau Đại hội VI (1986) và hơn 30 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Với những chính sách đổi mới kết hợp với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội, đất Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh tế Trước đổi mới, Việt Nam là một quốc gia bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, để lại hậu quả to lớn về con người, hàng hóa và môi trường sinh thái. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển mạnh với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm, cụ thể: - Giai đoạn 1986-1990: mức tăng trưởng của thu nhập bình quân đầu người hàng năm đạt đạt mức 4,4%/năm. - Giai đoạn 1991-1995: mức tăng trưởng của thu nhập bình quân đầu người hàng năm tăng thêm 8,2%/năm. - Giai đoạn 1996-2000: mức tăng cường của thu nhập bình quân đầu người hàng năm đạt mức tăng trưởng là 7,6%/năm. - Giai đoạn 2001-2005: mức tăng trưởng của thu nhập bình quân đầu người hàng năm là 7,34%/năm. - Giai đoạn 2006-2010: giai đoạn này do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân hàng năm ở mức 6,32%/năm. - Giai đoạn 2011-2015: GDP của Việt Nam tăng chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. - Năm 2020 đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3512 USD. Ngoài ra, nông nghiệp có bước phát triển ổn định, nhất là sản xuất lương thực không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, ngày càng phong phú và đa dạng về các loại hình sản phẩm, chất lượng ngày càng được cải thiện, từng bước nâng cao lợi thế cạnh tranh, đảm bảo ổn định cung cầu của nền kinh tế, giữ vững vị thế trong nước. Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, nhà nước còn chủ trương mở rộng thị trường xuất nhập khẩu. Tính đến năm 2020, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng tăng mạnh đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài cũng tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020. Dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Một số ngành như là du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. Xã hội Kinh tế phát triển không những đã giúp đất nước thoát khỏi khủng hoảng trong những 1980 mà còn cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia có chỉ số phát triển của người dân tốt hơn so với các nước có chung mức thu nhập với tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%. Đến nay đã có hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã, nông thôn đều có đầy đủ cơ sở vật chất từ những con đường được nâng cấp lên bằng bê tông đến các trung tâm thương mại, trường học, trạm y tế. Hệ thống giáo dục và hệ thống y tế được đổi mới và đầu tư nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu về học tập và sức khỏe của người dân. Mặc dù chưa có đủ điều kiện đảm bảo giáo dục miễn phí cho mọi người dân ở mọi cấp học, Việt Nam vẫn chú trọng tập trung vào việc hoàn thành xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục từ tiểu học đến trung học cơ sở. Năm 2010, số lượng sinh viên cao đẳng và đại học đã tăng gần 17 lần trong khoảng 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có tới 95% người dân biết đọc, biết viết. Bên cạnh đó, Việt Nam còn tập trung vào việc phát triển các dụng cụ y tế giúp phòng chống dịch bệnh, tăng cường hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Chẳng hạn như những người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi hay những người lớn tuổi được cấp bảo hiểm miễn phí; công tác mở rộng tiêm chủng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được khống chế. Hơn thế nữa, tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh ngày càng giảm, đồng thời tuổi thọ trung bình của người dân ngày càng cao tăng từ 62 tuổi năm 1990 đến 74 tuổi vào năm 2020. Xây dựng đời sống văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hoá kết hợp chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc quan trọng của sự phát triển. Hiện nay, số dân sử dụng Internet chiếm khoảng 70%, điều này làm cho Việt Nam đang dần trở thành nước có nền công nghệ tin học cao trên thế giới. Như vậy, việc chủ trương thực hiện đường lối đổi mới đã đem đến những chuyển biến tích cực, rõ rệt ở Việt Nam từ việc kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, nghèo đói giảm nhanh cho đến các vấn đề xã hội được giải quyết, ổn định trật tự xã hội. Năm 2006, Đại hội Đảng lần thứ X cũng đã nhận định công cuộc đổi mới này đã giành “những thành tựu có ý nghĩa lịch sử”. Xét trên nhiều phương diện, điều kiện sống của người dân Việt Nam tốt hơn bất cứ thời kỳ nào trước đây. Những thành tựu này đã chứng tỏ sự lãnh đạo tài tình của Đảng cũng như chứng minh rằng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa khác có cùng mức phát triển kinh tế. Đáng chú ý trong tình hình Covid-19 hiện nay, với những thành tích đáng kể đạt được của Việt Nam đã được toàn thể nhân dân và bạn bè cường quốc năm châu ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh và khẳng định những thành tựu to lớn, vẻ vang của đất Việt Nam qua 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu đó chính là sản phẩm kết tinh của sự sáng tạo, là kết quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nó khẳng định rằng con đường đi lên của nghĩa xã hội của ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân Trong 35 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu, những mặt tích cực, Việt Nam cũng còn gặp không ít những hạn chế, yếu kém. Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn khá và chưa thật sự bền vững trong 10 năm gần đây khiến ta gặp vô vàn những khó khăn trong quá trình phát triển. Bên cạnh đó, hệ thống thị trường chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế cản trở đất Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại. Vấn đề về môi trường bị ô nhiễm ở nhiều nơi, công tác quản lý thị trường còn gặp nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt, gay gắt trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Về xã hội, chất lượng giáo dục, y tế và những dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế, khoảng cách giàu nghèo vẫn còn tăng. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh khác, nhất là các vấn đề quản lý phát triển xã hội chưa được nhận thức và giải quyết một cách triệt để, hiệu quả. Một số văn hoá, đạo đức xã hội có phần xuống cấp và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Những văn hóa phẩm độc hại tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác một cách bừa bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng tác động đến Việt Nam dẫn đến những hậu quả nặng nề. Thực tế, trên một số lĩnh vực, người dân vẫn chưa được thực hưởng đầy đủ, công bằng thành quả đổi mới. Về chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, như là đổi mới về tổ chức, thể chế, chính sách. Hệ thống chính trị còn cồng kềnh, hiệu quả còn thấp, chưa sánh tầm với nhiệm vụ đề ra. Biên chế của hệ thống chính trị ngày càng tang trong khi chất lượng công vụ ngày một thấp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị và lối sống đạo đức vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch luôn tìm mọi thủ đoạn để can ngăn, chống phá, gây mất ổn định nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 2.3. Giải pháp tiếp tục quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời gian tới Bên cạnh những mặt tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực phải được xem xét một cách nghiêm túc và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đây là cuộc đấu tranh khó khăn, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sự sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường và phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chiếm ưu thế và chiến thắng. Thành công hay thất bại chủ yếu phụ thuộc vào trước hết là sự đúng đắn về đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nhóm tác giả đề ra một số giải pháp để đưa Việt Nam tiếp tục quá trình tiến độ lên chủ nghĩa xã hội. Thứ nhất, chúng ta cần xác định rõ lộ trình và bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình lâu dài với nhiều chặng đường phát triển. Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo nền tảng cơ bản đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là Việt Nam còn phải trải qua bao nhiêu chặng đường, bao nhiêu gian truân nữa để trở thành một nước xã hội chủ nghĩa và làm thế nào để hoàn thiện những nội dung kinh tế-xã hội phù hợp với mỗi chặng đường. Để giải đáp những câu hỏi này một cách khoa học, chúng ta phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, thực tiễn thì mới tạo ra những chính sách phù hợp với mỗi chặng đường và cho cả thời kỳ quá độ. Đồng thời, chúng ta phải khắc phục lối tư duy đơn giản, chủ quan, nóng vội của Đảng, hãy nhìn vào bức tranh lớn để vẽ nên những lối đi, những mục tiêu gần. Thứ hai, Đảng và nhà nước cần đẩy mạnh xây dựng theo yêu cầu nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu làm sáng tỏ hơn việc tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, xem xét giải quyết các mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường để bảo đảm ổn định định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cũng cần nắm rõ vai trò của thị trường đến đâu trong việc phân bổ nguồn tài nguyên cũng như các nguồn lực trong điều kiện hội nhập quốc tế. Thứ ba, chúng ta cần làm rõ mô hình và phương thức quản lý phát triển xã hội. Một măt, nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các hộ dân. Mặt khác, nhà nước phải nâng cao và cải thiện chất lượng giáo dục, y tế và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hóa của người dân. Thêm vào đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải nỗ lực ra sức học tập và làm theo tấm gương đạo đức, tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh với một quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, lối sống và đạo đức của một bộ phận đảng viên, cán bộ. Trước hết là những người lãnh đạo, quản lý các cấp thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của mình để xây dựng tổ chức Đảng cũng như bộ máy nhà nước ngày càng vững mạnh, trong sạch, giữ vững bản chất cách mạng. Thứ tư, chúng ta cần đổi mới đồng bộ giữa kinh tế với chính trị. Hiện nay, đổi mới tư duy chính trị và tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị còn chậm hơn so với đổi mới kinh tế. Vì vậy, việc đẩy mạnh đổi mới chính trị cho đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế là hết sức quan trọng. Chúng ta cần tập trung vào đổi mới thể chế, cơ chế, chính sách, phương thức huy động và phân bổ nguồn lực, kiểm soát quyền lực và phát huy các động lực của sự phát triển. Ngoài ra, Đảng lãnh đạo và cầm quyền để xác định đúng mục tiêu, phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn trong nước và dân tộc mình, mà còn phải tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Hiện nay, trong thời đại toàn cầu hoá, sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc không thể tách rời hay đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Do