Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh từ nhứng điểu nhỏ nhất thông qua các ch...

Tài liệu Skkn rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh từ nhứng điểu nhỏ nhất thông qua các chương trình hoạt động đội

.PDF
12
2138
124

Mô tả:

SKKN Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh từ nhứng điểu nhỏ nhất thông qua các chương trình hoạt động đội
“RÈN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TỪ NHỮNG ĐIỀU NHỎ NHẤT” THÔNG QUA CÁC CHƯƠNG TRÌNH HOẠT ĐỘNG ĐỘI I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Công tác chăm lo bồi dưỡng, giáo dục cho thế hệ trẻ là điều quan tâm của toàn xã hội. Trong xã hội phát triển mạnh mẽ đầy thách thức hiện nay, nếu thiếu kỹ năng sống sẽ thiếu khả năng phân tích xử lý các tình huống khó khăn, xuống cấp về đạo đức, nhận thức và ứng xử lệch lạc, có phản ứng tiêu cực, dễ rơi vào bế tắc, không tự mình kéo lên được,... Trong khi đó, chương trình giáo dục hiện nay còn nặng về kiến thức, chưa chú trọng đúng mức đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Đáp ứng yêu cầu trên. Nhân tố con người được đặt vào vị trí trung tâm. Như vậy tất yếu phải phát triển Giáo dục, giáo dục là quốc sách hàng đầu. Như vậy con người được đặt ở trung tâm đó là lớp thiếu niên nhi đồng hôm nay sẽ là những mầm non, những người chủ tương lai của đất nước sau này. “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày ngày mai”. Vì vậy bồi dưỡng giáo dục, chăm sóc và bảo vệ thế hệ trẻ là nhiệm vụ của toàn xã hội trong đó Ngành Giáo Dục và Đào tạo giữ vai trò then chốt . Đất nước ta đang trong thời gian hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp hóa , hiện đại hóa đang trong giai đoạn phát triển cao. Do đó nhận thức của chúng ta cũng phải thay đổi phù hợp với thực tiến hiện nay. Ngoài việc dạy – học, chúng ta phải tạo cho các em sân chơi hấp dẫn, phong phú để thu hút các em tạo điều kiện cho các em phát triển toàn diện cả về “ Văn – Trí – Thể - Mỹ ” và từng bước tự hoàn thiện bản thân Thực hiện chỉ thị số 40/2008/CT-BGD ĐT và Kế Hoạch số 307/KH-BGD ĐT ngày 22/7/2008 của Bộ GD&ĐT, căn cứ Kế Hoạch đã triển khai của Phòng GD&ĐT Kế Hoạch số 302/KH-PGD ĐT về triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” năm học 2008 – 2009 và giai đoạn 2008 – 2013. Năm học này tôi tiếp tục thực hiện đề tài “Rèn kỹ năng sống cho học sinh” nhưng giáo dục các em “Rèn kỹ năng sống cho học sinh từ những điều Trang 1 nhỏ nhất” nhằm hướng đến giáo dục toàn diện cho HS, giúp các em rèn luyện KNS vững vàng trong cuộc sống. II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: a. Cơ sở lý luận. Đất nước ta ngày càng phát triển về nhiều mặt. Đời sống người dân ngày càng được cải thiện. Chính vì thế sự chăm sóc và trang bị mọi mặt cho con em là điều không thể thiếu và ngày một hoàn thiện hơn. Chính vì được sự quan tâm chăm sóc đó nên dẫn đến tính ỷ lại, lười lao động, ít chịu suy nghĩ ở một số em. Bên cạnh những gia đình khá giả thì một số gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn hằng ngày lo kiếm sống ít quan tâm đến các em, việc học hành và giáo dục các em phó mặc cho thầy cô, nhà trường. Với lứa tuổi tiểu học, đặc điểm về thể chất của trẻ: Cơ thể trẻ em là nền tảng vật chất của trí tuệ và tâm hồn. Nền tảng có vững thì trí tuệ và tình cảm mới có khả năng phát triển tốt. “Thân thể khoẻ mạnh thì chứa đựng một tinh thần sáng suốt”, ngược lại “tinh thần sáng suốt thì cơ thể có điều kiện phát triển”. Trong cuộc sống thực tế cho thấy những trẻ có thể lực yếu thường hay ỷ lại, phụ thuộc nhiều vào những người thân trong gia đình những việc làm tự phục vụ mà lẽ ra chính trẻ phải tự làm tự lập dần: rửa chân tay, mặc quần áo,... Một yếu tố nữa ảnh hưởng đến việc tự lập của HS là hệ thần kinh của trẻ. Hệ thần kinh của trẻ tiểu học đang trong thời kì phát triển mạnh. Bộ óc của các em phát triển về khối lượng, trọng lượng và cấu tạo. Đến 9, 10 tuổi hệ thần kinh của trẻ căn bản được hoàn thiện và chất lượng của nó sẽ được giữ lại trong suốt cuộc đời. Khả năng kìm hãm (khả năng ức chế) của hệ thần kinh còn yếu. Trong khi đó bộ óc và hệ thần kinh của các em đang phát triển đi dần đến hoàn thiện nên các em dễ bị kích thích. Thầy cô giáo và cha mẹ, người thân của các em cần chú ý đến đặc điểm này để giúp trẻ hình thành tính tự chủ, lòng kiên trì, sự kìm hãm của bản thân trước những kích thích của hoàn cảnh xung quanh, biết giữ gìn trật tự nơi công cộng và trong lớp học. Mặt khác không được mắng, doạ dẫm, nạt nộ các em vì làm như thế không những bị tổn thương đến tình cảm mà còn gây tác hại đến sự phát triển thần kinh và bộ óc của các em. Khi trẻ bắt đầu gia nhập Trang 2 cuộc sống nhà trường - đi học tiểu học, các em được học thêm những điều chưa hề có trong 6 năm đầu đời; khi gia nhập cuộc sống nhà trường các em phải tiến hành hoạt động học – hoạt động nghiêm chỉnh có kỉ cương, nề nếp với những yêu cầu- nghiêm ngặt. Chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang hoạt động chủ đạo là học tập; chắc chắn trẻ không tránh khỏi sự bỡ ngỡ vì thế phải chuẩn bị cho các em tâm lí chuẩn bị sẵn sàng đi học.Việc rèn kĩ năng sống cho HS tiểu học cũng được bắt đầu ngay từ những buổi đầu các em đến trường. Nếu không chuẩn bị chu đáo về mặt tâm lí cho trẻ trước khi đi học sẽ dẫn đến những tình huống như: đòi theo bố mẹ về nhà, không dám nói chuyện với bạn bè. không dám chào hỏi thầy cô, không dám xin phép cô khi ra vào lớp,... không ít những tình huống dở cười dở mếu vì trẻ lớp 1 không dám xin đi vệ sinh rồi bậy ra quần ngay tại trong lớp, hoặc có trẻ xin ra ngoài đi vệ sinh nhưng lại tranh thủ đi chơi để giáo viên phải đi tìm, … - Đặc điểm quá trình nhận thức của trẻ bao gồm quá trình tri giác, chú ý, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy. Đặc điểm nhân cách của trẻ tiểu học gồm có: tính cách, nhu cầu nhận thức, tình cảm, sự phát triển của năng khiếu. Sự nhận thức của trẻ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nhân cách, ảnh hưởng đến việc hình thành và rèn luyện kĩ năng sống của trẻ. Sự nhận thức đúng đắn sẽ giúp trẻ có được kiến thức vận dụng trong cuộc sống sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử phù hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội. Một đặc điểm quan trọng trong lứa tuổi tiểu học là tính hay bắt chước. HS tiểu học thích bắt chước hành vi, cử chỉ, lời nói,... của các nhân vật trong phim, của các thầy cô giáo, của những người thân trong gia đình. tính bắt chước là con dao “hai lưỡi”, vì trẻ em bắt chước cái tốt cũng nhiều, cái xấu cũng lắm. Chính vì vậy những tính cách hành vi của những người xung quanh là môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến tính cách, hành vi, ứng xử của trẻ. Các dạng hoạt động của trẻ được thực hiện qua các quan hệ: Trẻ em – gia đình Trẻ em – đồ vật Trẻ em – nhà trường Trẻ em – xã hội. Trang 3 b. Cơ sở thực tiễn: Trong các mối quan hệ, quan hệ thầy trò là mối quan hệ đặc biệt của mối quan hệ người – vi cử chỉ của người thầy thường là những mẫu mực cho hành vi của học sinh nói chung. Nó ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ và cách ứng xử của các em trong quan hệ với người khác và với xã hội. Các em thường tin tưởng tuyệt đối ở nơi thày cô giáo nên chúng thường bắt chước những cử chỉ tác phong của thầy cô giáo mình. người. Ở tiểu học, do uy tín của người thầy giáo các quan điểm, niềm tin, toàn bộ những hành ở trường các em còn được tiếp xúc với bạn bè, với tập thể nhóm bạn, tổ, lớp; những hoạt động tập thể cũng ảnh hưởng không ít đến việc hình thành, phát triển nhân cách, rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ. Trước thực trạng đó chúng ta là những người người làm công tác chăm lo giáo dục thế hệ trẻ cần phải giúp các em biết phân biệt được cái tốt, cái xấu, biết từ chối trước những cám dỗ sai trái và biết tự bảo vệ mình. Hướng các em đến cái “ chân – thiện – mĩ”. Vì thế phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” với 5 nội dung, trong đó nội dung “Rèn kỹ năng sống cho học sinh” là một trong những nội dung quan trọng trong việc giáo dục hình thành nhân cách cho các em trong giai đoạn hiện nay. Trường TH Thạnh Bình B nằm trên trục quốc lộ 1A đó là điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, tập trung và tham gia các hoạt động Đội. Tuy nhiên Trường TH Thạnh Bình B nằm ở vị trí giáp ranh với ấp 3B và xã An Trạch. Đại đa số các gia đình đều có hoàn cảnh khó khăn nên cha mẹ phải đi làm ăn xa các em phải sống nhờ vào người thân. Từ đó những thói quen sinh hoạt hàng ngày các em cần phải có người hướng dẫn vả chỉ bảo dù đó là những việc rất nhỏ. Nhận thấy được điều đó trong những năm học gần đây tôi luôn chú trọng đến công tác rèn kỹ năng sống cho các em học sinh từ những điều nhỏ nhất để các em có thể tự lo cho bản thân khi không có cha mẹ ở bên cạnh chăm sóc mình như những bạn khác. Năm học 2013 – 2014 ngay từ đầu năm học tôi chọn lớp 1/2 và lớp 2/1 khảo sát kỹ năng sống của các em ngay từ đầu năm học: Trang 4 *Khảo sát lớp 1/2; quan sát thực tế và thông qua phụ huynh học sinh. Tự chuẩn bị đồ dùng học tập Tự giác ngồi học bài ở nhà Tự mình chuẩn Chưa tự giác, Cần người lớn Tự giác không TSHS bị đồ dùng học bố mẹ phải giúp cần nhắc nhở tập nhắc nhở nhiều SL % SL % SL % SL % 34 10 27,02% 24 80% 22 73,33 12 40% * Khảo sát việc học tập ở lớp , phụ giúp việc gia đình HS lớp 2/1 đầu năm học 2013 - 2014 : Tự phụ giúp người lớn công việc TSHS 36 Tự giác SL 16 Ý thức học tập ở lớp nhà người lớn nhắc Chú ý trong học Chưa tự giác % 44.44% nhở SL 20 tập % 55.56% SL 19 % 52.78 trong học tập SL % 17 47.22 III. PHẠM VI ĐỀ TÀI: Kỹ năng sống là gì ? Kỹ năng sống là một khái niệm rất rộng bao gồm những vấn đề sau: 1. Kỹ năng giao tiếp. 2. Kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm, theo tập thể. 3. Kỹ năng tự phục vụ. 4. Kỹ năng tự bảo vệ, quyết định, kiên định. 5. Kỹ năng đặt mục tiêu. 6. Kỹ năng phòng chống bệnh tật, thương tích, đuối nước..... A. Thực trạng: - Môi trường ảnh hưởng đến kỹ năng sống của trẻ: Thời gian trong 6 năm đầu đời và giai đoạn học tiểu học của trẻ, các em sống trong gia đình, nhà trẻ và lớp mẫu giáo, trường tiểu học, các em bước đầu tích luỹ được một số ít những kinh nghiệm, kĩ năng, tri thức, kinh nghiệm, các thói quen đạo đức để các em dùng trong cuộc sống hàng ngày bằng cách học lỏm, học mót, học tại chỗ, học trực tiếp nhờ phương pháp kèm cặp, truyền tay, thầy cô hướng dẫn,... Trang 5 - Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hội nhập với các nước trên thế giới từng bước phát triển vươn lên, những mặt tốt của xã hội được phát triển mạnh song những vấn đề mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ phận là trẻ em. Theo guồng quay của xã hội, một số gia đình bố mẹ chỉ quan tâm, mải lo đến việc làm kinh tế mà quên mất gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi việc cần tạo một môi trường gia đình đầm ấm, người lớn gương mẫu, quan tâm dạy dỗ trẻ; Không những thế còn có những gia đình cha mẹ nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè,...ảnh hưởng vô cùng lớn tới tâm hồn trẻ, tới sự phát triển nhân cách của trẻ. Một số gia đình hoàn toàn phó mặc việc dạy dỗ trẻ cho nhà trường. Cũng có những gia đình có điều kiện kinh tế, quá chiều chuộng con dẫn đến trẻ thiếu sự sáng tạo, luôn ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp các tình huống trong thực tế lúng túng không biết xử lý thế nào, hạn chế trong việc tự bảo vệ bản thân mình; hoặc có trẻ được chiều chỉ làm theo ý của mình chứ không làm theo ý người khác. Bên cạnh việc học các môn văn hoá nếu trẻ được chú ý giáo dục đạo đức, được rèn kỹ năng sống biết phân biệt cái tốt, cái xấu, biết từ chối cám dỗ, biết ứng xử, biết tự quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ là người tác động tốt đến gia đình, xã hội. - Trong các nhà trường ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh cãi nhau, chửi nhau, đánh nhau, chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong tập thể lớp, trốn học đi chơi,... - Trong thực tế hiện nay việc nhận thức tầm quan trọng, cần thiết rèn kỹ năng sống cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế. Qua dùng phiếu thăm dò, khảo sát thực tế cho thấy một số giáo viên lúng túng cả về nội dung, biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh. Nhận thức của nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ rèn kỹ năng sống cho học sinh là rèn những kỹ năng gì; vì nhận thức chưa đủ, chưa rõ nên không thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu để rèn kỹ năng sống cho học sinh. Các nhà trường đã có tổ chức một số hoạt động nhằm rèn kỹ năng sống cho học sinh nhưng còn chung chung, chưa đi sâu, chưa thể hiện thường xuyên rõ nét. B. Giải pháp: Trang 6 * Ngay từ đầu năm học vào các tiết chào cờ đầu tuần tôi giới thiệu cho các em một số quan niệm về kỹ năng sống ( khoảng 12 tiết) như: - Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho mỗi người vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại. Kỹ năng sống đơn giản là tất cả những điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hàng ngày trong cuộc sống. Kỹ năng sống được thể hiện trong kỹ năng đánh giá, quyết định, hành động, ứng xử,... trong các mối quan hệ đa dạng như: + Mối quan hệ với bản thân (sức khoẻ, thật thà, trung thực, kiên nhẫn, tự kiềm chế,... + Mối quan hệ của các em với những người xung quanh (ông, bà, cha, mẹ, anh chị em, thầy cô giáo, những người lớn tuổi, bạn bè,.. + Mối quan hệ của các em với công việc (học tập, hoạt động của lớp, của trường, công việc giúp đỡ gia đình, hoạt động xã hội,.. + Mối quan hệ của các em với thiên nhiên (môi trường, động vật, thực vật,....) + Mối quan hệ của các em với tài sản riêng, tài sản chung (tài sản riêng: đồ dùng học tập, sách vở, quần áo,....; tài sản chung: bàn ghế, đồ vật trong lớp, trong trường, các di sản văn hoá, di tích lịch sử,.. + Mối quan hệ của các em với xã hội (quê hương, Tổ quốc, Bác Hồ, bộ đội, thương binh, gia đình liệt sĩ,.. *Các tuần tiếp theo tôi rèn cho các em các kỹ năng sống sau: + Kỹ năng học tập: kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá năng lực của bản thân, xác định được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, kỹ năng phân tích, kỹ năng tổng hợp, kỹ năng xây dựng kế hoạch, kỹ năng hệ thống hoá, kỹ năng trình bày một vấn đề. + Kĩ năng lao động, lao động tự phục vụ: kỹ năng thao tác những hoạt động tự phục vụ như: tự lấy nước uống, tự xúc cơm ăn, tự mặc quần áo, tự đi giầy, tất (lớp 1, 2); tắm gội (lớp 3, 4, 5),..., kỹ năng sử dụng có hiệu quả một số dụng cụ Trang 7 chăm sóc cây xanh, chăm sóc vật nuôi trong gia đình, lao động vệ sinh trường lớp … + Kĩ năng vệ sinh, giữ gìn sức khoẻ: trẻ tự thực hiện được một số hoạt động như: chải đầu, đánh răng rửa mặt, tắm giặt,..., chơi trò chơi lành mạnh, ăn uống sạch sẽ hợp vệ sinh, thực hiện giờ giấc vui chơi, học tập lao động vừa sức hợp lý + Kĩ năng về hành vi, ứng xử: kỹ năng giao tiếp ( nói lời cảm ơn, xin lỗi phù Thường xuyên tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi tập thể lành mạnh, chơi các trò chơi dân gian, tổ chức các hoạt động văn nghệ thể thao, qua các hoạt động rèn cho học sinh kĩ năng ứng xử với bạn bè, xây dựng tinh thần đoàn kết tốt, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng hợp tác, kỹ năng quyết định, biết kiềm chế bản thân trong khi xử lí các tình huống với bạn bè . Rèn kỹ năng sống cho học sinh lồng ghép trong nội dung các tiết học phù hợp.VD: Môn đạo đức: giáo viên giáo dục, rèn cho học sinh kỹ năng giao tiếp ứng xử: kính trọng, lễ phép với người lớn tuổi, đoàn kết hoà nhã với bạn bè, tôn trọng không tự ý mở xem đồ đạc của người khác, giữ gìn vệ sinh môi trường, nói lời cảm ơn, xin lỗi phù hợp, quan tâm hợp tình huống, biết cách chào thầy cô giáo, cách xưng hô nói năng đúng mực với những người lớn tuổi,... ), kỹ năng từ chối, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng hợp tác, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng vận động, kỹ năng kiềm chế sự tức giận, kỹ năng biểu lộ cảm xúc…. Các giải pháp và hình thức để rèn kỹ năng sống cho các em: giúp đỡ những người xung quanh, kỹ năng nhận lời, kỹ năng từ chối, kỹ năng quyết định, kỹ năng kiềm chế xúc cảm, kỹ năng vận động, kỹ năng xử lý một số tình huống cụ thể,...; trong các tiết tự nhiên và xã hội, khoa học, học sinh được rèn kỹ năng sử dụng có hiệu quả đồ dùng dụng cụ chăm sóc cây trồng, vật nuôi, kỹ năng giữ gìn vệ sinh các nhân, giữ gìn vệ sinh môi trường,...v...v...; tuỳ từng bài, tuỳ từng nội dung giáo viên có thể lồng ghép rèn kỹ năng sống cho học sinh cho hợp Tổ chức hoạt động ngoại khoá chuyên đề “Rèn kỹ năng sống cho HS”, tạo cho HS một sân chơi để HS được thực hành kỹ năng sống, được giao lưu, được tư vấn về kỹ năng sống để hiệu quả rèn kỹ năng sống cho học sinh được nâng lên gắn liền với thực tế cuộc sống. Trang 8 Giáo viên không chỉ nhằm hình thành những khái niệm khoa học, cách làm việc trí óc mà còn hướng dẫn tới sự tạo dựng phát triển các nhân cách của học sinh. Đặc biệt trẻ tiểu học thường hay bắt chước người lớn và rất tin tưởng ở các thầy giáo, cô giáo. Vì vậy, mỗi giáo viên cũng phải luôn thường xuyên tự rèn kỹ năng sống, luôn thể hiện là tấm gương trong sáng, mẫu mực cho học sinh noi theo. Rèn kỹ năng cho học sinh kết hợp với rèn học sinh thực hiện các nề nếp hàng ngày: VD: Yêu cầu đi học đúng giờ: buộc học sinh phải có thói quen dậy sớm, có tác phong nhanh nhẹn ( rèn kỹ năng khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu); Yêu cầu xếp hàng ra vào lớp thẳng hàng, ngay ngắn, không xô đẩy nhau trong hàng (rèn cho học sinh kỹ năng kiềm chế bản thân, kỹ năng vận động, gây ảnh hưởng); Yêu cầu học sinh đến lớp phải có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập ( rèn cho học sinh kỹ năng tự kiểm tra, xây dựng kế hoạch). Tổ chức các hoạt động lao động vừa sức với học sinh: vệ sinh sân trường, lớp học, trồng chăm sóc cây trên sân trường, bồn hoa, vườn trường, ; học sinh được rèn một số kỹ năng như: cầm chổi quét, hót rác, tưới cây, tỉa lá,...; thông qua đó HS biết sử dụng có hiệu quả đồ dùng lao động Xây dựng các nhóm bạn cùng tiến: nhóm bạn giúp nhau học tập, nhóm bạn ATGT, nhóm phòng chống ma tuý, ... trong qua trình hoạt động của các nhóm, học sinh được rèn kỹ năng hợp tác, chia sẻ, biết đối xử, ứng xử với bạn hài hoà phù hợp,... Tổ tư vấn của nhà trường cần có kiến thức hiểu biết về tâm sinh lý trẻ, nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của rèn kỹ năng sống cho học sinh, có kế hoạch cụ thể, biết cách và thường xuyên quan sát, gần gũi, thân thiện với trẻ, phát hiện khó khăn, giúp đỡ tư vấn giúp học sinh biết cách tự giải quyết đúng được những vấn đề khúc mắc trong cuộc sống đa dạng Quan tâm chú ý đến việc tuyên truyền phổ biến pháp luật trong nhà trường. Khi học sinh biết những điều luật cho phép làm hay những điều luật cấm (Một số nội dung trong Luật giáo dục, Luật giao thông, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em,..v.v...), học sinh sẽ hiểu rõ nhiệm vụ quyền hạn của mình để học tập, rèn Trang 9 luyện tốt hơn, biết ra những quyết định đúng đắn, biết tự kiềm chế mình không mắc sai lầm, biết xử lý tình huống đúng hướng, biết tự bảo vệ mình,.. Tổng phụ trách Đội thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể vui chơi lành mạnh, bổ ích để trẻ được thực hành rèn kỹ năng sống. Các GV thường xuyên lồng ghép rèn kỹ năng sống cho HS trong các giờ học. Các đoàn thể của xã cũng phải tìm hiểu và tham gia tư vấn cho các gia đình về kiến thức pháp luật, kiến thức khoa học, kinh nghiệm thực tế “nuôi con khoẻ, dạy con ngoan”, tạo cho trẻ một môi trường lành mạnh, an toàn; cách dạy cho trẻ một số kiến thức để trẻ biết tự bảo vệ mình (Ví dụ: cách từ chối, tránh xa các tệ nạn xã hội,...). Và còn rất nhiều kỹ năng sống như việc giữ gìn những giá trị văn hoá dân tộc Việt Nam, phát huy lòng yêu nước, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lí, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống ….sẽ tiếp tục rèn luyện cho các em hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện, phấn đấu. IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Trong thời gian công tác tại trường TH Thạnh Bình B tôi đó điều tra nghiên cứu và thử áp dụng thực tế đó được các động nghiệp trong trường đồng tình ủng hộ. Kết quả cuối năm học cho thấy HS ngoan hơn, tự giác chủ động, mạnh dạn hơn, đó thể hiện được cách xử lý trong ứng xử khỏ phự hợp. * Khảo sát cuối năm học: HS lớp 1/2 : Tự mình chuẩn bị đồ dùng học tập Tự mình chuẩn TSHS Cần người lớn bị đồ dùng học giúp tập SL % SL % 34 26 76.47 8 23.53 Tự giác ngồi học bài ở nhà Tự giác không cần nhắc nhở SL 28 % 82.35 Chưa tự giác, bố mẹ phải nhắc nhở nhiều SL % 6 17.65 * Khảo sát việc học tập ở lớp , phụ giúp việc gia đình HS lớp 2/1 cuối năm học 2013 - 2014 : Trang 10 Tự phụ giúp người lớn công việc TSHS 36 Tự giác SL 29 Ý thức học tập ở lớp nhà người lớn nhắc Chú ý trong học Chưa tự giác % 80.56% nhở SL 7 tập % 19.44% SL 31 % 86.11% trong học tập SL % 5 13.89% - Nội dung đề tài này phù hợp với lứa tuổi HS tiểu học có thể vận dụng được trong tất cả các trường tiểu học. - Sau đề tài này tôi dự định sẽ tiếp tục nghiên cứu để thiết kế thêm hình thức và tìm thêm biện pháp rèn kỹ năng sống cho HS được phong phú hơn. V. KẾT LUẬN: Hoạt động vui chơi giải trí ngoại khóa cần thiết và có ý nghĩa thiết thực trong quá trình rèn kỹ năng sống cho các em, tuy nhiên quan trọng nhất vẫn là rèn kỹ năng sống thiết thực thể hiện trong từng môn học, từng tiết học của các em. Trong toàn bộ các khâu công tác của Đội, công tác cán bộ phụ trách là một trong những mắt xích quan trọng nhất, quyết định chất lượng, hiệu quả của công tác đội và phong trào thiếu nhi. Trong mối quan hệ biện chứng giữa Đoàn, Đội và Nhà trường , công tác Đội và phong trào thiếu nhi không thể thiếu vắng bàn tay dìu dắt của anh chị Tổng phụ trách. Nếu cho rằng “Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục Thiếu niên Nhi đồng là một mặt trận thì Tổng phụ trách là người chiến sĩ trên mặt trận đó”. Thật vậy, hoạt động Đội là một hoạt động trên mặt trận chính trị xã hội dành cho thiếu nhi, đòi hỏi người phụ trách phải kiên trì, bền bỉ, luôn luôn học hỏi và không ngừng sáng tạo để tìm ra nhiều phương pháp giáo dục phù hợp với mọi đối tượng học sinh. Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực” mà chủ yếu là “Rèn kỹ năng sống cho học sinh” mà tôi thực hiện trong những năm qua có thể là một đề tài mà tôi tâm đắc nhất. Các hoạt động rèn kỹ năng sống cho các em phải mang tính liên tục, mọi lúc mọi nơi, không nên sao nhãng, ngắt quãng, rèn trong từng giờ, từng ngày, từng tháng, trong học kỳ, tổ chức nhiều các hoạt động vui chơi giải trí, vừa chơi Trang 11 vừa học để thức đầy quá trình tự rèn kỹ năng sống của từng em thông qua các hoạt động được tổ chức.cũng sẽ tạo ra tâm lí thoải mái mỗi khi các em đến trường vì “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm về việc “ Rèn kỹ năng sống cho học sinh từ những điều nhỏ nhất” thông qua các chương trình hoạt động Đội. Tôi đã tìm tòi học hỏi từ những thầy cô đi trước, từ sách báo, cũng như rút ra những kinh nghiệm thiết thực từ bản thân qua các năm làm công tác Đội, hoạt động mà mình đã tổ chức. Tôi rất mong được chia sẽ những kinh nghiệm của mình cũng như luôn mong muốn tiếp thu những ý kiến đóng góp từ bạn bè đồng nghiệp. Tân Phong, ngày 19 tháng 5 năm 2014 Người viết NGUYỄN NHẬT NGÂN Trang 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất