“ Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học phép nhân, phép
chia các số tự nhiên theo sách giáo khoa Toán lớp 3”.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Trọng tâm và hạt nhân của chương trình toán ở Tiểu học
là nội dung Số học. Trong đó phép nhân, phép chia các số tự
nhiên là nội dung cơ bản, quan trọng trong nội dung số học. Bởi
vì, nhiệm vụ trọng yếu của môn toán Tiểu học là hình thành cho
học sinh kĩ năng tính toán – một kĩ năng rất cần thiết trong
cuộc sống, lao động và học tập của học sinh. Vì vậy giáo viên
cần tìm hiểu, nghiên cứu để dạy tốt cho học sinh bộ môn này.
2. Để dạy tốt nội dung phép nhân, phép chia các số tự
nhiên: trước hết giáo viên cần nắm được bản chất Toán học của
những kiến thức này. Cụ thể, giáo viên Tiểu học phải: Hiểu đúng
đắn các khái niệm, định nghĩa Toán học; có khả năng chứng
minh các quy tắc, công thức, tính chất Toán học được dạy ở Tiểu
học dựa trªn To¸n học hiện đại; có khả năng giải bài tập toán ở
Tiểu học tốt ( thể hiện ở khả năng phân tích tìm tòi lời giải, khả
năng trình bày bài một cách logic, chặt chẽ và có khả năng khai
thác bài toán sau khi giải)…
Vì vậy, cần giúp giáo viên nắm được cấu trúc nội dung
của phép nhân, phép chia các số tự nhiên trong chương trình
Toán tiểu học, nội dung và cách thể hiện nội dung phép nhân,
phép chia các số tự nhiên. Bên cạnh đó giáo viên cũng nắm
được phương pháp dạy học các nội dung này theo hướng đổi
mới về phương pháp dạy học Toán. Điều này giúp cho việc dạy
học phép nhân, phép chia các số tự nhiên đạt chất lượng cao
hơn.
4. Vì những lý do trên, đồng thời để nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho bản thân mình, tôi đã chọn
đề tài:
“ Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học phép nhân,
phép chia các số tự nhiên theo sách giáo khoa Toán lớp 3”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học phép nhân,
phép chia các số tự nhiên theo sách giáo khoa Toán lớp 3.
A. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẪN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Để giúp giáo viên Tiểu học hiểu rõ hơn cơ sở của việc lựa chọn
và sắp sếp các nội dung về phép nhân, phép chia các số tự
nhiên, đồng thời giúp giáo viên biết được định hướng của việc
lựa chọn và tận dụng các phương pháp dạy học đối với các nội
dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên tôi xin trình bày tóm
tắt các vẫn đề sau:
Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học
Một số vấn đề về phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học
Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học:
1. Tri giác:
- Tri giác mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và tri giác
mang tính không chủ định.
- Khi tri giác, sự phân tích một cách có tổ chức và sâu sắc ở
học sinh lớp đầu còn yếu.
- Ở đầu cấp, tri giác của trẻ thường gắn với hành động,
hoạt động thực tiễn của trẻ.
2. Chú ý:
Chú ý có chủ định còn yếu, chú ý không chủ định phát triển.
Những gì mang tính mới mẻ, rực rỡ, bất ngờ, khác thường dễ
dàng lôi cuốn sự chú ý của học sinh.
3. Trí nhớ:
- Trí nhớ trực quan – hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ
ngữ - lôgic.
- Ghi nhớ máy móc chiếm ưu thế
- Học sinh không xác định được mục đích ghi nhớ, không
biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa.
- Những thông tin mà học sinh được tiếp xúc từ nhiều giác
quan sẽ giúp các em ghi nhớ nhanh hơn và nhớ lâu hơn.
4. Tư duy:
- Tư duy cụ thể mang tính chất hình thức, dựa vào đặc điểm
của đồ dùng trực quan
- Học sinh thường dự vào những đặc điểm bề ngoài của sự
vật, hiện tượng để khái quát hoá.
- Hoạt động phân tích – tổng hợp còn sơ đẳng, chủ yếu
được tiến hành khi tri giác trực tiếp các đối tượng trực quan.
* Kết luận
Từ những đặc điểm trên của học sinh Tiểu học về quá trình
nhận thức, khi dạy học Tiểu học nói chung và dạy học Toán nói
riêng, giáo viên cần:
- Quan tâm đến việc sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy
hình thành kiến thức cho trẻ. Vì hình dạng, kiểu cách, màu
sắc… của đồ dùng trực quan dễ gây sự chú ý cho trẻ, giúp trẻ tri
giác tốt, dễ nhớ và nhớ lâu.
Tuy nhiên những đặc điểm trên của học sinh tiểu học cũng
lưu ý giáo viên không nên quá lạm dụng đồ dùng trực quan. Vì
hình ảnh, màu sắc loà loẹt của nó dễ lôi cuốn học sinh làm các
em quên nhiệm vụ học tập của mình. Hơn nữa, sử dụng trực
quan quá nhiều sẽ không phát triển được trí tưởng tượng, khả
năng liên tưởng khái quát của học sinh.
- Giáo viên phải tạo cho học sinh tâm thế để ghi nhớ, hướng
dẫn thủ thuật ghi nhớ, chỉ ra những điểm quan trọng, có ý nghĩa
để học sinh ghi nhớ.
- Việc trẻ ghi nhớ máy móc tốt là điều kiện để giáo viên dạy
học sinh học thuộc các b¶ng nhân, chia. Đây là cơ sở để giáo
viên tổ chức cho học sinh học thuộc các bảng tính bằng cách
đọc nhiều lần.
II. Một số vấn đề về phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học
1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở Tiểu
học
“ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vàp thựuc tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh.”
2. Yêu cầu cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
là:
“ Dạy học dựa trên cơ sở tổ chức các hoạt động học tập của
học sinh. Thông qua hoạt động học tập này, học sinh được phát
huy tính tích cực, chủ động trong học tập, tự trải nghiệm khám
phá, phát hiện vấn đề và tự chiếm lĩnh kiến thức.”
3. Thực hiện định hướng trên trong việc dạy bài mới và dạy thực
hành luyện tập, giáo viên cần:
Trong dạy bài mới: Giúp học sinh:
- Tự phát hiện và giải quyết các vấn đề của bài học.
- Tự chiếm lĩnh tri thức mới
- Hướng dẫn học sinh cách thức phát hiện, chiếm lĩnh tri
thức.
- Thiết lập được mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến
thức đã học.
- Thực hành, rèn luyện cách diễn đạt thông tin bằng lời,
bằng ký hiệu.
Trong dạy bài thực hành luyện tập: Giáo viên cần tổ chức và
động viên mọi học sinh tham gia vào hoạt động thực hành luyện
tập.
- Giúp học sinh nhận ra kiến thức mới học và quy trình vËn
dụng các kiến thức đó trong các dạng bài tập khác nhau.
- Giúp học sinh thực hành, luyện tập theo khả năng của
mình. Chấp nhận thực tế: có những học sinh làm ít hơn hay
nhiều hơn số lượng bài tập đưa ra.
Tóm lại, cần thông qua các hoạt động thực hành, luyện tập làm
cho các em thấy học không chỉ để biết, để thuộc mà còn để làm,
để vận dụng.
4. Giới thiệu một số phương pháp dạy học thường được sử dụng
trong dạy học Toán ở Tiểu học:
Căn cứ vào đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học, đặc
điểm các kiến thức Toán học và phương pháp nhận thức Toán
học, các phương pháp dạy học thường được sử dụng trong dạy
học Toán ở Tiểu học gồm: phương pháp trực quan, phương
pháp thực hành – luyện tập, phương pháp gợi mở – vấn đáp,
phương pháp giảng giải – minh hoạ.
Bên c¹nh đó, để thực hiện định hướng đổi mới phương pháp
dạy học Toán ở Tiểu học, hiện nay người ta chú trọng sử dụng
các phương pháp dạy học theo phương hướng phát huy tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học
CHƯƠNG II: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÉP
NHÂN, PHÉP CHIA CÁC SỐ TỰ NHIÊN TRONG SÁCH GIÁO KHOA
TOÁN LỚP 3
I. Mục tiêu dạy học phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3
Giúp học sinh:
- Học thuộc các bảng tính nhân 6, 7, 8, 9; bảng chia 6, 7, 8,
9.
- Hoàn thiện bảng nhân, bảng chia.
- Biết tính nhẩm trong phạm vi các bảng tính hoặc trong các
trường hợp đơn giản, thường gặp về nhân, chia.
- Biết thực hiện phép nhân số có 2, 3, 4, 5 chứ số có 1 chữ
số; phép chia số có 2, 3, 4, 5 chữ số cho số có 1 chữ số (chia hết
hoặc chia có dư)
- Biết tính giá trị các biểu thức số có đến hai dấu phép tính
(hoặc không có dấu ngoặc).
- Biết tìm một thành phần chưa biết trong phép tính.
* Thông qua việc dạy học phép nhân, phép chia ở lớp 3 giúp học
sinh:
- Phát triển khả năng tư duy: so sánh, lựa chọn, phân tích,
tổng hợp, trõu tượng hoá, khái quát hoá.
- Diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng thông tin.
- Tập phát hiện, tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức mới.
II. Nội dung dạy học phép nhân, phép chia các số tự nhiên
trong chương trình toán lớp 3
Phép tính
Biểu thức
Bài tập
- Củng cố các bảng nhân với 2, 3,
4, 5
- Lập các bảng nhân với 6, 7, 8, 9
và các bảng chia cho 6, 7, 8, 9
- Hoàn thiện các bảng nhân và các
bảng chia.
- Tính giá
trị của các
- Nhân, chia ngoài bảng:
biểu thức
+ Nhân số có 2, 3, 4, 5 chữ số với
số có hai
số có 1 chữ số .
dấu phép
tính, có
+ Chia số có 2, 3, 4, 5 chữ số cho
số có 1 chữ số ( chia hết và chia có hoặc không
có dấu
dư)
ngoặc
- Thực hành tính nhẩm, chủ yếu
trong phạm vi các bảng tính: nhân
số tròn nghìn với số có 1 chữ số
(không nhớ); chia số tròn nghìn,
tròn chục nghìn cho số có 1 chữ số
và chia hết.
- Giải các
bài tập
dạng
“ Tìm x,
biết a : x
= b (với a,
b là các số
trong
phạm vi
đã học)
Như vậy: Các biện pháp nhân, chia ngoài bảng được xây
dựng trên cơ sở những kiến thức và kỹ năng về: cấu tạo thập
phân của số; tính chất phân phối của phép nhân và chia đối với
phép céng; các bảng nhân, chia; quan hệ giữa nhân và chia.
Yêu cầu cơ bản để dạy các biện phép nhân, phép chia ngoài
bảng và chủ yếu là nắm được thuật tính và thực hành tính
thông thạo. Vì vậy phương pháp chung được sử dụng là giáo
viên hướng dẫn và thực hiện trực tiếp trên ví dụ cụ thể. Từ đó
khái quát thành các bước thực hiện.
III. Một số lưu ý về phương pháp dạy học các nội dung về phép
nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3
Qua việc tìm hiểu nội dung , phương pháp dạy học các nội
dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3, tôi thấy:
Để dạy tốt các nội dung này, giáo viên cần lưu ý những điều
sau:
1. Về việc dạy giai đoạn chuẩn bị:
Trước khi học phép tính mới (phép nhân, phép chia) học
sinh đều có giai đoạn chuẩn bị. Đây là cơ sở cho việc hình thành
kiến thức mới, cầu nối giữa kiến thức đã học và kiến thức sẽ
học. Vì vậy, khi dạy học các bài học trong giai đoạn này, giáo
viên cần chuẩn bị tốt kiến thức cho học sinh để làm cơ sở vững
chắc cho các em học những kiến thức mới tiếp theo. Cụ thể là:
- Học sinh được học bài “Tổng của nhiều số” trước khi học
bài “Phép nhân”. ở đây học sinh được tính tổng các số hạng
bằng nhau. Giáo viên phải lưu ý để nhận ra các tổng này đều có
các số hạng bằng nhau để giúp học sinh học bài phép nhân, tính
kết quả của các phép nhân trong các bẳng nhân (nhất là các
bảng nhân đầu tiên).
- Học sinh được học bài “Phép nhân” và các bài về Bảng
nhân trước khi học bài “Phép chia” và các bài về Bảng chia. Giáo
viên lưu ý học sinh phải thuộc bảng nhân để làm cơ sở học các
bảng chia, vì các bảng chia đều được xây dựng từ các bảng
nhân tương ứng.
- Việc nhân chia trong bảng thành thạo cũng là cơ sở để học
sinh học tốt nhân, chia ngoài bảng.
2. Về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong từng giai đoạn lập
bảng nhân, bảng chia:
Kĩ thuật chung của nhân, chia trong bảng là: Học sinh thao
tác trên các tấm bìa có các chấm tròn. Vì vậy, sử dụng đồ dùng
trực quan ở đây là rất quan trọng. Tuy nhiên mức độ trực quan
không giống nhau ở mỗi giai đoạn:
- Ở lớp 3 (học kỳ I): học sinh tiếp tục học các bảng nhân,
bảng chia 6, 7, 8, 9. Lúc này các em đã có kinh nghiệm sử dụng
đồ dùng học tập (các miếng bìa với số chấm tròn như nhau), đã
quen và thành thạo với cách xây dựng phép nhân từ những
miếng bìa đó. Hơn nữa, lên lớp 3 trình độ nhận thức của học
sinh phát triển hơn trước nên khi hướng dẫn học sinh lập các
bảng nhân hoặc bảng chia, giáo viên vẫn yêu cầu học sinh sử
dụng các đồ dùng học tập nhưng ở một mức độ nhất định, phải
tăng dần mức độ khái quát để kích thích trí tưởng tượng, phát
triển tư duy cho học sinh. Chẳng hạn:
Giáo viên không cùng học sinh lập các phép tính như ở lớp 2
mà chỉ nêu lệnh để học sinh thao tác trên tấm bìa với các chấm
tròn để lập 3, 4 phép tính trong bảng, các phép tính còn lại học
sinh phải tự lập dựa vào phép đếm thêm hoặc dựa vào các bảng
nhân đã học.
VD: Khi hướng dẫn học sinh tự lập Bảng nhân 6, giáo viên
yêu cầu học sinh sử dụng các tấm bìa, mỗi tấm bìa có 6 chấm
tròn để lập các phép tính:
6x1= 6
6 x 2 = 12
6 x 3 = 18
Sau đó cho học sinh nhận xét để từ 6 x 2 = 12 suy ra được 6 x 3
= 18. Cụ thể là: Với 3 tấm bìa
Học sinh nêu : “6 được lấy 3 lần, ta có 6 x 3”
Mặt khác cũng từ 3 tấm bìa này ta thấy 6 x 3 chính là 6 x 2 + 6
Vậy 6 x 3 = 6 x 2 + 6 = 18
Bằng cách như vậy, học sinh có thể không dùng tấm bìa mà vẫn
tự tìm được kết quả của phép tính:
6 x 4 = 6 x 3 + 6 = 24
6x5=6x4+6…
Hoặc dựa trên bảng nhân đã học:
6 x 4 = 4 x 6 = 24
6x5=5x6…
Như vậy, giáo viên cần lưu ý sử dụng đồ dùng trực quan
hợp lý, đúng mức để không chỉ giúp học sinh nắm được kiến
thức mà còn phát triển tư duy.
3. Về phương pháp nhân, chia ngoài bảng:
Với nội dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3,
để hình thành kiến thức mới cho học sinh thì phương pháp chủ
yếu là trực quan kết hợp làm mẫu; để rèn kỹ năng thì phương
pháp chủ yếu là thực hành – luyện tập. Tuy nhiên, trong quá
trình học sinh thực hành luyện tập, giáo viên phải tăng dần mức
độ, yêu cầu, độ khó của bài tập; tạo điều kiện cho học sinh tự
huy động kiến thức sẵn có để làm bài; đồng thời rèn cho học
sinh khả năng tự kiểm tra, đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau.
Như vậy, khi sử dụng phương pháp dạy học phép nhân,
phép chia số tự nhiên ở lớp 3 người ta đã quan tâm đến đặc
điểm nhận thức của học sinh và đã có sử dụng các phương pháp
dạy học kích thích tư duy trừu tượng, khả năng so sánh, khái
quát hoá, tổng hợp hoá … cho học sinh.
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG DẠY HỌC PHÉP NHÂN, PHÉP CHIA
CÁC SỐ TỰ NHIÊN Ở LỚP 3
Qua thực tế tìm hiểu tình hình dạy học phép nhân, phép
chia cho học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học tôi rút ra một số nhận
xét sau:
I. Vấn đề giảng dạy của giáo viên
Quan điểm của giáo viên về cấu trúc nội dung chương trình
để rèn luyện kĩ năng thực hiện phép nhân, chia các số tự nhiên
cho học sinh là rất phù hợp. Các bài học về phép nhân, phép
chia được sắp xếp liền mạch, bài nọ là cơ sở cho bài kia, phù
hợp cho cả giáo viên và học sinh trong quá trình luyện tập.
- Nội dung rèn luyện kỹ năng thực hiện tính nhẩm phép
nhân, chia trong bảng là rất quan trọng vì nó không chỉ giúp
củng cố kiến thức mới mà còn rất thuận lợi cho quá trình dạy
nhân, chia ngoài bảng. Thiếu kỹ năng nhân nhẩm tốt thì học
sinh sẽ rất khó khăn trong việc học phép chia đặc biệt là chia
ngoài bảng (chia viết).
1. Ưu điểm:
a) Giáo viên sử dụng phương pháp trực quan, giảng giải –
minh hoạ, gợi mở – vấn đáp khi hình thành khái niệm phép tính;
khi thành lập các bảng tính; hướng dẫn học sinh làm bài tập để
định hướng cho học sinh làm bài.
b) Giáo viên thường xuyên sử dụng phương pháp Thực
hành luyện tập trong quá trình rèn luyện kỹ năng thực hiện
phép nhân, phép chia các số tự nhiên cho học sinh. Điều này rất
thuận lợi cho cả giáo viên và học sinh: giáo viên không phải
giảng nhiều, còn học sinh có điều kiện tự rèn luyện kỹ năng cho
mình.
c) Giáo viên bám sát và theo dõi từng bước thực hiện tính
của học sinh, có biện pháp sửa sai kịp thời.
2. Nhược điểm:
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, khi dạy học để rèn luyện
kỹ năng nhân, chia cho học sinh lớp 3 còn một số tồn tại như
sau:
Việc dạy học theo định hướng đổi mới chưa được nhiều giáo
viên chú trọng:
- Trong quá trình hình thành các phép toán nhân, chia ngay
sau khi giảng giải và hỏi - đáp, giáo viên thường rút ra công
thức phép toán nhưng ít chú ý đến việc cho học sinh nhắc lại
hoặc tự rút ra kiến thức mới:
VD: Trong những bài về nhân, chia ngoài bảng, sau khi đã cho
học sinh thấy:
x
1427
3
4281
2407
4
00
601
07
3
- Nhiều giáo viên cho học sinh luyện tập với không khí buồn
tẻ, do đó có nhiều dạng bài tập lặp lại mà giáo viên không đổi
mới các hình thức chữa bài chủ yếu chữa bài một cách đơn điệu.
- Nội dung phép nhân, phép chia số tự nhiên trong Toán 3 là
nội dung mới. Để khắc sâu kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính
toán cho học sinh, sách giáo khoa đưa ra những dạng bài tập
tương tự nhau, đặc biệt là trong các bài học về nhân, chia trong
bảng. Chẳng hạn: các bài học về bảng nhân thường có 3 dạng
bài tập:
+ Tính nhẩm (các phép nhân trong bảng)
+ Toán có văn (giải bằng một phép tính nhân)
+ Đếm thêm
II. Một số thuận lợi và khó khăn, sai lầm học sinh thường gặp
khi học phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3.
1. Thuận lợi:
a) Do các bài học và bài tập về phép nhân, phép chia các số
tự nhiên ở lớp 3 được trình bày một cách khoa học, chính xác;
cấu trúc các bài tương đối giống nhau nên nếu nghỉ học, nhờ
vào việc đọc bài và làm bài tập, học sinh có thể tự rèn luyện kỹ
năng tính cho mình.
b) Hết lớp 3 học sinh đã có những kiến, kỹ năng cơ bản nhất
về phép nhân, phép chia; tự mình có thể đặt tính và tính (nhân,
chia) số có đến 5 với số có 1 chữ số.
c) Học sinh biết vận dụng kỹ năng nhân, chia vào làm toán:
tìm thành phần chưa biết, tìm giá trị biểu thức, giải toán có
văn…
d) Học sinh có kỹ năng tính nhanh, tính nhẩm các số tròn
chục với số có một chữ số.
2. Khó khăn, sai lầm:
Khi thực hiện các phép tính nhân, chia ở lớp 3 học sinh thường
gặp một số khó khăn, sai lầm sau:
a) Khi nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số có nhớ
2, 3 … liên tiếp, học sinh thường chỉ nhớ lần đầu tiên mà quên
không nhớ các lần tiếp theo.
VD:
x
1719
4
4876
b) Trong phép nhân có nhớ nhiều hơn 1 (nhớ 2, nhớ 3 …) học
sinh thường chỉ nhớ 1.
VD:
x
2913
4
9652
=> Khắc phục: Đối với 2 lỗi trên, giáo viên cần khắc phục cho
học sinh bằng cách: yêu cầu các em nhẩm thầm trong khi tính
(vừa tính, vừa nhẩm) như phép tính mẫu trong sách giáo khoa
và viết số cần nhớ ra lề phép tính.
c) Lúc đầu khi mới học nhân số có nhiều chữ số với số có
một chữ số, học sinh còn hay sai trong cách ghi kết quả.
VD:
x
26
3
618
=> Khắc phục: Ở đây, ta cần giải thích cho học sinh rằng: Nếu
làm như vậy thì tích có tới 62 chục, nhưng thực ra chỉ có 7 chục
mà thôi. Vì:
- Ở lượt nhân thứ nhất: 3 nhân 6 đơn vị được 18 đơn vị, tức là 1
chục và 8 đơn vị, viết 8 ở cột đơn vị, còn 1 chục nhớ lại (- ghi
bên lề phép tính) để thêm vào kết quả lượt nhân thứ hai – nhân
hàng chục.
- Ở lượt nhân thứ hai: 3 nhân 2 chục được 6 chục, thêm một
chục đã nhớ là 7 chục, viết 7 ở cột chục.
Giáo viên cũng có thể một lần nữa khẳng định tính đúng
đắn của phép tính bằng cách: Phân tích từ số 26 = 2 chục + 6
đơn vị và hướng dẫn học sinh nhân bình thường theo hàng
ngang rồi cộng các kết quả lại.
2. Học phép chia
a) Học sinh thường ước lượng thương sai trong phép chia
có dư nên dẫn đến tìm được số dư lớn hơn số chia và lại thực
hiện chia số dư đó cho số chia. Cuối cùng, tìm được thương lớn
hơn số chia.
VD:
89
8
2
431
09
6
3
2
1
Nguyên nhân của lỗi sai này là:
- Do học sinh chưa nắm được quy tắc “số dư bao giờ cũng nhỏ
hơn số chia”
- Học sinh không thuộc bảng nhân, bảng chia, kỹ năng trừ nhẩm
để tìm số dư còn chưa tốt.
=> Để khắc phục sai lầm này:
- Khi dạy học sinh cách ước lượng thương trong phép chia, cần
lưu ý cho học sinh quy tắc trong phép chia có dư: “số dư bao giờ
cũng nhỏ hơn số chia”
- Khi dạy về nhân, chia trong bảng, giáo viên cần yêu cầu học
sinh phải học thật thuộc các bảng nhân, bảng chia trước khi dạy
chia viết.
- Dạy cho học sinh làm tính chia phải được tiến hành từ dễ đến
khó, theo từng bước một.
b) Một sai lầm nữa thường thấy ở học sinh khi học chia viết
là: Các em thường quên chữ số “0” trong phép chia có chữ số
“0” ở thương.
=> Nguyên nhân và cách khắc phục:
Do học sinh không nắm được quy tắc thực hiện chia viết “có
bao nhiêu lần chia thì có bấy nhiêu chữ số được viết ở thương”.
Giáo viên cũng cần lưu ý học sinh: Chỉ duy nhất trong lần chia
đầu tiên là được lấy nhiều hơn một chữ số ở số bị chia để chia,
còn các lần chia tiếp theo lấy từng chữ số để chia và khi lấy một
chữ số để chia thì phải viết được một chữ số ở thương.
Bên cạnh đó, giáo viên cũng lưu ý học sinh nên viết đủ phép
trừ ơt các lượt chia như sau
VD:
816
4
016
24
0
Hướng dẫn học sinh cách nhân khi thực hiện phép chia có dư
trong mỗi lượt chia như sau:
VD: 43 : 5 = ?
Cách 1: Đếm ngược từ 43 cho đến khi gặp một tích (hoặc số bị
chia) trong bảng nhân 5 (chia 5) : 43; 42; 41; 40.
40 : 5 = 8
Vậy 43 : 5 = 8 (dư 3)
Cách 2: Tìm số lớn nhất (không vượt quá 43) trong các tích (số
bị chia) của bảng nhân (chia 5) ta được 40; 40: 5 = 8. Vậy 43 : 5
= 8 (dư 3)
Nhìn chung, khi học nội dung về phép nhân, phép chia các
số tự nhiên ở lớp 3, hầu hết học sinh đều nắm được kiến thức có
kỹ năng nhân, chia. Những sai lầm trên đầy chỉ xảy ra với số ít
học sinh ở giai đoạn đầu học về nội dung này. Giáo viên cần lưu
ý để có biện pháp giúp đỡ học sinh kịp thời.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài này tôi thấy: Nếu giáo viên Tiểu học nắm
vững bản chất toán học của các mạch kiến thức nói chung, của
Số học nói riêng; nắm được sự thể hiện các nội dung kiến thức
đó trong sách giáo khoa thì chắc chắn việc dạy học sẽ tốt hơn.
Vì vậy có hiểu đúng, chính xác kiến thức thì giáo viên mới
truyền thụ cho học sinh kiến thức đúng được.
Hơn nữa, bằng việc tìm hiểu cách sắp xếp nội dung dạy học
trong s¸ch giáo khoa, giáo viên sẽ thấy được mối liên hệ giữ các
bài học. Từ đó chú ý huy động kiến thức học sinh đã có để học
bài mới, đồng thời trang bị cho học sinh những lượng kiến thức
cần thiết để làm cơ sỏ học các bài tiếp theo.
Việc nắm được đặc điểm nhận thức của học sinh, các phương
pháp dạy học phép nhân, phép chia các số tự nhiên; định hướng
đổi mới phương pháp dạy học sẽ giúp giáo viên lựa chọn và vận
dụng phương pháp dạy học đúng, hiệu quả và phát huy được
tính tích cực trong học tập của học sinh.
Ngày tháng
22/08/2012
- Xem thêm -