đó, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi. Hơn thế nữa, chúng ta cần tạo ra những động lực về đổi mới để thôi thúc phát triển Việt Nam trong thời kỳ mới. Muốn làm được như vậy, chúng ta phải nghiên cứu sâu lý luận về động lực và hệ động lực phát triển, trong đó cần nhận thức đúng và xử lý tốt các động lực như lợi ích, dân chủ, đoàn kết yêu nước, phát huy nhân tố con người. Từ những động lực nhỏ tạo thành những động lực tổng hợp thúc đẩy công cuộc đổi mới của Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. KẾT LUẬN Nhìn chung, sau khi nghiên cứu đề tài “ Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”, nhóm tác giả đã hiểu rõ bản chất, tầm quan trọng của việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhận thức được đây là con đường đúng đắn để đạt được sự ấm no, hạnh phúc trọn vẹn cho nhân dân. Bước quá độ này bao trùm lên mọi phương diện của đời sống, từ lĩnh vực kinh tế đến lĩnh vực chính trị, lĩnh vực tư tưởng-văn hoá và cả lĩnh vực xã hội. Ở lĩnh vực chính trị, Đảng và nhà nước cố gắng xây dựng “một nhà nước của dân, do dân, và vì dân". Bước quá độ này không những tác động qua lại giữa kết cấu kinh tế- xã hội của tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế mà còn thay đổi nhận thức về tư tưởng-văn hoá của nhân dân đồng thời xoá bỏ sự chênh lệch vùng miền, sự bất bình đẳng của các giai cấp xã hội. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã trải qua một quá trình dài với rất nhiều giai đoạn thăng trầm, cột mốc lịch sử đáng nhớ và đến nay đã đạt được những thành tựu nhất định, điển hình như: sự tăng trưởng kinh tế trong suốt 35 năm, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, và đang hướng đến mục tiêu lâu dài, xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Song, bên cạnh những thành tựu vẻ vang, vẫn còn nhiều những hạn chế, những khó khăn mà Việt Nam vẫn đang phải đối mặt do hệ thống chính trị còn cồng kềnh, các thế lực thù địch luôn tìm mọi thủ đoạn để can ngăn, chống phá và nhiều yếu tố chủ quan, khách quan khác. Đối mặt với những thách thức này, Việt Nam phải ra sức khắc phục, tìm cách giải quyết để xử lý một cách kịp thời, hiệu quả những khó khăn, bất cập. Chúng ta cần xác định rõ lộ trình và bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình lâu dài với nhiều chặng đường phát triển. Đồng thời cần làm rõ mô hình và phương thức quản lý phát triển xã hội. Tất cả những việc làm này cần phải có sự chung tay của Đảng, nhà nước và cả nhân dân Việt Nam. Mỗi con người, mỗi cá nhân, mỗi tập thể, mỗi dân tộc phải cùng đồng lòng, cùng sánh bước trong hành trình xây dựng một đất nước giàu đẹp, văn minh. Con đường bước lên chủ nghĩa xã hội này sẽ dễ dàng hơn khi nhân dân là chỗ dựa vững chắc cho Đảng và nhà nước để có thể toàn tâm toàn ý, vững vàng trên con đường đầy khó khăn, thử thách này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB: Chính trị quốc gia, Hà Nội ( Bản dự thảo) 2. Xuân Thắng. (15/07/2020). Giá trị tư tưởng, lý luận và sức sống của chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay. Truy cập từ  https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/gia-tri-tutuong-ly-luan-va-suc-song-cua-chu-nghia-mac-trong-thoi-dai-ngay-nay-323349/ 3. Đỗ Thị Thảo và Nguyễn Thị Phong Lan. (26/5/2013). Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay. Truy cập từ https://tapchicongsan.org.vn/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/21694/nhung-thanh-tuuco-ban-ve-phat-trien-kinh-te---xa-hoi-cua-viet-nam-tu-khi-doi-moi-den-nay.aspx? _escaped_fragment_= 4. Nguyễn Phú Trọng. (17/5/2021). Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Truy cập từ https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/bai- viet-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-ve-con-duong-di-len-cnxh-o-viet-nam1491878024 5. Liên đoàn lao động tỉnh KonTum. (24/3/2015). Thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra qua gần 30 năm đổi mới ở Việt Nam. Truy cập từ http://congdoankontum.vn/chinh-tri-xa-hoi/THANH-TUU,-HAN-CHE-VA-NHUNGVAN-DE-DAT-RA-QUA-GAN-30-NAM-DOI-MOI-O-VIET-NAM-434 6. Phan Thanh Khôi. (15/3/2020). Nhận thức về đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Truy cập từ http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/nhanthuc-ve-doi-moi-chinh-tri-dong-bo-phu-hop-voi-doi-moi-kinh-te-o-viet-nam.html 7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 107-108 8. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ năm (khóa XII) (Tài liệu nghiên cứu..., NXB CTQG ST,H.,2017,tr. 72-73) 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 105 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 106 11. V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 248 12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 83 13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 105 14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 107-108 15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 106 16. C. Mác- Ph. Ăng Ghen: Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 19 17. V.I. Lênin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276 18. V.I. Lênin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276 19. V.I. Lênin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276 20. http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-thoi-ky-qua-do-lencnxh-o-viet-nam-gia-tri-va-nhung-luan-diem-can-bo-sung-123889
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng