Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập...

Tài liệu Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

.PDF
17
1
81

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA TIẾNG ANH ĐỀ TÀI THẢO LUẬN HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN Đề tài: QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP Nhóm: 10 Lớp học phần: 2115MLNP0221 Giáo viên hướng dẫn: Phạm Thị Hương Hà Nội, tháng 3 năm 2021 DANH SÁCH THÀNH VIÊN STT Họ và tên 91 Trần Thị Thủy 92 Vũ Thị Phương Thủy 93 Vũ Thị Thu Trà 94 Võ Ngọc Trâm 95 Doãn Hà Trang 96 Lê Thị Trang 97 Lê Thùy Trang 98 Phan Hà Trang 99 Quách Thị Huyền Trang 100 Vũ Huyền Trang A. PHẦN MỞ ĐẦU - Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản và quan trọng nhất - hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. - Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới. B. PHẦN NỘI DUNG I. KHÁI NIỆM MẶT ĐỐI LẬP, MÂU THUẪN, TÍNH CHẤT CHUNG CỦA MÂU THUẪN VÀ PHÂN LOẠI MÂU THUẪN. 1. Khái niệm mâu thuẫn. a. Khái niệm. Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới. Ví dụ: Mối quan hệ giữa điện tích âm và điện tích dương của một dòng điện; giữa đồng hoá và dị hoá của cơ thể sống; giữa chân lý và sai lầm trong quá trình nhận thức; giữa cung và cầu trên thị trường hàng hoá,… b. Các tính chất chung của mâu thuẫn. Mâu thuẫn có tính khách quan: Nghĩa là mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người. Ví dụ: Quá trình phát sinh một giống loài mới hoàn toàn diễn ra một cách khách quan theo quy luật tiến hoá của giới tự nhiên. Con người muốn sáng tạo một giống loài mới thì cũng phải nhận thức và làm theo quy luật đó. Mâu thuẫn có tính phổ biến: Nghĩa là mọi sự vật, hiện tượng trong mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy đều tồn tại mâu thuẫn. Ví dụ: Trong giới tự nhiên: đó là sự phát triển từ thế giới vật chất vô cơ đến hữu cơ; từ vật chât chưa có năng lực sự sống đến sự phát sinh các cơ thể sống và tiến hoá dần lên các cơ thể có cơ cấu sự sống phức tạp hơn - sự tiến hoá của các giống loài làm phát sinh các giống loài thực vật và động vật mới đến mức có thể làm phát sinh loài người với các hình thức tổ chức xã hội từ đơn giản đến trình độ tổ chức cao hơn; cùng với quá trình đó cũng là quá trình không ngừng phát triển nhận thức của con người từ thấp đến cao... Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú: Tính đa dạng của mâu thuẫn được thể hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện tượng trong mỗi lĩnh vực khác nhau, qua từng giai đoạn phát triển, mâu thuẫn có đặc điểm, vị trí khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật. Ví dụ: Không thể đồng nhất tính chất, phương thức phát triển của giới tự nhiên với sự phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển của giới tự nhiên thuần tuý tuân theo tính tự phát, còn sự phát triển của xã hội loài người lại có thể diễn ra một cách tự giác do có sự tham gia của nhân tố ý thức. c. Phân loại mâu thuẫn. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú, đa dạng đó được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ thống mà trong đó mâu thuẫn tồn tại. * Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, ta có thể phân loại các mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. - Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật. Ví dụ:Mâu thuẫn giữa hoạt động ăn và hoạt động bài tiết là mâu thuẫn bên trong mỗi con người. - Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác. Ví dụ: Phòng A và phòng B đều đang phấn đấu để trở thành đơn vị kinh doanh xuất sắc nhất của công ty X. Ở đây tồn tại mâu thuẫn giữa phòng A và phòng B. Nếu xét riêng đối với phòng A (hoặc phòng B), mâu thuẫn này là mâu thuẫn bên ngoài. - Việc phân chia thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ mang tính tương đối, tùy theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nếu xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên trong, nhưng xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên ngoài. Ví dụ: Ở trên ta đã đưa ra các ví dụ về phòng A, phòng B của công ty X. Nếu xét trong nội bộ phòng A thì mâu thuẫn giữa phòng A và phòng B là mâu thuẫn bên ngoài. Nhưng nếu xét trong nội bộ công ty X thì mâu thuẫn giữa phòng A và phòng B là mâu thuẫn bên trong. - Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận đông, phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài. Việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong. * Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. - Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Mâu thuẫn này được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất. 2. Khái niệm mặt đối lập. - Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong hiện thực nhưng lại là tiền đề, điểu kiện tồn tại của nhau. Ví dụ: Trong một nguyên tử có điện tích âm >< điện tích dương; trong cơ thể sống có quá trình đồng hóa >< dị hóa; trong xã hội có giai cấp: g/c thống trị>< g/c bị trị; tư tưởng con người: đổi mới >< bảo thủ. - Các mặt đối lập này phải có liên hệ với nhau, nếu tách rời nhau thì chúng không còn là mặt đối lập (xét trong một chỉnh thể). II. NỘI DUNG QUY LUẬT. 1. Sự thống nhất của các mặt đối lập: Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Ví dụ: + Trong mỗi con người, các mặt đối lập là hoạt động ăn và hoạt động bài tiết. + Trong một lớp học, các mặt đối lập là hoạt động đoàn kết để cả lớp cùng lớn mạnh và hoạt động cạnh tranh để trở thành sinh viên giỏi nhất lớp. + Trong sinh vật, các mặt đối lập là đồng hóa và dị hóa. Sự tồn tại của các mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật. *Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là gì? - Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là tính quy định ràng buộc lẫn nhau, nương tựa vào nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau giữa các mặt đối lập. Dó đó nếu không có mặt đối lập này thì cũng sẽ không có mặt đối lập kia và ngược lại. Sự thống nhất này còn nói lên sự đồng nhất giữa chúng: có nghĩa là giữa chúng có điểm giống nhau, nên khi biến đổi thì chúng có thể hóa vào nhau. Ví dụ: Trong hoạt động bài tiết thì con người có hai hoạt động đối lập nhau: hoạt động ăn, hoạt động bài tiết. Mặc dù chúng đối lập nhau nhưng lại không thể tách rời nhau và phụ thuộc vào nhau, từ đó cho thất hai hoạt động này có sự thống nhất với nhau. - Sự thống nhất đó tạo lên những nhân tố “đồng nhất” của các mặt đối lập. Khi ở một mức độ nào đó chúng sẽ có thể chuyển hóa cho nhau. - Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng có biểu hiện tác động ngang nhau, đó chỉ là trạng thái vận động khi có sự diễn ra căn bằng. 2. Sự đấu tranh của các mặt đối lập: - Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tương tác qua lại theo xu hướng phủ định, bài trừ nhau của các mặt đối lập - Hình thức đấu tranh các mặt đối lập vô cùng phong phú và đa dạng, tùy thuộc vào mối quan hệ qua lại của điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh và các mặt đối lập, tính chất. Ví dụ: Trong một lớp học, hoạt động đoàn kết và hoạt động cạnh tranh là các mặt đối lập. Có những lúc hoạt động đoàn kết nổi trội hơn, nhưng có những lúc hoạt động cạnh tranh lại nổi trội hơn. Như thế, hoạt động đoàn kết và hoạt động cạnh tranh đang “đấu tranh” với nhau a. Mâu thuẫn biện chứng là gì? - Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái mà các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. - Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và nguồn gốc phát triển của nhận thức. - Ta cần phân biệt mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn lô-gic hình thức. Mâu thuẫn lô-gic hình thức chỉ tồn tại trong tư duy, xuất hiện do sai lầm trong tư duy. Ví dụ: Mâu thuẫn giữa điện tích dương và điện tích âm, giữa lực hút và lực đẩy trong thế giới vật lý, giữa đồng hóa và dị hóa trong sinh vật, giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột trong đời sống kinh tế, giữa các quan điểm, học thuyết chống đối nhau trong triết học và các lý thuyết về tự nhiên, xã hội, v.v. b. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. - Sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hương tác động khác nhau của các mặt đối lập. Hai xu hướng này tạo thành một loại mâu thuẫn đặc biệt. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “sự đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, ổn định tạm thời của sự vật. Còn sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động, phát triển. - Đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó ngày càng lớn lên, rộng ra và đi đến trở thành đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt và đã hội đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ sự giải quyết này mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi, thay thế bằng sự vật mới. Ví dụ: Trong hoàn cảnh sống của bạn Lan đang tồn tại một mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa việc có tiền ít và muốn đi du lịch nhiều. Khi mâu thuẫn này phát triển đến mức bạn Lan không đi du lịch nhiều thì không thể thấy hạnh phúc, nên bạn Lan đã quyết tâm học tiếng Anh để đi kiếm tiền nhiều hơn. Kiếm được tiền nhiều nghĩa là mâu thuẫn đã được giải quyết. Cuộc sống cũ ít hạnh phúc của Lan được thay bằng cuộc sống mới nhiều hạnh phúc hơn -> Như thế, sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. 3. Chuyển hóa các mặt đối lập. - Quá trình thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa các mặt đối lập. - Chuyển hoá dùng để chỉ sự biến đổi của sự vật này sang sự vật khác, của hiện tượng này thành hiện tượng khác. Sự chuyển hoá là vô cùng, vô tận diễn ra trong mọi điều kiện hoàn cảnh đối với mọi lĩnh vực của thế giới hiện thực. Đây cũng là sự khác nhau căn bản về chất trong quan niệm về sự chuyển hoá của tư duy giữa triết học Mác - Lênin và các dòng triết học trước đó, khẳng định tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng.Sự chuyển hóa của các mặt đối lập được thể hiện xuyên suốt, bao trùm toàn bộ các nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật. - Trong quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập đã chỉ ra: mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm những mặt đối lập. Hai mặt đối lập này đấu tranh với nhau, bài trừ lẫn nhau, làm cho sự vật, hiện tượng luôn vận động biến đổi, phát triển không ngừng. Quá trình đấu tranh đó diễn ra thông qua nhiều giai đoạn, đến một lúc nhất định hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau, khi đó mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. + Phương thức thứ 1: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia Ví dụ: Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất lạc hậu và lực lượng sản xuất tiên tiến. Sau nhiều cuộc cách mạng thì những gì bị cho là lạc hậu lỗi thời phải nhường chỗ cho những hoạt động tiên tiến hợp thời đại. Vì vậy quan hệ sản xuất lạc hậu chuyển hóa thành lực lượng sản xuất tiên tiến + Phương thức thứ 2: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn. Ví dụ: C.Mác đã viết về một trường hợp cụ thể: "Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa. nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên" III . Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN. Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. - (Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật và là khách quan trong bản thân sự vật nên cần) phải phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật bằng cách phân tích sự vật tìm ra những mặt, nhữngkhuynh hướng trái ngược nhau và mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng. - (Vì mâu thuẫn có tính đa dạng phong phú, vì vậy khi tìm hiểu và giải quyết mâu thuẫn cần) phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, biết phân loại mâu thuẫn và tìm cách giải quyết cụ thể đối với từng mâu thuẫn. - Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn - phù hợp với từng loại mâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, phù hợp để làm cho sự vật, hiện tượng phát triển không ngừng.Không được điều hòa mâu thuẫn - Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi điều kiện đã chín muồi. Phải chống thái độ chủ quan, nóng vội, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm các điều kiện giải quyết mâu thuẫn Ví dụ: Vận dụng vào Việt Nam những mâu thuẫn phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập thống nhất biện chứng. Có ổn định thì mới đổi mới được.Muốn ổn định được thì cần phải giải quyết những mâu thuẫn sau: - Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. - Mâu thuẫn giữa hình thái trước đây và nền kinh tế thị trường. - Mâu thuẫn giữa nền kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀO DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC I. QUÁ TRÌNH DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC. 1. Các khái niệm. a. Văn hóa. - Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của con người. Văn hóa không chỉ có chức năng bồi đắp về tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ cho xã hội mà còn là động lực, là nguyên nhân, là nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội. Tiềm năng nguồn lực văn hóa chính là năng lực sáng tạo thẩm mỹ- nghệ thuật của đội ngũ văn nghệ sĩ; các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật; các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể mà thế hệ trước để lại. b. Nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. - Nền văn hóa tiên tiến thể hiện tinh thần yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xac hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ thể hiện ở nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức thể hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung. - Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là nền văn hóa chứa đựng những yếu tố tạo ra sức sống, bản lĩnh dân tộc, bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năn lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường của dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, xã hội, đất nước; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống. => Như vậy, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là nền văn hóa giữ gìn và phát huy được những giá trị bền vững, tinh hoa của văn hóa dân tộc và tiếp nhận một cách sáng tạo, có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. 2. Sự phát triển của nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. - Trong thời kì chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mọi hoạt động sáng tạo, sản xuất, phổ biến, tiếp nhận các sản phẩm văn hóa nghệ thuật ở nước ta đều chịu tác động của quy luật kinh tế thị trường. Đội ngũ tri thức, văn nghệ sĩ phải đối mặt với thị trường, trả lời các câu hỏi của đời sống, đáp ứng nhu cầu thụ hưởng văn hóa ngày càng đa dạng, sinh động của các tầng lớp xã hội khác nhau. Nhu cầu tiêu dùng của các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của nhân dân tác động mạnh mẽ đến quá trình sáng tạo, sản xuất, quảng bá, các sản phẩm này. Đây vừa là thời cơ để đội ngũ văn nghệ sĩ, những doanh nghiêp hoạt động trên lịnh vực này phát huy tài năng, sức sáng tạo, đáp ứng nhu cầu của công chúng, đồng thời cũng đặt ra không ít thách thức trước sự biến đổi thường xuyên của nhu cầu văn hóa, nghệ thuật của công chúng. Công việc sáng tạo giờ đây không thể ngồi yên trên “tháp ngà” mà phải bám sát vào đời sống thực tiễn, đối diện thường xuyên với thị trường văn hóa. Mặt khác, mọi hoạt động văn hóa, nghệ thuật đều phải vừa chú ý đến hiệu quả tư tưởng, thẩm mỹ, nghệ thuật, vừa phải chú ý cả về hiệu quả kinh tế- xã hội. Những người tham gia vào hoạt động trên lĩnh vực này cũng phải am hiểu quy luật cung-cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh để tối ưu hóa hiệu quả sản phẩm của mình. Tính liên kết, sự hợp tác giữa các chủ thể sáng tạo, sản xuất, phổ biến, thụ hưởng các thành tựu sáng tạo ngày càng trở nên cần thiết để tạo nên chuỗi giá trị của sản phẩm văn hóa, nghệ thuật. Chúng có mối liên hệ với nhau, cùng nhau duy trì và phát triển nền văn hóa dân tộc. - Trong điều kiện đổi mới và hội nhập, song song với đó là sự giao thoa văn hóa giữa các quốc gia với nhau, điều đó làm nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn cơ bản nhất là nền văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc với sự du nhập của các nền văn hóa khác trên thế giới. Chúng ta cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phân tích cụ thể mâu thuẫn để có thể đưa ra hướng giải quyết đúng đắn. Chúng ta cần hiểu rằng, bản sắc dân tộc không phải là cái nhất thành bất biến, mà là một sản phẩm gắn với từng bước phát triển của cộng đồng dân tộc, tức là luôn có xu thế hướng tới hiện đại và nó chịu tác động của quá trình biến đổi của nền kinh tếxã hội của một quốc gia. Với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin- truyền thông, con người và những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam ít nhiều đã bị tác động và biến đổi. Bên cạnh những nhân tố tích cực thúc đẩy nền văn hóa phát triển hiện đại, tạo ra những công cụ, phương tiện để giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thì cũng tồn tại nhiều nhân tố tác động xấu khiến cho giá trị văn hóa truyền thống trở nên lạc hậu hoặc bị mai một, bị biến dạng. Chúng ta phải giải quyết mâu thuẫn bằng biện pháp đấu tranh chứ không thể điều hòa mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ. Chúng ta phải trân trọng và giữ gìn, xây dựng một nền văn hóa giàu bản sắc dân tộc, lấy văn hóa dân tộc làm gốc. Đó là nền văn hóa bao gồm sự thống nhất trong tính đa dạng, phong phú của nền văn hóa của các dân tộc anh em trên dải đất hình chữ S; của các vùng, các địa phương trong nước. Chúng ta đấu tranh để loại bỏ những tư tưởng, phong tục cổ hủ, lạc hậu như: hứa hôn sớm, quan niệm trọng nam khinh nữ,…và tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ, đúng đắn. Bên cạnh đó, chúng ta cần biết đứng vững trên cái nền dân tộc để chiếm lĩnh, tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa bên ngoài, khoa học tiên tiến của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới. Việc tiếp thu những văn hóa bên ngoài và giữ gìn bản sắc dân tộc đối lập nhau nhưng chính điều này lại thúc đẩy cho nền văn hóa nước nhà phát triển tiến bộ, đa dạng và phong phú hơn. 3. Những thành tựu trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. - Trong suốt chặng đường hơn 83 năm lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến vĩ đại: chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của văn hóa và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, phát huy sức mạnh văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước. - Ý thức sâu sắc về sức mạnh văn hóa đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc thoát khỏi ách áp bức thống trị của thực dân Pháp xâm lược, ngay từ tháng 2 năm 1943, Đảng ta đã ban hành “Đề cương văn hóa Việt Nam”. Đây là bản Cương lĩnh văn hoá đầu tiên của Đảng ta, đặt nền tảng lý luận cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa kháng chiến, kiến quốc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và soi đường cho sự phát triển nền văn hóa Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua. Đảng ta xác định: "Văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hóa", vì vậy, "phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được công cuộc cải tạo xã hội" và "Đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa tiên phong"; đồng thời, đề ra ba nguyên tắc cuộc vận động văn hóa mới: “Dân tộc, đại chúng, khoa học”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ba nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa mới đã trở thành ngọn cờ cổ vũ, động viên, tập hợp đông đảo đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ vào Hội Văn hoá cứu quốc và soi đường cho các hoạt động của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, tạo thành sức mạnh tinh thần to lớn, động viên, cổ vũ nhân dân ta tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. - Trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức quán triệt sâu sắc nguyên tắc tính dân tộc, tính đại chúng, tính khoa học của Đề cương Văn hóa Việt Nam; kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc qua mấy nghìn năm dựng và giữ nước, đồng thời tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại, sáng tạo ra những tác phẩm văn hóa nghệ thuật kiệt xuất, phục vụ kịp thời cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sức mạnh nội sinh của văn hóa đã được phát huy mạnh mẽ, tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc, trở thành niềm cổ vũ, động viên to lớn đối với quân và dân hai miền Nam - Bắc; nâng cao tinh thần yêu nước, thôi thúc mạnh mẽ phong trào thi đua giữa tiền tuyến và hậu phương, quyết tâm thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. - Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với tư duy đổi mới toàn diện, Đảng đã chủ trương đổi mới tư duy trên lĩnh vực văn hóa. Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị (Khóa VI) đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW về lãnh đạo văn hóa - văn nghệ trong cơ chế thị trường. Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đảng xác định một trong sáu đặc trưng của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí, vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Đồng thời, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người; chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. - Trong quá trình hội nhập và phát triển, để chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và ngăn chặn "luồng văn hóa độc hại" xâm nhập vào nước ta từ nhiều con đường khác nhau, Bộ Chính trị (khóa X) đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 23NQ/TW “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm giữ gìn, bảo vệ "bản sắc văn hoá dân tộc” trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Bộ Chính trị yêu cầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể các cấp và đội ngũ đảng viên, cán bộ tăng cường đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và chung tay góp sức, kiên quyết ngăn ngừa, phòng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại, ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống và đạo đức xã hội. - Kế thừa ba nguyên tắc cuộc vận động văn hóa mới của “Đề cương Văn hóa Việt Nam” và phát triển tư tưởng văn hóa của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”. - Nhờ những định hướng đúng đắn đó, việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Đảng, Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp đã bàn hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng về các lĩnh vực phát triển văn hóa. Đến nay, cả nước có trên 40000 di tích văn hóa được xếp hạng, trong đó có 3491 di tích cấp quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới và 12 di sản văn hóa phi vật thể, 7 di sản tư liệu được UNESCO công nhận. Đáng chú ý là có 145/288 di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số, được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; nhiều lễ hội, sự kiện văn hóa trong và ngoài nước được tổ chức, trong đó có các lễ hội, liên hoan nghệ thuật truyền thống của các dân tộc thiểu số; hệ thống bảo tàng tiếp tục được mở rộng và ngày càng đổi mới về nội dung và hình thức trình bày, thực hiện tốt công tác giáo dục truyền thống, nâng cao giá trị văn hóa, khoa học cho người dân, nhất là thế hệ trẻ; các thiết chế văn hóa được quan tâm xây dựng và từng bước hiện đại, phát triển rộng khắp từ trung ương tới cấp xã, bao gồm 21084 thư viện, phòng đọc và hơn 26000 thư viện các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, hệ thống giáo dục quốc dân, thư viện chuyên ngành. Trung tâm văn hóa, nhà văn hóa không chỉ được mở rộng ở một số quốc gia, ở trong nước cũng được phát triển đến các thôn, bản; vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội trong xây dựng con người mới, gia đình hạnh phúc, môi trường văn hóa lành mạnh luôn được quan tâm. Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa không ngừng lớn mạnh, trong đó có cả văn hóa quần chúng, nghệ nhân và văn hóa đỉnh cao; phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được mở rộng và từng bước đi vào chiều sâu, tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng, đạo đức, lối sống cho các tầng lớp nhân dân; hệ thống thông tin, báo chí, xuất bản phát triển rộng khắp từ trung ương đến địa phương với tất cả các loại hình báo chí, đáp ứng nhu cầu về thông tin trong nước và quốc tế cho người dân, cùng với các lĩnh vực văn hóa khác, góp phần thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền. Trong điều kiện công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, Việt Nam rất coi trọng bảo vệ, gìn giữ văn hóa truyền thống, đấu tranh chống lại các sản phẩm phi văn hóa, các thông tin sai trái, thù địch. Ngoài ra, các lĩnh vực về quyền tác giả, các quyền liên quan, công nghiệp văn hóa được xác định sớm, tầm nhìn đến năm 2030, với 12 ngành chính; hội nhập quốc tế về văn hóa, thực hiện các điều ước quốc tế song phương và đa phương, thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế về văn hóa tiếp tục phát triển sâu rộng. 4. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. a. Những hạn chế. - Thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập: + Chưa phát huy hết vai trò, tiềm năng của văn hóa đóng góp vào sự phát triển của đất nước, ở một số nơi chưa thực sự đặt văn hóa ngang bằng với kinh tế, xã hội; công tác tổ chức thực hiện chủ trương, quan điểm phát triển văn hóa ở một số lĩnh vực, địa phương còn hạn chế, cơ chế chính sách còn bất cập, đầu tư chưa tương xứng với yêu cầu phát triển, một số thiết chế văn hóa chưa sử dụng có hiệu quả; việc thu hẹp khoảng cách hưởng thụ về văn hóa giữa các vùng miền, đặc biệt những nơi khó khăn còn chậm. + Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng. + Số lượng tác phẩm văn hóa có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật chưa tương xứng với yêu cầu phát triển văn hóa, đồng thời vẫn còn không ít tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. + Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích. Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. + Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập.Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ. b. Nguyên nhân của những hạn chế. - Trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa chúng ta chưa chú trọng, chưa nhận thức đầy đủ về những mâu thuẫn giữa các yếu tố, hoạt động của nền văn hóa; chưa có cách giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng và phát triển của nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chưa xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn trong xã hội; chưa giải quyết được các mâu thuẫn một cách triệt để. Một số cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội và một bộ phận nhân dân nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò quan trọng của việc xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Vị trí, vai trò của văn hoá chưa thực sự được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. - Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý chưa thực sự đổi mới, nhất là trong việc xây dựng, đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá. Việc thực hiện nêu gương của cán bộ, đảng viên ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn hình thức, chưa tạo được sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ. - Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá có mặt còn bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn, chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả, chưa phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp, sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ của các chủ thể văn hoá, khích lệ, động viên tính tích cực xã hội của nhân dân, nhất là đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức trong tổ chức thực hiện Nghị quyết. II. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP. 1. Phương hướng. - Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của chính quyền và nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển đất nước. - Đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, coi trọng xây dựng pháp chế, hoàn thiện thể chế văn hóa phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. - Tăng cường đầu tư, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về văn hóa. - Quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm văn hóa. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, con người. - Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng. - Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng. - Phát triển hệ thống thông tin đại chúng. - Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa; đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ thuật, đất nước con người Việt Nam với thế giới. 2. Giải pháp. - Tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Khẩn trương hoàn thiện việc xây dựng hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Hướng các hoạt động văn hoá, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người Việt Nam có thế giới quan khoa học, có nhân cách, lối sống đẹp với các đặc tính cơ bản "yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo". - Đẩy mạnh xây dựng môi trường và đời sống văn hoá lành mạnh, gắn với phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá", "xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh". Có cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đề cao vai trò, trách nhiệm và các giá trị văn hoá tốt đẹp của gia đình trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ thanh thiếu nhi, cùng với nhà trường giáo dục, hình thành nhân cách, đạo đức trong sáng và kỹ năng ứng xử xã hội văn minh. Xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, gìn giữ, ứng xử đúng đắn với môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hoá tiến bộ, văn minh. Huy động nguồn lực của mọi tầng lớp xã hội đầu tư và tổ chức đời sống văn hoá, góp phần thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền, các tầng lớp trong xã hội. - Tăng cường xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế. Tiếp tục chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Coi trọng xây dựng văn hoá từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh việc "học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"; thực hiện nghiêm các quy định về nêu gương đối với cán bộ, đảng viên, nhất là với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ những người làm công tác giáo dục, văn nghệ sĩ và cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hoá, lãnh đạo doanh nghiệp và những người có tầm ảnh hưởng quan trọng trong cộng đồng và xã hội. Chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá", hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong hệ thống chính trị và xã hội. Chú trọng yếu tố văn hoá và con người trong phát triển kinh tế. Đẩy mạnh việc triển khai xây dựng văn hoá doanh nghiệp, tinh thần khởi nghiệp, xây dựng đội ngũ doanh nhân giỏi, kinh doanh đúng pháp luật, đóng góp có trách nhiệm cho cộng đồng và xã hội. - Xử lý hài hoà giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá các dân tộc với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch bền vững ở các địa phương, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Chú trọng thực hiện các chương trình phục hồi, bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một; giữ gìn và phát huy di sản văn hoá các dân tộc thiểu số, các giá trị văn hoá trong tôn giáo, tín ngưỡng. - Chủ động hội nhập quốc tế về văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và truyền bá văn hoá Việt Nam ra thế giới. Mở rộng giao lưu, hợp tác văn hoá với các nước; đa dạng hoá các hình thức văn hoá đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hoá đi vào chiều sâu. Tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài, các tổ chức quốc tế đầu tư trí tuệ, nguồn lực, tham gia phát triển văn hoá, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. C. KẾT LUẬN Khái quát lại, mọi đối tượng đều bao gồm những mặt, những khuynh hướng, lực lượng… đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong chính nó; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập này là nguyên nhân, động lực bên trong của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời. Do đó, trong hoạt động thực tiễn phát triển từng mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất, khuyng hướng vận động phát triển của sự vật, hiện tượng để từ đó tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực hiện để giải quyết mâu thuẫn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng