Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Triết học Thống nhất giữa lý luận và thực tiển lý luận suông...

Tài liệu Thống nhất giữa lý luận và thực tiển lý luận suông

.DOC
11
456
136
  • TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỐNG NHẤT GIỮA LUẬN THỰC
    TIỂN NHẰM KHẮC PHỤC BỆNH KINH NGHIỆM VÀ BỆNH GIÁO ĐIỀU
    Hồ Chí Minh dùng nhiều ch diễn đạt khác nhau: "Lý luận đi đôi với thực tiễn",
    "Lý luận kết hợp với thực hành", "Lý luận thực hành phải luôn luôn đi đôi với
    nhau”, "Lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Dù nói
    "đi đôi", "gắn liền", "kết hợp” nhưng điều cốti nhất Người muốn nhấn mạnh
    là: "Thống nhất giữa luận thực tiễn một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
    Mác - Lênin. Thực tiễn không luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
    quáng. luận không liên hệ với thực tiễn luận suông" (Hồ C
    Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được Hồ
    Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới luận soi đường, dẫn
    dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn
    luận phải dựa trên sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn phải luôn liên hệ với thực
    tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa thực tiễn, luận cần đến
    nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.
    Hồ Chí Minh cho rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
    tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm thì trước hết cần khắc phục bệnh kém lý
    luận, bệnh khinh lý luận. Bởi lẽ, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn tới
    bệnh kinh nghiệm. Hơn nữa, không có lý luận thì trong hoạt động thực tiễn người
    ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hoa kinh nghiệm, cho kinh
    nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực tiễn. Nếu không có lý
    luận hay trình độ lý luận thấp sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm thêm trầm trọng, thêm
    kéo dài. Thực tế cho thấy, ở nước ta có kng ít cán bộ, đảng viên "chỉ bo bo giữ
    lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành
    cách mạng. Vì vậy, h cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của
    cách mạng" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Những cán bộ ấy quên rằng, "kinh
    nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về
    một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một
    mắt mờ" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234). Thực chất là họ không hiểu vai trò
    của lý luận đối với thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò hết sức to lớn
    đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta
    trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi" (Hồ
    Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234 - 235). "Làm mà không có lý luận thì không khác gì
    đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6,
    tr. 47). Làm mò mẫm chính là biểu hiện của bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh
    lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ,
    do kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ
    lý luận và do đó cũng không thể hiểu được bản chất những vấn đề thực tiên mới
    nảy sinh. Do đó, không vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực
    tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế không phù hợp với
    thực tiễn.
    Trang 1
  • Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải kết hợp
    chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh
    lý luận suông, tức bệnh giáo điều. Người khẳng định, "Lý luận cũng như cái tên
    (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để hắn. Có tên mà không bắn, hoặc
    bắn lung tung, cũng như không có tên" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 235). Như
    vậy cũng có nghĩa là lý luận suông, lý luận sách vở thuần túy. "Lý luận cốt để áp
    dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý
    luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem
    ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5 tr.
    234). Do đó, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn, nếu
    không cũng mắc phải bệnh giáo điều. Như vậy, lý luận chỉ có ý nghĩa đính thực khi
    được vận dụng vào thực tiễn phục vụ thực tiễn, đóng vai trò soi đường, dẫn đắt, chỉ
    đạo thực tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn thì phải phù hợp điều
    kiện thực tiễn. Rõ ràng, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh phải
    được hiểu là, thực tiễn - lý luận, lý luận - thực tiễn luôn hòa quyện, thống nhất với
    nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển.
    Hồ Chí Minh không để lại những tác phẩm chuyên khảo về sự thống nhất giữa lý
    luận và thực tiễn, nhưng ở nhiều bài viết, bài nói Người luôn luôn đề cập tới
    nguyên tắc cơ bản này bằng nhiều cách nói, cách viết, cách diễn đạt khác nhau
    nhằm giúp cán bộ, đảng và quần chúng nhân dân dễ nhớ, dễ hiểu, dễ vận dụng. Cả
    cuộc đời của Người là tấm gương sáng về việc quán triệt nguyên tắc thống nhất
    giữa lý luận và thực tiễn. Một trong những biểu hiện sinh động ấy là, trong hoạt
    động cách mạng Người luôn luôn sâu sát thực tế, gắn bó với cơ sở, gần gũi với
    nhân dân. Trong khoảng 10 năm từ 1955 - 1965, Hồ Chí Minh đã thực hiện trên
    700 lượt đi thăm, tiếp xúc với cán bộ, bộ đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông
    dân, các cụ phụ lão, các cháu thanh, thiếu niên nhi đồng, các đơn vị bộ đội, thanh
    niên xung phong, các hợp tác xã, bệnh viện, trường học... Như vậy, mỗi năm có tới
    hơn 70 lần xuống cơ sở, gặp gỡ tiếp xúc với quần chúng nhân dân. Điều này đủ
    thấy Hồ Chí Minh gắn bó với quần chúng, sâu sát với cơ sở, thực tế như thế nào.
    Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, Đảng viên rằng, quán triệt tốt nguyên tắc thống
    nhất giữa lý luận và thực tiễn là góp phần trực tiếp ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh
    nghiệm và bệnh giáo điều. Để làm tốt điều này thì một mặt, phải ra sức học tập,
    nâng cao trình độ lý luận cũng như chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, phải có
    phương pháp học tập đúng đắn, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với
    thực tế. Nếu không, chưa khắc phục được bệnh kinh nghiệm thì đã mắc phải bệnh
    giáo điều, bệnh sách vở. Người chỉ rõ, "lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học
    tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta
    cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496).
    Điều quan trọng nữa theo Người là phải thống giáo điều ngay trong học tập chủ
    nghĩa Lênin. Khi còn sống Người luôn phê phán kiểu học học thuộc lòng chủ nghĩa
    Mác- Lênin, "học sách vở Mác - Lênin nhưng không học tinh thần Mác - Lênin"
    (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9 tr. 292). Đó là học theo kiểu "mượn những lời của Mác,
    Trang 2
  • Lênin dễ làm cho người ta lầm lẫn" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Theo Hồ
    Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là "phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác
    - Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin
    để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những
    vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8,
    tr. 497). "Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối
    với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ
    nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước
    ta. Học để mà làm" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Hồ Chí Minh cũng căn dặn
    cán bộ, đảng viên "học tập lý luận thì nhằm mục đích để vận dụng chứ không phải
    học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra
    mặc cả với Đảng" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 498). Như vậy, học tập chủ nghĩa
    Mác - Lênin không phải vì chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng không phải vì học tập
    thuần túy, càng không phải học tập vì mục đích cá nhân nhằm có cái để mặc cả với
    tổ chức. Học tập trước hết là để làm người, rồi mới làm cán bộ và phụng sự Tổ
    quốc, nhân dân, giai cấp. Cho nên người cán bộ, đảng viên phải có thái độ học tập
    đúng đắn mới có thể khắc phục được bệnh giáo điều trong nghiên cứu, học tập chủ
    nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh cho tới nay vẫn giữ nguyên ý
    nghĩa lý luận và thực tiễn đối với chúng ta. Người cũng lưu ý rằng, không nên coi
    chủ nghĩa Mác - Lênin là kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng nhắc (Hồ
    Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Có như vậy thì việc nghiên cứu, học tập vận dụng
    chủ nghĩa Mác - Lênin mới có hiệu quả. Cùng với việc chống giáo điều trong học
    tập chủ nghĩa Mác - Lênin thì còn phải chống giáo điều trong vận dụng lý luận
    cũng như kinh nghiệm của nước khác, ngành khác. Người căn dặn cán bộ, đảng
    viên: "Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh
    nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều
    (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Để chống cả hai loại giáo điều này, theo Hồ
    Chí Minh thì biện pháp cơ bản là phải gắn lý luận với thực tiễn cách mạng nước
    nhà. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tiễn cách mạng, khi vận
    dụng kinh nghiệm và lý luận phải xuất phát từ thực tiễn nước nhà. Người cũng
    nhấn mạnh rằng, cùng với việc chống bệnh giáo điều thì phải đề phòng, ngăn ngừa
    chủ nghĩa xét lại. Bởi lẽ, nếu không có quan điểm đúng đắn trong việc quán triệt
    nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì người ta dễ nhấn mạnh thái quá
    những đặc điểm dân tộc để phủ nhận những giá trị phổ biến của chủ nghĩa Mác -
    Lênin. "Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến
    của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm
    nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại, (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Đồng thời,
    Người còn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết dùng lý luận đã học được để tổng
    kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác. "… công việc gì bất
    kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần nghiên cứu cội rễ, phân tách thật rõ ràng
    rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán
    bộ tiến tới" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 243). Người còn nhấn mạnh " ...cần phải
    Trang 3
  • nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để
    phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm" (Hồ Chí Minh, 1995,
    tập 5, tr. 417). Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh
    nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Làm được như vậy cũng có nghĩa
    là làm cho lý luận cần được "bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực
    tiễn sinh động" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Đồng thời, thực tiễn mới sẽ
    được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Cứ như vậy, lý luận luôn được bổ
    sung, hoàn thiện, phát triển bởi những kết luận mới được rút ra từ tổng kết thực
    tiễn. Còn thực tiễn luôn được chỉ đạo, soi đường dẫn dắt bởi lý luận đã được bổ
    sung bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Đây là biểu hiện sinh động của việc
    quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh. "Làm
    như thế theo Người là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối vi các vấn
    đề đó được nâng cao hơn và công tác có kết quả hơn" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8,
    tr. 498).
    Qua những nhận định ở trên, chúng ta thấy rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống
    nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và
    bệnh giáo điều có hiệu quả thì phải không ngừng học tập lý luận, nâng cao trình độ
    lý luận. Khi có lý luận thì phải vận dụng vào thực tiễn, phải biết tổng kết thực tiễn
    để làm giàu lý luận bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Chỉ thông qua quy trình
    như vậy thì lý luận mới gắn với thực tiễn, mới không trở thành giáo điều. Đồng thời
    thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo bồi lý luận sẽ không bị mò mẫm, vấp váp, hay chệch
    hướng. Như vậy thì bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều cũng không còn chỗ đúng.
    Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một biện pháp
    cơ bản để ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có ý nghĩa hết
    sức to lớn hiện nay, khi mà chúng ta đang tìm lời giải đáp cho nhiều vấn đề thực
    tiễn đổi mới đặt ra. Bởi lẽ, để tìm lời giải cho những vấn đề đó chúng ta phải tìm ở
    cả trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như ở chính thực tiễn
    đổi mới hiện nay ở nước ta. Nghĩa là phải bằng phương pháp, quan điểm của chủ
    nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tổng kết những vấn đề thực tiễn hôm
    nay một cách có lý luận.
    LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH SOI
    SÁNG VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN HIỆN NAY
    Tác giả : Th.s. Trần Viết Quang - Trường Đại học Vinh
    File đính kèm: Không có
    Trong các bài viết, bài nói chuyện của mình, Hồ Chí Minh đề cập rất nhiều đến
    vấn đề lý luận và vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
    Trang 4
  • bản chất của lý luận có ý nghĩa to lớn, định hướng cho công tác tư tưởng, lý luận
    trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
    1. Theo Hồ Chí Minh, "lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài
    người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội tích lũy lại trong quá trình
    lịch sử" (1). Và lý luận Mác - Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách
    mạng của giai cấp công nhân thế giới. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí
    Minh nói một cách cụ thể: "lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm,
    trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết
    luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế" (2) Lý luận được khái quát từ những
    kinh nghiệm thực tiễn, nhưng lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh
    nghiệm. Tri thức lý luận thể hiện trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, qui luật.
    Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao, nhờ đó, nó
    đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính qui luật của các sự vật,
    hiện tượng khách quan. Lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn,
    hệ thống hơn, nghĩa là có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó, phạm vi ứng dụng của
    nó cũng phổ biến hơn, rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm. Chính C.Mác và
    Ph.Ăngghen cũng từng chỉ rõ: “Sự quan sát theo kinh nghiệm tự nó không bao giờ
    có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu và nhiệm vụ của nhận thức lý luận là
    đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên
    trong thực sự” (3)
    Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần
    làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận một khi thâm
    nhập vào quần chúng thì biến thành "lực lượng vật chất". V.I.Lênin khẳng đnh:
    “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” (4) Lý
    luận có thể dự kiến được sự vận động trong tương lai, từ đó vạch ra phương hướng
    cho thực tiễn, chỉ rõ những phương pháp hành động có hiệu quả nhất để đạt mục
    đích của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động của con người nên chủ
    động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Đánh giá vai trò và ý nghĩa lớn
    lao của lý luận đối với thực tiễn, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: "Lý luận như cái kim chỉ
    nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận
    thì lúng túng như nhắm mặt mà đi" (5) "Làm mà không có lý luận thì không khác gì
    đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp" (6). Ngay sau khi nước nhà
    giành được độc lập từ tay Thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã cảnh báo rằng, do "kém
    về lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông "mà nhiều cán bộ, đảng viên của
    ta mắc phải bệnh chủ quan. Cũng vì kém lý luận mà cán bộ ta "gặp mọi việc không
    biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều
    kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất
    bại"(7)
    Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự
    phản ánh hiện thực, do sự chi phối của hệ tư tưởng và thái độ không khoa học nên
    lý luận có nguy cơ xa rời cuộc sống và trở nên ảo tưởng, giáo điều. Vì vy, trong
    khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý luận, Hồ Chí Minh cũng đồng thời nhắc
    Trang 5

Mô tả:

Tài liệu liên quan