Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh dân tộc ở trường tiể...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh dân tộc ở trường tiểu học

.PDF
20
144
75

Mô tả:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC HỌC SINH DÂN TỘC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh đại trà nói chung và chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số nói riêng được xem là nhiệm vụ hàng đầu của ngành Giáo dục. Chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số là yếu tố quan trọng không thể thiếu, đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động chuyên môn của các nhà trường có đối tượng là học sinh dân tộc thiểu số. Hiện nay, hầu hết các trường đều tập trung tăng cường chú trọng nhiều về công tác nâng cao chất lượng dạy và học cho học sinh dân tộc thiểu số, nhằm mục đích nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, đưa chất lượng học sinh ngày một nâng cao dần theo tình hình đổi mới của đất nước hiện nay, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, thì bậc tiểu học là bậc nền tảng, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng là bước đầu hình thành nhân cách con người cũng là bậc học giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở. Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi người quản lý phải biết vận dụng sáng tạo các biện pháp một cách sáng tạo, người dạy học phải có kiến thức sâu và sự hiểu biết nhất định về nội dung chương trình sách giáo khoa, có khả năng hiểu được về tâm sinh lí của học sinh, về nhu cầu và khả năng của các em. Đồng thời, người dạy có khả năng sử dụng một cách linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số. Là một cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn, tôi nhận thấy đây là một nhiệm vụ trọng tâm trong nhà trường. Làm thế nào để đẩy mạnh sự phát triển giáo dục nói chung và nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói riêng, đặc biệt là công tác nâng cao chất lượng giáo dục dân tộc. Hiện nay chủ trương của ngành là dạy học theo nhận thức của đối tượng học sinh, học sinh biết đến đâu giáo viên dạy đến đó, đồng thời đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh: Coi trọng sự tiến bộ của học sinh trong 1 học tập và rèn luyện, động viên khuyến khích học sinh rèn kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, hợp tác và kỹ năng sáng tạo, không gây áp lực cho học sinh khi đánh giá. Tạo điều kiện và cơ hội cho tất cả học sinh hoàn thành chương trình và có mảng kiến thức dành riêng cho đối tượng học sinh khá - giỏi để nâng cao. Giao quyền tự chủ cho giáo viên trong quá trình giảng dạy, căn cứ vào mức độ nhận thức của học sinh về đạo đức, học tập và rèn luyện để thiết kế, tổ chức hoạt động dạy học sao cho đạt hiệu quả. Song vẫn còn không ít giáo viên bị ảnh hưởng nặng nề bởi phương pháp dạy học truyền thống, không hiểu rằng việc đổi mới phương pháp dạy học tức là dùng phương pháp dạy học mới một cách hợp lí để tạo cho người học lòng say mê học tập, ham hiểu biết, óc tò mò để có khả năng và phương pháp học tập nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục vùng dân tộc thiểu số phù hợp với bối cảnh của xã hội mà vẫn giữ được sự ổn định trong hoạt động dạy học. Đổi mới không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn cái hiện hành mà phải thừa kế sự phát huy những thành tựu đã đạt được. Đồng thời tạo ra được sự phối hợp chặt chẽ giữa phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp hiện đại. Trong những năm vừa qua, mặc dù được Huyện ủy, HĐND, UBND, phòng Giáo dục- Đào tạo huyện Kbang và địa phương quan tâm, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học, chăm lo đời sống của đội ngũ CBGVNV, hỗ trợ học sinh bằng những chính sách thiết thực nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, vì những khó khăn như trình độ dân trí không đồng đều, điều kiện cơ sở vật chất của các trường vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được nhu cầu, đặc biệt là trình độ nhận thức, vốn tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế nên chất lượng giáo dục còn rất thấp. Là một người làm công tác giảng dạy và quản lý ở trường có nhiều học sinh dân tộc thiểu số hơn 20 năm, thấy được những khó khăn về đội ngũ giáo viên, trình độ nhận thức của học sinh, sự quan tâm của phụ huynh đối với việc học tập của học sinh tôi cùng với nhiều đồng nghiệp luôn trăn trở, làm thế nào để tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Sau nhiều năm nghiên cứa và đã chỉ đạo cho tập thể giáo viên trường Tiểu học Bùi Thị Xuân (trong những năm trước) và trường 2 tiểu học Nguyễn Đình Chiểu (năm học 2016-2017) áp dụng thực hiện một số biện pháp cụ thể trong công tác dạy và học cho đối tượng học sinh dân tộc, nên chất lượng giáo dục đã được nâng lên rõ rệt. Với tầm quan trọng và cần thiết của việc nâng cao chất lượng Giáo dục học sinh dân tộc thiểu số nói chung và học sinh dân tộc thiểu số trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu nói riêng, bản thân tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “ Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số tại trường tiểu học Nguyễn Đình Chiểu, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.” để góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh dân tộc trong nhà trường nói riêng và học sinh dân tộc trong huyện nói chung để từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đáp yêu cầu công cuộc đổi mới hiện nay. PHẦN THỨ II: NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành tham mưu để Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chính sách hỗ trợ ở vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc và chỉ đạo các địa phương thực hiện nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục như: Đề án Kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012, Đề án Củng cố và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú giai đoạn 2011-2015(Quyết định số 1640/QĐ-TTg ngày 20/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ; Nghị định số 82/2010/NĐ-CP ngày 15/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên; Quyết định số 2123/QĐ-TTg ngày 22/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010-2015; Đề án “ Tăng cường tiếng Việt cho trẻ Mầm non, học sinh Tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025” trên địa bàn huyện Kbang. Trong những năm vừa qua, Giáo dục học sinh dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn đã và đang được Đảng, Nhà nước và các địa phương quan tâm, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ 3 cho dạy và học. Bộ Giáo dục - Đào tạo đã có rất nhiều thay đổi về khung thời gian, chương trình, sách giáo khoa đối với học sinh dân tộc thiểu số như chương trình 100 tuần, chương trình 120 tuần, chương trình 165 tuần; tăng thời lượng môn tiếng Việt, giảm tải chương trình sách giáo khoa; soạn thảo chương trình sách giáo khoa tiếng dân tộc... Dự án giáo dục cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (PEDC) đã hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, sách giáo khoa, sách hướng dẫn, tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, tuyển chọn và bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng cho đội ngũ nhân viên hỗ trợ giáo viên là người dân tộc thiểu số trong quá trình giảng dạy... song chất lượng vẫn chưa được như mong muốn, hiệu quả giáo dục thấp, tỷ lệ học sinh yếu kém, lưu ban, bỏ học vẫn còn cao thậm chí vẫn còn những học sinh "ngồi sai lớp". II. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH Trường tiểu học Nguyễn Đình Chiểu thuộc xã Đông, cách trung tâm huyện Kbang 3 km về phía đông nam. Phía Bắc giáp thị trấn Kbang, phía nam giáp xã Kông Bờ La, Kông Lơng Khơng, phía tây giáp xã Lơ Ku, phía Đông giáp xã Nghĩa An. Là một xã miền núi vừa phấn đấu thoát ra khỏi xã đặc biệt khó khăn vào năm 2008. Toàn xã có 11 thôn (làng). Gồm có : 1.404 hộ với 5.885 nhân khẩu. Trong đó hộ người Kinh 923 hộ, 3.814 khẩu; Hộ Bahnar: 395 hộ, 1.721 khẩu, chiếm 29,3%, dân tộc khác: 86 hộ, 350 khẩu; Tỷ lệ hộ nghèo của xã hiện nay là 13,5%. Xã Đông có 5 dân tộc anh em cùng chung sống đoàn kết và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Năm học 2016 – 2017, tổng số CB- GV là 22 người, biên chế 11 lớp; được phân công nhiệm vụ như sau: 2 cán bộ quản lý nhà trường ; 11 giáo viên trực tiếp giảng dạy theo lớp được phân công ; 6 giáo viên dạy bộ môn cho các khối, lớp ; 1 giáo viên hợp động ngắn hạn giảng dạy các môn đặc thù Tiếng Anh ; 01 giáo viên làm nhiệm vụ Kiêm nhiệm TPT Đội TNTP&NĐ Hồ Chí Minh; 1 giáo viên kiêm nhiệm phụ trách thư viện. Tổng số lớp: 11 lớp với 282 học sinh trong đó học sinh dân tộc thiểu số là 120 em chiếm tỷ lệ 42,6%. * Thuận lợi: 4 Đa số học sinh có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức thi đua học tập; số học sinh giỏi cấp trường tăng dần, tạo đà đưa chất lượng của nhà trường ngày càng phát triển, tăng thêm uy tín chất lượng của nhà trường. Toàn trường có tổng số 11 lớp, có 11/11 lớp học 2 buổi/ ngày ( trong đó có 8 lớp học theo chương trình VNEN ) với 282 học sinh, trong đó học sinh dân tộc thiểu số là 120 em chiếm tỷ lệ 42,6%. Số lượng cán bộ, giáo viên phân công theo công việc đầy đủ, giáo viên trực tiếp giảng dạy chủ yếu là người Kinh. Chính quyền địa phương luôn tạo điều kiện và đóng góp về cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học. Đặc biệt là sự phối hợp nhịp nhàng của đội ngũ giáo viên trong hội đồng sư phạm nhà trường và các đoàn thể với Ban giám hiệu nhà trường đã tạo nên thuận lợi nhất định cho nhà trường nâng cao chất lượng giáo dục. Giáo viên có nhiều cố gắng trong nghiên cứu học tập vận dụng đổi mới phương pháp giảng dạy, đã có nhiều giáo viên áp dụng công nghệ thông tin vào công tác soạn giảng và nghiên cứu bài dạy. * Những khó khăn tồn tại: Chất lượng học tập của học sinh chưa cao, tỷ lệ học sinh khá giỏi còn thấp, học sinh trung bình và yếu chiếm số lượng đáng kể, chất lượng học sinh mũi nhọn chưa tăng mỗi năm. Số học sinh người dân tộc Ba na chiếm 42,6% số học sinh toàn trường nên có nhiều hạn chế trong hoạt động dạy học và chất lượng toàn trường. Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường đa số có tuổi đời tương đối lớn nên phần nào hạn chế đến chuyên môn và tay nghề, do đó ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy. Một số ít giáo viên khi giảng bài cho học sinh chưa xác định đầy đủ nội dung trọng tâm cần nhấn mạnh, còn dàn trải, chưa phù hợp với đối tượng học sinh dẫn đến hiệu quả tiết dạy chưa cao. Một số giáo viên coi nhẹ giờ thực hành, ngại sử dụng thiết bị dạy học, thiếu sự chuẩn bị chu đáo cho giờ lên lớp. 5 Sự tiếp cận đổi mới phương pháp dạy theo dự án VNEN “Trường tiểu học mới” của một số giáo viên còn nhiều hạn chế, học sinh học theo phương pháp mới còn nhiều bỡ ngỡ (nhất là học sinh khối lớp 2 và học sinh người dân tộc Bahnar), các em chưa chủ động, mạnh dạn tìm ra kiến thức mới mà còn trông chờ vào giáo viên và các bạn nhóm trưởng. Nhà trường được xây dựng từ năm 2004, cơ sở vật chất, trang thiết bị còn nhiều thiếu thốn. Tổng số phòng học là 19, có 5 phòng diện tích nhỏ không đủ ánh sáng theo quy định, 04 phòng xuống cấp có nguy cơ sập đổ. Số phòng học này chỉ đủ cho việc học 2 buổi/ ngày, các phòng chức năng không có.Vì điều kiện khó khăn nên nhà trường không có phòng nào tận dụng để tách dạy những học sinh yếu, do vậy việc phụ đạo học sinh yếu kém, học sinh “ngồi sai lớp” và tăng cường tiếng Việt cho các em rất khó khăn. Thật sự trường gần trung tâm huyện nhưng phần lớn học sinh là con em người dân tộc Bahnar, các em ở xa trường chính nhưng không có xe đạp để đến trường, học sinh đến trường men theo các lối đường tắt, đường liên thôn, một số em thì đi theo đường tỉnh lộ 669 và hầu hết là đi bộ. Hiện nay nhà trường hoạt động duy nhất một địa điểm tại khu vực chính, trường không còn điểm trường lẻ, chính vì vậy việc đi học của các em còn nhiều vất vả, khó khăn. Ý thức của cộng đồng tham gia vào công tác giáo dục học sinh chưa cao. *Thực trạng về chất lượng dạy và học của học sinh dân tộc trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu Năm học 2016-2017 nhà trường có 11 lớp; 22 cán bộ, giáo viên, nhân viên; 282 học sinh trong đó học sinh dân tộc thiểu số là 120 em chiếm tỷ lệ 42,6% (trong đó 03 làng có 100 % là học sinh dân tộc thiểu số cách xa trường). Chất lượng giáo dục hàng năm còn rất thấp. Trước đây, tỷ lệ học sinh lưu ban hàng năm trên 20%; Tuy không có học sinh bỏ học nhưng tình trạng học sinh đi học không chuyên cần vẫn còn nhiều. Trong những năm học vừa qua, nhà trường đã cố gắng tìm nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục như đổi mới phương pháp dạy học; tăng thời lượng một số môn 6 học cơ bản như Toán, tiếng Việt; tăng cường phụ đạo học sinh yếu; tổ chức các hình thức học tập như học theo nhóm, đôi bạn cùng tiến, nhiều tiết học kéo dài 50 đến 60 phút thậm chí 70 phút nhưng chất lượng vẫn chưa được như mong muốn vì rất nhiều nguyên nhân trong đó vốn tiếng Việt của học sinh còn rất hạn chế. Học sinh sau khi lên lớp lại có tình trạng đọc chưa thông, viết chưa thạo "ngồi sai lớp", tỷ lệ lưu ban sau mỗi năm học vẫn còn cao, nhiều học sinh không ham học vì học lực yếu, kém... Xảy ra tình trạng này là do các em còn ít vốn tiếng Việt nên các em tiếp thu kiến thức một cách thụ động (học vẹt) nên rất dễ quên, nhớ chưa bền vững. Nên trong thời gian nghỉ hè các em đã quên khá nhiều kiến thức trong đó đặc biệt quan trọng là quên việc đọc, viết và làm toán dẫn đến tình trạng nhiều học sinh yếu kém đầu năm học còn cao, giáo viên phải rèn và kèm cặp hơn 1 tháng học sinh mới ổn định lại. Qua khảo sát đầu vào lớp 1 các năm học vừa qua, tỷ lệ học sinh có thể hỏi, trả lời và hiểu được những yêu cầu của giáo viên chỉ chiếm 20- 35 %. Các em chỉ nghe và hiểu được những câu lệnh đơn giản như "trật tự", "ra chơi", "vào lớp", "ra về".... Việc giảng dạy của một số giáo viên còn mang tính áp đặt, khô khan, do giáo viên “tham” và sợ nên cố truyền đạt hết những kiến thức có trong sách giáo khoa mà không giành thời gian để tạo ra sự hứng thú cho học sinh trong học tập, đây là một hạn chế rất lớn trong quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh đặc biệt là đối với học sinh là người dân tộc thiểu số. Vì vậy chất lượng giáo dục rất thấp, học sinh lười học nhiều do các em không tìm thấy niềm vui khi đến lớp. Bên cạnh đó, trình độ dân trí vẫn còn thấp, các gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em. Nhiều em học sinh vì hoàn cảnh gia đình khó khăn nên thường xuyên phải nghỉ học để ở nhà giúp đỡ gia đình như giữ em, chăn bò, làm nương rẫy... Khi vào thăm, khảo sát thực tế ở các gia đình thì hầu hết các gia đình là người dân tộc thiểu số không có bàn ghế, không có góc học tập để các em học ở nhà và hầu hết các gia đình không quan tâm con em mình học hành ở lớp ra sao, về nhà phải học như thế nào, nên không sắp xếp thời gian biểu cũng nhưng tạo điều kiện cho các em học tập. PHẦN THỨ BA 7 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ 1. Biện pháp thứ nhất: Công tác xây dựng lập kế hoạch năm học. - Vào đầu năm học, BGH lập kế hoạch cụ thể hoạt động dạy và học, xây dựng chỉ tiêu chất lượng của nhà trường trong năm học. Chỉ đạo khối trưởng, giáo viên chủ nhiệm phối hợp với giáo viên bộ môn xây dựng kế hoạch dạy học, nội dung cần điều chỉnh, kế hoạch chủ nhiệm của lớp, tổ chuyên môn, cá nhân trong từng tuần, từng tháng, từng kỳ; phát hiện điều chỉnh kịp thời những thiếu sót trong quá trình dạy - học. - Với điều kiện địa bàn có nhiều thôn làng xa trường, nên ngay từ đầu mỗi năm học BGH phối hợp với Công đoàn, tổng phụ trách Đội,...họp thống nhất xây dựng kế hoạch, phân công nhiệm vụ cho từng đảng viên phụ trách các điểm làng để nắm bắt, tuyên truyền học sinh ra lớp đầy đủ, duy trì sĩ số. - Căn cứ kế hoạch nhiệm vụ năm học và năng lực từng giáo viên BGH họp thống nhất phân công, sắp xếp nhiệm vụ công việc một cách phù hợp. 2. Biện pháp thứ hai: Công tác tham mưu với các cấp chính quyền địa phương Thường xuyên tham mưu các cấp lãnh đạo quan tâm hỗ trợ kinh phí đầu tư mua sắm trang thiết bị dạy - học. Trong thời gian chờ đợi cấp trên xem xét phê duyệt, đầu mỗi năm học nhà trường phối hợp cán bộ thư viện kiểm kê trang thiết bị dạy học xem thiếu, đủ và xây dựng kế hoạch làm đồ dùng dạy học theo từng khối lớp để khắc phục tạm thời cho các bài học còn thiếu đồ dùng. 3. Biện pháp thứ ba: Phân công chuyên môn và biên chế lớp hợp lý Phân công chuyên môn một cách hợp lý là điều kiện thuận lợi giúp cho việc nâng cao chất lượng. Vì vậy ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu đã giành rất nhiều thời gian để thảo luận, nghiên cứu và thống nhất việc phân công chuyên môn sau khi các bộ phận đã đưa ra thực trạng về đội ngũ giáo viên. Xác định đội ngũ giáo viên được phân công dạy lớp Một là quan trọng nhất (đặc biệt là lớp một có 100% là học sinh dân tộc Bana). Đội ngũ giáo viên này ngoài năng lực chuyên môn vững vàng, chữ viết đẹp thì phải khéo léo, nhiệt tình, tâm huyết và có năng khiếu và kinh nghiệm trong dạy lớp Một. Những giáo 8 viên dạy các lớp Năm cần có năng lực chuyên môn vững vàng. Những giáo viên còn lại sẽ được phân công theo năng lực, sở trường, điều kiện, hoàn cảnh… Động viên , tuyên truyền 100% học sinh dân tộc về học tại trường chính, 100% học sinh học 2 buổi/ngày để các em có cơ hội giao tiếp với các học sinh người kinh nhằm giúp cho các em tự tin, mạnh dạn, từ đó nâng cao chất lượng toàn diện. Biên chế lớp: Là một trường có 42,6% học sinh người dân tộc bana, mấy năm trước nhà trường đã chia đều các em dân tộc học chung cùng với các em người kinh nhưng kết quả đạt rất thấp. Vì trình độ tiếp thu của các em không đồng đều ( các em dân tộc tiếp thu chậm, nhút nhát), lớp đông học sinh nên giáo viên không thể kèm cặp tốt cho các em dân tộc. Vì vậy, trong hai năm lại đây, nhà trường đã mạnh dạn tách riêng các em học sinh người Bana vào một lớp, các em người Kinh vào một lớp để dạy theo đối tượng, nên chất lượng đã tăng lên rõ rêt, học sinh đọc thông, viết thạo ngày một tăng, kỹ năng giao tiếp của các em cũng tiến bộ nhiều. 4. Biện pháp thứ tư: Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên 4.1. Nâng cao tinh thần trách nhiệm trong đội ngũ giáo viên Như chúng ta biết: “Muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì trước hết phải quan tâm đến chất lượng đội ngũ”. Vì vậy, việc bồi dưỡng, nâng cao ý thức, nâng cao năng lực của đội ngũ giáo viên là điều vô cùng quan trọng và đồng thời để tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Dạy đối tượng học sinh là người dân tộc thiểu số ngoài năng lực chuyên môn thì đội ngũ giáo viên còn phải quan tâm đến việc tinh thần trách nhiệm, sự tâm huyết, cống hiến, tự giác, tận tụy đối với công tác giảng dạy. Sự tâm huyết đó được thể hiện bằng việc khắc phục những khó khăn của cuộc sống đời thường, điều kiện khó khăn của Nhà trường, giành thời gian hợp lý để phụ đạo, kèm cặp học sinh yếu, tìm tòi, sáng tạo, học hỏi những kinh nghiệm trong giảng dạy, tìm những giải pháp hay, thiết thực và hiệu quả để nâng cao chất lượng từng tiết dạy; biết quý thời gian trên lớp để truyền thụ kiến thức cho học sinh, giành thời gian ngoài giờ lên lớp để tổ chức các hoạt động vui chơi giúp 9 học sinh hứng thú đến lớp; xuống gia đình học sinh tìm hiểu về điều kiện gia đình, hướng dẫn học ở nhà… 4.2. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đội ngũ giáo viên Nhà trường có đội ngũ giáo viên hầu hết đều đạt chuẩn và trên chuẩn. Việc học nâng chuẩn hay phục vụ cho việc giảng dạy của giáo viên (như học tiếng Bana) được nhà trường hết sức quan tâm và tạo điều kiện để các đồng chí yên tâm học tập, thi cử. Những đồng chí đi học được Nhà trường miễn giảm một số hoạt động trong hè, sinh hoạt trong những ngày thứ 7, chủ nhật để các đồng chí học tập. Vì vậy những đồng chí tham gia học tập nâng cao đều có kết quả cao trong các kỳ thi. Việc nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên còn được Nhà trường quan tâm bằng cách thường xuyên tổ chức hội giảng, dự giờ, thăm lớp, sinh hoạt chuyên đề trao đổi, học hỏi kinh nghiệm ở các khối lớp; tham dự các kỳ thi giáo viên dạy giỏi và năm nào nhà trường cũng có nhiều giáo viên được công nhận giáo viên dạy giỏi cấp trường. Ngoài ra, Nhà trường hết sức quan tâm đến sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt cụm chuyên môn (5 trường tham gia dự án VNEN) nhằm thống nhất, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Rất nhiều vấn đề liên quan đến công tác chuyên môn như làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục học sinh dân tộc thiểu số, ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy đối với học sinh dân tộc, giải pháp giảm thiểu tình trạng học sinh bỏ học, dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số hiệu quả, tăng cường tiếng Việt, tăng thời lượng môn tiếng Việt lớp Một… được Nhà trường đưa ra tại các kỳ sinh hoạt chuyên đề để cán bộ, giáo viên các trường thảo luận, tìm ra giải pháp tối ưu về áp dụng ở các trường. Qua những buổi sinh hoạt như vậy giúp đội ngũ cán bộ, giáo viên tích lũy cho mình những kinh nghiệm quản lý cũng như phương pháp dạy học quý giá. Xây dựng kế hoạch và tổ chức tốt công tác bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên theo kế hoạch của Ngành đề ra. 5. Biện pháp thứ năm: Thực hiện nghiêm túc việc bàn giao và khoán chất lượng 10 Bàn giao chất lượng một cách nghiêm túc, khách quan là một trong những biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục. Qua việc bàn giao, giáo viên kiểm nghiệm được quá trình giảng dạy của mình bằng hiệu quả chất lượng cuối năm. Đồng thời giáo viên nhận bàn giao nắm được chất lượng thực tế của lớp mình phụ trách trong năm học tớii qua đó có kế hoạch giảng dạy phù hợp. Bàn giao chất lượng giúp giáo viên có ý thức trách nhiệm hơn về chất lượng học sinh ngay từ đầu năm học; giúp giáo viên xây dựng kế hoạch, đổi mới phương pháp dạy học, tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng. Vì vậy, ngay từ cuối năm học nhà trường đã thành lập Hội đồng nghiệm thu và bàn giao chất lượng gồm những thành viên như Ban giám hiệu, Ban chấp hành Công đoàn, các khối trưởng và giáo viên dự kiến chủ nhiệm năm học sau. Lịch bàn giao được các khối lớp lên kế hoạch. Đặc biệt, nhà trường quán triệt đến toàn Hội đồng việc bàn giao chất lượng phải được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy định và hướng dẫn của cấp trên, không chạy theo thành tích. - Đầu năm học BGH và giáo viên chủ nhiệm có kế hoạch khảo sát chất lượng học sinh đầu năm và phân hóa đối tượng học sinh theo từng trình độ để chọn hình thức tổ chức và phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Mỗi giáo viên bắt buộc phải kí cam kết và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục trước BGH nhà trường. - Phụ trách chuyên môn nhà trường xây dựng kế hoạch kiểm tra vào nhiều thời điểm giao khoán trong năm để nắm bắt được những tiến bộ và yếu kém của học sinh để tìm giải pháp thực hiện khắc phục nhất là những lớp có chất lượng giáo dục thấp. - Lấy kết quả kiểm tra, đánh giá để đánh giá xếp loại và xét thi đua khen thưởng hàng năm cho mỗi giáo viên. Nhờ thực hiện nghiêm túc việc bàn giao nên năm học 2016-2017, các lớp đã có được những số liệu sát thực tế về chất lượng. Qua đó đánh giá được hiệu quả giảng dạy của từng giáo viên đồng thời có cơ sở để giáo viên xây dựng kế hoạch sát thực tế, phù hợp với điều kiện từng lớp trong thời gian tới. Kết thúc học kỳ I, chất lượng dạy và học của trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu đã được nâng lên so với cùng kỳ năm học 20152016.. 11 6. Biện pháp thứ 6: Chỉ đạo công tác giảng dạy của giáo viên 6.1. Duy trì sĩ số học sinh Đặc thù của học sinh người dân tộc Bana rất hay nghỉ học (nhất là các buổi chiều) vì lý do có một số thôn ở xa trường, buổi trưa không có bố mẹ chăm lo bữa ăn, nhắc nhở đi học hay ở nhà để phụ giúp hỗ trợ thêm cho bố mẹ. Vì vậy ảnh hưởng rất nhiều đến việc nâng cao chất lượng. Những năm trước đây do đội ngũ giáo viên ít quan tâm đến việc này nên cứ đến giai đoạn gieo tỉa và thu hoạch mùa là học sinh nghỉ học để ở nhà giúp đỡ gia đình rất nhiều (nhất là học sinh lớp 4,5). Hai năm trở lại đây, Nhà trường đã làm tốt công tác tuyên truyền và phối hợp với gia đình và các đoàn thể ở thôn, đồng thời Ban giám hiệu đã chỉ đạo đội ngũ giáo viên thực hiện kế hoạch: Mỗi giáo viên ít nhất đến thăm mỗi học sinh 1 lần/ năm học. Có nhiều giáo viên đã vận động ủng hộ quần áo, dày dép, cặp, mũ ở các nơi khác để tặng các em; tổ chức các trò chơi dân gian; những tiết học sôi động... làm cho học sinh hứng thú đến trường. Vì vậy, một số em nhà cách trường 2-3 km nhưng vẫn đi học đều, không còn nghỉ học và bỏ học giữa chừng như trước nữa, hàng năm duy trì sĩ số đạt 100%. Việc học sinh đi học thường xuyên giúp cho các em tiếp thu kiến thức một cách liên tục, không bị gián đoạn. Chính vì vậy chất lượng đã được nâng lên rõ rệt. 6.2. Chất lượng giờ lên lớp Chỉ đạo mỗi giáo viên lên lớp phải biết tự xây dựng kế hoạch dạy học cho từng bài học cụ thể, phù hợp với từng học sinh ở từng mức độ khác nhau; phải xác định được các hoạt động trọng tâm của bài dạy; đảm bảo đầy đủ đồ dùng dạy học sẵn có hoặc tự làm để các em quan sát trực quan sinh động hơn. Đồng thời, khi truyền tải kiến thức có đồ dùng trực quan giúp các em thực tế, gần gũi, dễ hiểu. Bản thân mỗi giáo viên cần thường xuyên sáng tạo và rèn kỹ năng điều hành tổ chức hướng dẫn học sinh thực hiện tốt các hoạt động, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho mỗi tiết học sinh động hơn. Riêng những học sinh đọc yếu, đọc sai dấu, tính toán chậm giáo viên chủ nhiệm cần thường xuyên quan tâm giúp đỡ, giúp các em sửa sai những lỗi hay mắc phải để dần 12 dần khắc phục, chỉnh sửa kịp thời. Khi dạy học có những đối tượng trên giáo viên cần phân loại thành các nhóm đối tượng rõ ràng và có giải pháp dạy, kèm cặp cho từng nhóm đối tượng phù hợp, học sinh sai ở đâu, yếu chỗ nào thì cần sửa sai khắc phục ngay chỗ đó. Ví dụ: Trong môn Tiếng Việt có nhiều nhóm đối tượng học sinh trong cùng một lớp, phân nhóm như sau: + Nhóm 1: Học sinh đọc thông, viết thạo (HS giỏi, khá) + Nhóm 2: Học sinh vừa đọc, vừa đánh vần, viết chậm + Nhóm 3: Học sinh đọc sai dấu, viết còn yếu (viết sai chính tả nhiều) + Nhóm 4: Học sinh không đọc, không nghe viết được - Ngoài ra, các GVCN tăng cường thêm các buổi phụ đạo ngoài giờ qui định để rèn thêm kĩ năng nghe - nói - đọc - viết và giao tiếp tiếng Việt, tính toán để nâng cao chất lượng giáo dục chung của lớp, của nhà trường. Giáo viên thường xuyên nhắc nhở các em việc tự học ở nhà. - Trong giao tiếp giáo viên luôn nhắc nhở học sinh khi đến trường hạn chế việc giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, nên sử dụng tiếng Việt để giao tiếp, tạo cho các em được thông hiểu nhiều hơn về tiếng Việt, dễ dàng tiếp thu bài khi giáo viên truyền đạt. 6.3. Chú trọng việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh Đây là giải pháp vô cùng quan trọng đối với học sinh dân tộc thiểu số, nhất là học sinh bắt đầu vào học lớp Một. Với 42,6% học sinh là người dân tộc Bana, trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu rất quan tâm đến việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh. Nhà trường đã xác định, việc đầu tư vào dạy 2 môn Toán và Tiếng Việt là khâu then chốt đối với học sinh dân tộc thiểu số các khối lớp đặc biệt là lớp Một. Nhà trường đã chỉ đạo cho đội ngũ giáo viên đầu tư soạn giảng có chất lượng 2 môn học này, giành nhiều thời gian cho môn tiếng Việt vì đây là môn học đặc biệt quan trọng. Khi các em đọc thông, viết thạo thì các em mới tiếp thu kiến thức các môn học khác tốt được. 13 Phối hợp với trường Mẫu giáo Xã Đông và các thôn vận động tối đa trẻ trong độ tuổi ra lớp Mẫu giáo 3,4,5 tuổi. Đây là điều kiện tốt giúp các em có được vốn tiếng Việt ban đầu rất quan trọng để sau 1 đến 3 năm các em tự tin vào lớp Một. Chỉ đạo các lớp học trang trí lớp học đẹp tạo môi trường tiếng Việt phong phú, đa dạng để thu hút các em đến lớp. Điều chỉnh kế hoạch dạy học tiếng Việt cho học sinh lớp 1 từ 350 tiết/năm lên 500 tiết/năm, giúp học sinh dân tộc Bana đủ thời gian nắm bắt kiến thức để khi kết thúc lớp học các em hoàn thành được chương trình lớp học. Trong quá trình giảng dạy tất cả các môn học, ngoài việc cung cấp kiến thức, giáo viên phải thường xuyên tăng cường tiếng Việt bằng cách sử dụng các phương pháp gợi mở, vấn đáp, diễn kịch, đóng vai, thực hiện nhiều các trò chơi “học mà chơi, chơi mà học” đối với học sinh lớp Một tạo hứng thú trong giờ học cho các em đồng thời giúp các em mạnh dạn, tự tin và tích lũy vốn tiếng Việt cần thiết. Chú trọng và quan tâm tăng cường tiếng Việt cho các em trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp như sinh hoạt Sao Nhi đồng, Đội thiếu niên, giao lưu tiếng Việt giữa các khối lớp. Đối với giáo viên bộ môn: Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh bằng cách cho học sinh đọc các câu lệnh (kênh chữ) trong SGK; thi đọc tốt phần bài học ghi nhớ, đọc cho học sinh viết các ghi nhớ vào vở để rèn kỹ năng nghe -viết. Thường xuyên đặt những câu hỏi nhẹ nhàng, dễ hiểu, gần gũi với các em để các em trả lời để luyện nói hằng ngày. Tổ chức các trò chơi giải trí, trò chơi học tập để tạo hứng thú cho các em. Đặc biệt là môn Âm nhạc, học sinh rất thích học môn Âm nhạc và các em hát không bao giờ sai dấu nên khi kiểm tra các em hát xong, giáo viên lại kiểm tra các em đọc lời bài hát nếu bạn nào đọc đúng dấu thanh giáo viên khen ngợi. Động viên giáo viên trực tiếp giảng dạy học sinh dân tộc học một số tiếng dân tộc đơn giản thường hay gặp để phục vụ trong giảng dạy, giải nghĩa từ cho các em. Xây dựng văn hoá đọc cho học sinh: Phát huy hiệu quả thư viện thân thiện ngoài trời của nhà trường và thư viện lớp học. Kích thích các em tích cực tham gia đọc truyện, sách, báo... Thường xuyên tổ chức thi kể chuyện theo sách, thi đọc trong lớp; chỉ đạo 14 các lớp hàng tuần sơ kết, khen thưởng những học sinh đọc được nhiều và hiểu được nội dung chuyện. Nhà trường cũng đã đầu tư rất nhiều kinh phí để các khối lớp mua đồ dùng dạy học phục vụ cho 2 môn học này. Việc tăng thời lượng môn tiếng Việt ở các lớp có 100% học sinh là người dân tộc thiểu số cũng được các giáo viên chủ nhiệm tăng thêm về mặt thời gian. Nhiểu giáo viên tận dụng phòng Hội đồng, phòng truyền thống Đội, thư viện ngoài trời để kèm cặp các học sinh yếu. Kết thúc học kỳ I năm học 2016-2017, chất lượng môn tiếng Việt của của trường đã được từng bước nâng lên rõ rệt. 6.4. Đổi mới phương pháp dạy học Việc áp dụng phương pháp dạy học mới (VNEN) đối với học sinh dân tộc thiểu số gặp rất nhiều khó khăn và thiếu hiệu quả nếu không thực hiện một cách khoa học và phù hợp với đối tượng học sinh. Nhiều giáo viên không dám sử dụng nhiều các hoạt động trong giảng dạy vì sợ “cháy giáo án”, không đúng phương pháp đặc trưng. Vì vậy, tiết học trở nên nặng nề, căng thẳng, ít hiệu quả. Do vậy, Ban giám hiệu đã giao quyền tự chủ cho giáo viên trong việc lựa chọn biện pháp và hình thức tổ chức giảng dạy sao cho tiết dạy nhẹ nhàng, sôi động tạo hứng thú và phù hợp với từng đối tượng học sinh để giúp các em dễ dàng tiếp thu kiến thức hơn. Đối với học sinh dân tộc thiểu số, việc sử dụng những phương pháp như đóng vai, thảo luận nhóm, phỏng vấn, sử dụng giáo án điện tử, đồ dùng dạy học… giúp các em có điều kiện làm quen với các hoạt động tập thể, tiếp xúc và sử dụng tiếng Việt nhiều tạo hứng thú để các tiếp thu bài học tốt hơn. Hoạt động ngoài giờ lên lớp cũng được Nhà trường quan tâm. Hàng tháng Đội thiếu niên phối hợp với giáo viên chủ nhiệm tổ chức các hoạt động theo chủ đề như các hoạt động văn nghệ, thể thao, giao lưu tiếng Việt, tổ chức thi các trò chơi truyền thống… 6.5 Quan tâm đến học sinh cá biệt, học sinh yếu Với đặc thù của học sinh dân tộc là nhớ không bền vững, nên qua thời gian nghỉ hè tỷ lệ học sinh yếu đầu năm khá cao. Đặc biệt, nhiều lớp vẫn còn tình trạng học sinh “ngồi sai lớp”. Nếu giáo viên không quan tâm đến những em này thì chắc chắn số học sinh yếu và những em “ngồi sai lớp” lại sẽ lưu ban vào cuối năm học. Vì vậy ngay từ 15 đầu năm học, nhà trường đã chỉ đạo cho tất cả giáo viên chủ nhiệm khảo sát chất lượng đầu năm và phân loại học lực để có biện pháp phụ đạo những học sinh yếu để việc giảng dạy có hiệu quả, nhiều giáo viên chủ nhiệm lớp đã phân loại học sinh theo học lực và thực hiện việc giảng dạy cho các em theo kiểu lớp ghép. Với giải pháp này, những học sinh yếu vẫn có thể tiếp thu được kiến thức và những học sinh khá, giỏi vẫn học bình thường. Tuy nhiên, hạn chế ở các lớp này là lớp đông học sinh nên việc giúp đỡ từng em rất vất vả. Với những học sinh yếu, giáo viên chủ nhiệm lập tổ học tập, đôi bạn cùng tiến để giúp đỡ nhau trong học tập, tách những học sinh yếu để kèm cặp thêm ngoài giờ quy định. Ngoài ra giáo viên thường xuyên xuống gia đình để hướng dẫn các em về phương pháp học ở nhà; phối hợp với gia đình xây dựng góc học tập cho các em… Chuyên môn đã phân công giáo viên bộ môn phối hợp kèm cặp, phụ đạo học sinh vào các chiều thứ sáu và ngày thứ bảy. 6. Biện pháp thứ 7: Công tác tổ chức hoạt động ngoại khóa BGH, giáo viên chủ nhiệm xây dựng kế hoạch dạy học và tổ chức các hoạt động ngoại khóa như: - Tổ chức các buổi giao lưu Tiếng Việt dành cho học sinh khối lớp 1,2,3,4,5 dưới nhiều hình thức khác nhau tạo sân chơi bổ ích cho học sinh hứng thú tham gia học tập. - Thi đố vui để học để cho các em học sinh dân tộc cùng khối lớp giao lưu và học tập chia sẻ những kinh nghiệm lẫn nhau, tạo sự gắn kết gần gũi, thân thiện. - Sinh hoạt dưới cờ kết hợp lồng ghép các hoạt động trò chơi dân gian, giới thiệu những nét đẹp truyền thống của các dân tộc sinh sống trên địa bàn,...để cho các em hiểu được bản sắc đặc trưng của mỗi dân tộc. PHẦN 3 KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM I. Kết quả đạt được Qua thực hiện đồng bộ một số giải pháp nêu trên, chất lượng học sinh dân tộc của nhà trường đã được nâng lên rõ rệt; Trong năm nhà trường đã tổ chức được buổi giao 16 lưu “Kể chuyện theo sách” cấp trường, thu hút được rất nhiều học sinh tham gia, nhất là các em người dân tộc. Qua buổi giao lưu không chỉ tạo cho các em được sự phấn khởi, thi đua và ham thích đọc sách hơn, mà buổi giao lưu còn tác động đến nhiều phụ huynh học sinh về văn hoá đọc, nhiều phụ huynh đã đóng góp để bổ sung tủ sách cho các em. Nhà trường cũng đã kêu gọi các anh chị là học sinh của huyện Kbang quyên góp hỗ trợ được trên 1000 đầu sách truyện thiếu nhi cho các em. Năm học 2015-2016, giao lưu Tiếng Việt cụm có 01 em đạt giải đặc biệt về đọc, viết, giao tiếp; số học sinh còn lại đều đọc thông, viết đẹp, đúng dấu và biết làm toán từng bước đưa chất lượng nhà trường ngày càng nâng cao. Cụ thể chất lượng giáo dục học sinh dân tộc trong năm học 2016 2017 đạt được như sau: Kết quả cụ thể: TT Lớp 1 1A1 2 1A2 3 1A3 4 2A2 5 3A2 6 4A2 7 5A1 8 5A2 TC 08 lớp TSHS 4 4 18 24 20 21 1 24 116 Chất lượng đầu năm Đ. trơn 8 14 16 1 20 59 Đ. Vần 15 6 4 3 28 CB đọc 1 1 2 Chất lượng giữa kỳ II Đ. trơn Đ. Vần CB đọc 1 1 7 13 17 17 1 21 78 3 3 9 10 3 3 2 1 2 33 1 5 Ghi chú 1 1 HSKT 1HSKT II. Bài học kinh nghiệm: Nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số là một trong những điều kiện cần thiết và quan trọng nhất để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường, là giải pháp cơ bản để xây dựng trường tiểu học Nguyễn Đình Chiểu ngày càng vững mạnh, tiến tới trường đạt chuẩn quốc gia (mức độ 1) góp phần vào việc thực hiện mục tiêu “ xã hội hóa giáo dục” ngày càng vững bước đi lên. - Để các em có được điều kiện học tập và phương pháp giảng dạy phù hợp, hiệu quả thì trước hết Ban giám hiệu, các tổ chức đoàn thể, tổ khối phải có kế hoạch hoạt động cụ 17 thể; phân công nhiệm vụ cho giáo viên phải đúng năng lực, sở trường và hoàn cảnh. Đầu mỗi năm học BGH tiến hành khảo sát chung chất lượng toàn trường và yêu cầu mỗi giáo viên làm 1 biên bản kí cam kết giao khoán về việc nâng cao chất lượng đọc - nghe viết (tốt) và đảm bảo tính toán được các phép tính trong phạm vi chương trình qui định. Mỗi cá nhân kí cam kết giao khoán chất lượng giáo dục phải chịu trách nhiệm trước nhà trường về chất lượng của bản thân vào từng thời điểm mà nhà trường kiểm tra. BGH nắm chắc từng đối tượng học sinh yếu của từng lớp để có hướng chỉ đạo kiểm tra kịp thời. Chỉ đạo cho giáo viên nắm bắt kịp thời những nội dung trong sinh hoạt chuyên môn mới “Dạy học phân hóa đối tượng”. Thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề để triển khai đến tất cả cán bộ, giáo viên nắm bắt những nội dung, kế hoạch quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường đề ra. Đồng thời triển khai những chuyên đề cần thiết và thực tế để hổ trợ thêm cho giáo viên những giải pháp khắc phục trong việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh, nhất là học sinh dân tộc thiểu số. - Đội ngũ giáo viên phải thực sự nhiệt tình, tâm huyết, có tinh thần tự học, thiết kế những tiết học sôi nổi, hấp dẫn, thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp để thu hút học sinh, đặc biệt phải đẩy mạnh văn hóa đọc để tất cả các em đều đọc thông, viết thạo, bởi có như vậy thì các em mới tiếp thu tốt các môn học khác. Tạo mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa thầy và trò, cùng hướng đến chất lượng chung của lớp. Thường xuyên kiểm tra tình hình học tập của từng em học sinh sau mỗi ngày đến lớp. Những biệp pháp hữu hiệu đối với học các biệt thường bị sai phạm. Tổ chức cho các em rèn luyện về kĩ năng sống, kĩ năng giao lưu một cách tự tin trước lớp hoặc trước đám đông. Hàng ngày phải tổ chức đọc, luyện nghe - viết, tính toán, nhẩm nhanh cho học sinh để rèn cho các em kĩ năng nghe viết, tính toán được tốt hơn. Hàng tuần tổ chức cho các em thi đọc nhanh, đọc đúng, đọc diễn cảm và thi nghe viết nhanh, viết đúng, viết đẹp, thi tính nhẩm và làm toán nhanh,…Sau mỗi đợt thi có động viên khích lệ khen thưởng cho các em có kết quả đọc, nghe viết tốt, tính toán nhanh,…; kết hợp chặt chẽ với phụ huynh 18 nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các em học ở nhà và thường xuyên sử dụng tiếng phổ thông trong việc giao tiếp ở nhà và ở cộng đồng - Phân công giáo viên tổng phụ trách Đội có kế hoạch tổ chức sinh hoạt ngoại khóa để tạo không khí vui chơi, học tập mang tính thiết thực, hiệu quả nhằm tạo sân chơi bổ ích và lôi cuốn các em đến trường chuyên cần hơn, nâng cao kỹ năng giao tiếp và kỹ năng sống cho học sinh. - Tổ chức và chỉ đạo cho cán bộ thư viện và thiết bị cung cấp cho mượn đảm bảo các đồ dùng, dụng cụ học tập cho giáo viên và học sinh. Bố trí thư viện ngoài trời sạch sẽ, đẹp mắt, phong phú các loại truyện, luôn luôn có sự thay đổi mới mẻ đối với học sinh. Kiểm tra hiệu quả của các góc thư viện và có biện pháp cải tiến kịp thời đối với học sinh để giúp các em tiến bộ hơn trong rèn kĩ năng đọc, kĩ năng tính nhanh,… - Phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong các thôn (làng) và tham mưu chính quyền xã để có những đề xuất giúp đỡ kịp thời trong việc duy trì sĩ số và công tác giáo dục chất lượng học sinh toàn trường. - Phối hợp với BĐDCMHS xin hỗ trợ thêm kinh phí để mua sách, vở, bút, kẹp, dầu gội, dây chun,…và vận động học sinh các gia đình có điều kiện kinh tế khá giả quyên góp quần áo cũ để khen tặng cho các em sau mỗi lần kiểm tra, khảo sát chất lượng. - Tổ chức các Hội thi như: Thi giao lưu Tiếng Việt, kể chuyện theo sách và thi đố vui để học cho tất cả các khối lớp. Nhằm tạo sân chơi bổ ích cho học sinh và rèn thêm cho các em có thêm một số kĩ năng giao tiếp mạnh dạn hơn, rèn kĩ năng phản ứng nhanh trong giải toán và ứng xử trước thầy cô, bạn bè. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đã tiếp thu, chọn lọc sau hơn 20 năm làm công tác giảng dạy, quản lý và phát triển những kinh nghiệm của lớp người đi trước để tổng hợp lại thành một số biện pháp để giúp tôi thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý (phụ trách chuyên môn) của mình về việc nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số. Bản thân đã thực hiện tại đơn vị và đã đem lại được một số kết quả khả quan trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, những biện pháp nêu trên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, kính mong Hội đồng khoa học các cấp góp ý. 19 Xin chân thành cảm ơn! Xã Đông, ngày 28 tháng 2 năm 2017 Người viết Phan thị Hồng Ngọc XÁC NHẬN CỦA HĐKH NHÀ TRƯỜNG 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan