Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổ chức hoạt động khám phá cho học sinh trong dạy học bốn phép tính với các số t...

Tài liệu Tổ chức hoạt động khám phá cho học sinh trong dạy học bốn phép tính với các số tự nhiên môn toán lớp 4 (lv02288)

.PDF
106
142
51

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 VŨ THỊ LOAN TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC BỐN PHÉP TÍNH VỚI CÁC SỐ TỰ NHIÊN MÔN TOÁN LỚP 4 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC TIỂU HỌC HÀ NỘI, 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 VŨ THỊ LOAN TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC BỐN PHÉP TÍNH VỚI CÁC SỐ TỰ NHIÊN MÔN TOÁN LỚP 4 Chuyên ngành: Giáo dục Tiểu học Mã số: 60 14 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC TIỂU HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Trần Luận HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS.Trần Luận - người thầy đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này. Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Phòng Sau Đại học, các Phòng – Ban chức năng đã hỗ trợ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Em xin chân thành cảm ơn các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ đã tham gia giảng dạy lớp Giáo dục học (bậc tiểu học), những thầy cô đã truyền dạy cho em bao kiến thức bổ ích. Xin cảm ơn các bạn đồng nghiệp, các em học sinh ở trường thực nghiệm cùng tất cả bạn bè và người thân đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành luận văn này. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 11 năm 2016 Tác giả luận văn Vũ Thị Loan LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, căn cứ, kết quả có trong luận văn là trung thực. Đề tài này chưa được công bố trong bất kì công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn Vũ Thị Loan MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1.Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1 2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 5 3. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 6 5. Giả thuyết khoa học........................................................................................... 6 6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 6 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................... 8 1.1. Một số vấn đề về tổ chức hoạt động khám phá trong dạy học toán ...................... 8 1.1.1. Khái niệm về khám phá ..................................................................... 8 1.1.2.Các mức độ khám phá của học sinh lớp 4 ....................................... 14 1.1.3.Các nguyên tắc tổ chức dạy học khám phá cho học sinh lớp 4 ....... 18 1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng hoạt động khám phá ................................... 20 1.1.5Thực trạng dạy học Toán theo hướng tăng cường hoạt động khám phá của học sinh lớp 4 .............................................................................. 24 1.2. Một số vấn đề về tổ chức hoạt động khám phá trong dạy học bốn phép tính với các số tự nhiên môn Toán lớp 4 .................................................................... 25 1.2.1. Nội dung tổ chức hoạt động khám phá trong dạy học bốn phép tính với các số tự nhiên môn Toán lớp 4 .......................................................... 25 1.2.2. Mục tiêu tổ chức hoạt động khám phá trong dạy học bốn phép tính với các số tự nhiên Toán lớp 4 .................................................................. 29 Kết luận chương 1 ............................................................................................... 31 Chƣơng 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ BỐN PHÉP TÍNH VỚI CÁC SỐ TỰ NHIÊN CHO HỌC SINH LỚP 4 ....................................................................................................... 32 2.1. Những căn cứ để đề xuất biện pháp ............................................................. 32 2.1.1. Căn cứ vào bản chất, cơ chế của hoạt động học ............................ 34 2.1.2. Căn cứ vào đặc trưng của tổ chức hoạt động khám phá trong dạy học bốn phép tính với các số tự nhiên Toán lớp 4 .................................... 38 2.1.3. Căn cứ vào những đặc điểm của khoa học Toán học và bộ môn Toán trong nhà trưởng Tiểu học. .............................................................. 40 2.1.4. Căn cứ vào đặc điểm của học sinh tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 4 .. 45 2.2. Một số biện pháp nhằm tổ chức hoạt động khám phá học bốn phép tính với các số tự nhiên Toán lớp 4 .................................................................................. 48 2.2.1. Tổ chức hoạt động khám phá kiến thức .......................................... 53 2.2.2. Rèn luyện những phương pháp học tập cơ bản phù hợp với hoạt động khám phá trong dạy học bốn phép tính với các số tự nhiên Toán lớp 4 ................................................................................................................. 54 2.2.3. Phát triển các khả năng khám phá và sáng tạo phù hợp với hoạt động khám phá của học sinh .................................................................... 58 Kết luận chương 2 ............................................................................................... 61 Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ........................................................ 62 3.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm ............................................................ 62 3.2. Nhiệm vụ thực nghiệm sư phạm .................................................................. 62 3.3. Nội dung thực nghiệm sư phạm ................................................................... 62 3.4. Tổ chức thực nghiệm sư phạm ..................................................................... 63 3.4.1. Đối tượng thực nghiệm ................................................................... 63 3.4.2. Kế hoạch và cách thức thực nghiệm ............................................... 65 3.5. Đánh giá thực nghiệm .................................................................................. 66 3.6. Kết quả thực nghiệm .................................................................................... 66 Kết luận chương 3 ............................................................................................... 69 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................... 70 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 72 PHỤ LỤC ........................................................................................................... 75 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CT: Chƣơng trình DHKP: Dạy học khám phá GV: Giáo viên HĐKPT: Hoạt động khám phá toán HS: Học sinh HSTH: Học sinh tiểu học KL: Kết luận KN: Khái niệm KPT: Khám phá toán ND: Nội dung PPDH: Phƣơng pháp dạy học PPDHKP: Phƣơng pháp dạy học khám phá TCHĐKP: Tổ chức hoạt động khám phá TH: Tiểu học TCHĐDH: Tổ chức hoạt động dạy học STN: Số tự nhiên SBC: Số bị chia VD: Ví dụ YTHH: Yếu tố hình học 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Yêu cầu của xã hội Để đảm bảo cho sự thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; một đòi hỏi cấp thiết đặt ra cho ngành Giáo dục cần phải thực hiện đổi mới một cách hoàn thiện cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục. Nghị quyết TW 4 Khóa VII đã xác định phải “khuyến khích tự học, tự khám phá”, phải “áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. Nghị quyết TW 2, Khóa VIII tiếp tục khẳng định “phải đổi mới phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu, khám phá cho học sinh”. Thời đại khoa học công nghệ và xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi ở mỗi người phải có những phẩm chất và năng lực mới, nếu không muốn tụt hậu hoặc bị đào thải. Đào tạo những con người có đủ năng lực cần thiết để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đang là vấn đề cấp thiết, được Đảng và Nhà nước quan tâm và tạo điều kiện để thực hiện. Định hướng trên đây tiếp tục được thể chế hóa trong Luật Giáo dục "Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng năng lực khám phá kiến thức mới, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn." Về phương pháp dạy học Toán trong giai đoạn hiện nay. Về kiến thức, tư duy, tính cách con người chính là mục tiêu của giáo dục. Thế nhưng, trong nhà trường tư duy và tính cách bị chìm đi trong kiến thức. 2 Hơn nữa ta còn chuộng cách dạy nhồi nhét, luyện trí nhớ, dạy mẹo để giải những bài toán khó, giáo viên thuyết trình nhiều làm cho học sinh dễ mệt mỏi và chán nản. Theo quan điểm của lí thuyết kiến tạo, tri thức không phải được tiếp nhận một cách thụ động mà là được tích cực xây dựng bởi chủ thể nhận thức, đó cũng chính là quá trình chủ thể thông qua quá trình tư duy để khám phá ra tri thức cho bản thân. Như vậy, tư tưởng về tự học, khám phá đã được định hướng trong các nghị quyết của Đảng, được thể chế hóa trong Luật Giáo dục và được các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, lãnh đạo ngành rất quan tâm. 1.2. Yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy học trong nhà trƣờng ở nƣớc ta hiện nay Đổi mới cách thực hiện phương pháp dạy học là vấn đề then chốt của chính sách đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới cách thực hiện phương pháp dạy học sẽ làm thay đổi tận gốc nếp nghĩ,nếp làm của các thế hệ học trò – chủ nhân tương lai của đất nước. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học sẽ tác động vào mọi thành tố của quá trình giáo dục và đào tạo. Nó tạo ra sự hiện đại hóa của quá trình này. Muốn phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học thì cần rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh, coi đây không chỉ là phương tiện nâng cao hiệu quả dạy học, mà là mục tiêu quan trọng của dạy học. Trong thời đại "bùng nổ thông tin" hiện nay, do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, sự gia tăng nhanh chóng và thường xuyên của khối lượng thông tin, tri thức thì việc dạy không thể hạn chế ở chức năng dạy kiến thức mà phải tăng cường rèn luyện cho học sinh phương pháp học, những thái độ và năng lực cần thiết để tự định hướng, tự khám phá và làm giàu tri thức của mình nhằm đáp ứng yêu cầu sự phát triển xã hội. Những đòi 3 hỏi đó là: con người phải có thói quen học tập suốt đời và phải tự khám phá là chính chứ không phải chỉ học trong các nhà trường là chính. Nói tới phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học, và khám phá ra kiến thức mới đó là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Nếu rèn luyện cho người học có được kĩ năng, phương pháp, biết ứng dụng những điều đã học vào những tình huống mới, biết tự lực phát hiện và giải quyết những vấn đề gặp phải thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có của mỗi người. Tự khám phá Toán không thể không đi theo xu thế đó nhất là khi môn Toán lại có một số đặc điểm thuận lợi so với các môn khác đối với yêu cầu nói trên. 1.3. Tình hình nghiên cứu trong các lĩnh vực liên quan đến vấn đề dạy học hành động học tập khám phá Trong lịch sử giáo dục, vấn đề dạy học hoạt động học tâp khám phá được quan tâm từ rất sớm, được đề cập và nhìn nhận theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. J.Bruner dành nhiều công sức nghiên cứu và vận dụng lí thuyết của J.Piaget để xây dựng mô hình dạy học dựa vào sự học tập khám phá của học sinh. J.Bruner đề xuất mô hình dạy học được thể hiện đặc trưng bởi bốn yếu tố chủ yếu : hành động tìm tòi, khám phá của học sinh; cấu trúc tối ưu của nhận thức ; cấu trúc của chương trình dạy học và bản chất của sự thưởng – phạt . * Học tập tìm tòi khám phá. Ứng với một cấu trúc nhận thức và khung chương trình như trên, J.Bruner đề xuất một mô hình học tập tìm tòi, khám phá. Theo Bruner , học sinh phải là người tự lực, tích cực hành động tìm tòi, khám phá đối tượng học tập để hình thành cho mình các nguyên tắc, các ý tưởng cơ bản từ các tình huống học tập cụ thể . Trong học tập khám phá cho phép học sinh đi qua ba giai đoạn, ba hình thức hành động học tập: Đầu tiên cần phải thao tác và hành động trên các tài 4 liệu đã có, sau đó hành động trên các hình ảnh về chúng và cuối cùng rút ra được các khái niệm, các quy tắc chung từ những mô hình đó. Vì vậy, trong học tập khám phá, giáo viên cần cung cấp nhiều tình huống để học sinh có thể đặt câu hỏi, khám phá và thực hiện cho đến khi tìm ra được các nguyên tắc, các ý tưởng, mối liên hệ cơ bản trong cấu trúc môn học. Cần tổ chức cho học sinh tiến hành các hành động học tập tương ứng với các hình thức biểu hiện của cấu trúc, theo phương pháp chung là suy luận quy nạp, nghĩa là từ các hành động trên các vật liệu cụ thể để rút ra các nguyên tắc chung. Trên đây là những điểm cơ bản của mô hình học tập khám phá của J.Bruner . Ngày nay nhiều nhà sư phạm ủng hộ mô hình dạy học này, vì nó phù hợp với cách con người học và phát triển, được trình bày trong lý thuyết của J.Piaget và các lý thuyết phát sinh nhận thức khác. Khi học sinh được tạo dựng động cơ và được tham gia vào các hình thức hành động khám phá, phù hợp với trình độ nhận thức của mình thì việc học tập khám phá sẽ đem lại kết quả tốt hơn so với nhiều hình thức học tập khác. Từ những năm 60 của thế kỉ XX ở Việt Nam, vấn đề tự học khám phá đã được nhiều tác giả đề cập đến một cách trực tiếp hay gián tiếp. Trong lĩnh vực này có một số công trình tiêu biểu liên quan đến tự học của nhà nghiên cứu: Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường... Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn là một tấm gương sáng về tự học khám phá ở nước ta. Từ một giáo viên trung học (1947) bằng con đường tự học tự nghiên cứu, sau một thời gian không dài ông đã trở thành một nhà Toán học nổi tiếng ở Việt Nam. Ông đã có nhiều công trình, bài viết về vấn đề tự học. Những ví dụ về các phát minh của chính bản thân ông, là các minh họa rất sinh động cho hoạt động tự học và khám phá môn Toán. Ông cho rằng học bao giờ cũng gắn với tự học, tự rèn luyện để biến đổi nhân cách của mình. Người dạy giỏi là người dạy cho học sinh biết cách tự học, tự nghiên cứu, tự giáo dục. Nói cách khác quá trình tự học, tự nghiên cứu, cá nhân hóa việc học 5 phải kết hợp với quá trình dạy của nhà giáo và quá trình hợp tác với bạn trong cộng đồng lớp học, tức là quá trình xã hội hóa việc học. 1.4. Yêu cầu mang tính thời sự Hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai và thực hiện mô hình Trường học VNEN và sắp tới sẽ nhân rộng cả nước. Với mô hình trường học mới này HS chủ yếu sẽ được học tập một cách chủ động, sáng tạo, tự giác lĩnh hội kiến thức, từ đây HS nhớ được bài học bền lâu hơn do chính các em tự khám phá, tự tìm hiểu thông qua quá trình dạy học mà GV đưa ra. Như vậy, vấn đề tự học luôn là được nhiều người quan tâm, nghiên cứu, đề cập tới và đánh giá là vấn đề quan trọng trong dạy học hiện nay. Ở nước ta trong mấy năm gần đây tuy có một số công trình hoặc mang tính chất tổng hợp các kết quả nghiên cứu về tự học, hoặc là nêu một số định hướng chung. Song chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về năng lực khám phá trong môn Toán, đặc biệt là tìm kiếm các biện pháp cụ thể để góp phần phát triển năng lực khám phá môn Toán cho học sinh lớp 4. Tuy nhiên cho đến nay chưa có ai nghiên cứu cách tổ chức các hoạt động khám phá cho học sinh trong dạy học bốn phép tính với các số tự nhiên môn toán lớp 4.Từ những lí do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu là “Tổ chức hoạt động khám phá cho học sinh trong dạy học bốn phép tính với các số tự nhiên môn toán lớp 4”. 2. Mục đích nghiên cứu Tổ chức dạy học khám phá cho học sinh trong dạy học bốn phép tính với số tự nhiên trong môn học toán lớp 4. Từ đó đề xuất giải pháp trong dạy và học bốn phép tính với các số tự nhiên nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề khám phá kiến thức của học sinh lớp 4. 6 - Xác định một số kĩ năng tự khám phá cần và có thể bồi dưỡng cho học sinh. - Đề xuất phương án dạy học bốn phép tính với các số tự nhiên theo hướng tăng cường hoạt động khám phá của học sinh. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Hoạt động khám phá kiến thức bốn phép tính với các số tự nhiên trong môn Toán của học sinh lớp 4. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Học sinh lớp 4 của trường Tiểu học Hà Huy Tập 1, trường Tiểu học Lê Mao, trường Tiểu học Hồng Sơn Thành Phố Vinh, tỉnh Nghệ An. 5. Giả thuyết khoa học Nếu tổ chức được hoạt động khám phá với tinh thần tích cực hóa hoạt động học tập cho học sinh một cách hợp lí thì có thể nâng cao chất lượng dạy học Toán lớp 4. Góp phần đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Nghiên cứu lí luận: Các cơ sở tâm lí học, Giáo dục học, Triết học của quá trình dạy học và hoạt động học tập; Các định hướng đổi mới PPDH nói chung và đổi mới PPDH môn Toán nói riêng qua các công trình nghiên cứu đã có ở trong và ngoài nước về các vấn đề nói trên. 6.2. Điều tra và quan sát: Điều tra việc dạy của giáo viên, việc học của học sinh, thực trạng vấn đề khám phá kiến thức mới của học sinh và những ảnh hưởng của việc dạy đến vấn đề tự học của học sinh; những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng PPDH theo định hướng đổi mới, qua các hình thức: sử dụng phiếu điều tra, dự giờ, quan sát, phỏng vấn trực tiếp. 7 6.3. Thực nghiệm sƣ phạm: Thực nghiệm sư phạm được tiến hành để kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của các giải pháp nhằm phát triển năng lực khám phá trong việc học bốn phép tính với các số tự nhiên môn Toán lớp 4. 8 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Một số vấn đề về tổ chức hoạt động khám phá trong dạy học toán 1.1.1. Khái niệm về khám phá Tổ chức hoạt độngdạy học. Công tác dạy học ở bất kì cấp độ nào cũng được tiến hành trong những TCHĐDH nhất định. Vì vậy nghiên cứu các TCHĐDH ở trường học là một vấn đề rất quan trọng của lí luận dạy học, đồng thời cũng là một vấn đề có ý nghĩa rất thực tiễn đối với người giáo viên. Nhưng cho đến nay nhiều khía cạnh trong TCHĐDH còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Tuy nhiên một số tác giả đã phân biệt và đưa ra một số định nghĩa TCHĐDH như: Nhikandrop trong cuốn “Các vấn đề về giáo dục học đại học” đã đưa ra định nghĩa: “Tổ chức hoạt động dạy học là phương thức tác động qua lại giữa người dạy và người học, trong đó nội dung và phương pháp dạy học được thực hiện”. Định nghĩa như vậy đúng nhưng chưa đủ, vì ở đây tác giả mới đề cập đến một dấu hiệu của khái niệm này là sự tác động qua lại giữa người dạy và người học. Chúng ta đều biết rằng ngoài dấu hiệu sự tác động qua lại nói trên khi định nghĩa TCHĐDH cần chú ý đến những dấu hiệu quan trọng khác như tính chất tác động của giáo viên và học sinh, số lượng học sinh trong buổi học, vị trí và điệu kiện tiến hành buổi học… vì vậy chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra định nghĩa hoàn chỉnh hơn. Dạy học khám phá. DHKP trong các công trình của Jermore Bruner theo J.Bruner cho rằng học là quá trình mang tính chủ quan. Qua quá trình đó, người học xây dựng hình thành nên các ý tưởng hoặc khái niệm mới dựa trên cơ sở vốn kiến thức sẵn có của mình. Người học lựa chọn và chuyển hóa thông tin, hình thành các giả thuyết và đưa ra các quyết định dựa vào cơ sở cấu trúc của quá trình nhận thức. Ông khẳng định rằng bắt đầu ngay từ khi mới đến trường người học đã cần phải biết cấu trúc cơ bản của kiến thức hơn 9 là biết các số liệu, dữ kiện về các thông tin bình thường tẻ nhạt, những cái đòi hỏi phải ghi nhớ quá nhiều, học sinh cần được khuyến khích và dạy cách tự do khám phá thông tin và tự lĩnh hội tri thức mới một cách chủ động nhất. Theo J.Bruner, việc học tập khám phá xảy ra khi các cá nhân phải sử dụng quá trình tư duy để phát hiện ra ý nghĩa của điều gì đó cho bản thân họ. Để có được điều này, người học phải kết hợp quan sát và rút ra kết luận, thực hiện so sánh làm rõ ý nghĩa số liệu để tạo ra sự hiểu biết mới mà họ chưa từng biết trước đó. Giáo viên cần cố gắng và khuyến khích học sinh tự khám phá ra các nguyên lí, cả giáo viên và học sinh cần phải thực sự hòa nhập trong quá trình dạy học. Nhiệm vụ của người dạy là chuyển tải các thông tin cần học theo một phương pháp phù hợp với khả năng hiểu biết hiện tại của học sinh. Giáo trình cũng cần được xây dựng theo hình xoáy ốc để học sinh được tiếp tục xây dựng kiến thức mới trên cơ sở cái đã học. Tuy nhiên, trong việc tổ chức dạy học khám phá, không phải là học sinh tự khám phá tất cả các dữ liệu thông tin, mà HS khám phá ra sự liên quan giữa các ý tưởng và các khái niệm bằng cách sử dụng cái đã học. J. Bruner đã chỉ ra 4 lý do cho việc sử dụng phương pháp này như sau: + Thúc đẩy tư duy, + Phát triển động lực bên trong hơn là tác động bên ngoài, + Học cách khám phá, + Phát triển trí nhớ. Về nghĩa của sự thúc đẩy tư duy: Bruner cho rằng, một cá nhân chỉ có thể học và phát triển trí óc của mình bằng việc dùng nó. Đối với lý do thứ hai: Ông tin rằng, khi đã thành công với phương pháp khám phá, người học cảm thấy thỏa mãn với những gì mà mình đã làm. Học sinh nhận được sự kích thích trí tuệ thỏa đáng, phần thưởng bên trong, đó chính là động lực bên trong. Thường thì giáo viên tác động bên ngoài thông 10 qua những lời khen, phần thưởng bên ngoài. Nhưng nếu như giáo viên muốn người học tìm được động lực hoặc hứng thú thực sự trong việc học, họ phải xây dựng những phương pháp hoặc các hệ thống nhằm mang lại cho người học những sự thỏa mãn của bản thân chứ không phải là động cơ bên ngoài. Nội lực có vai trò quyết định sự thành bại trong việc học tập của cá nhân người học. Đối với lý do thứ ba: Ông nhấn mạnh rằng cách duy nhất mà một người học được các kĩ thuật khám phá đó là họ phải có cơ hội để khám phá. Thông qua khám phá, người học dần dần sẽ học được cách tổ chức và thực hiện các nghiên cứu của mình. Đối với lý do thứ tư: Ông cho rằng một trong những kết quả tốt nhất của hoạt động khám phá đó là nó hỗ trợ tốt hơn cho trí nhớ của người học, người học duy trì trí nhớ bền lâu. Nếu chúng ta nghĩ về một điều gì chúng ta đã nghĩ trong một chốc lát và so sánh với những thông tin mà bạn đã được cung cấp trong một khóa học, những gì mà bạn đã tư duy và đi đến kết luận thì vẫn rõ ràng trong đầu của bạn cho dù bạn đã học cách đây nhiều năm. Trong khi đó, những khái niệm mà bạn được người ta cung cấp đã mất đi.(Theo mô hình dạy học hành động học tập khám phá của Jerome Bruner). DHKP trong các công trình của Geoffrey Petty là có hai cách tiếp cận trong dạy học đó là: dạy học bằng cách giải thích và dạy học bằng cách đặt câu hỏi. Trong dạy học bằng cách giải thích, học sinh được giáo viên giảng giải kiến thức mới, học sinh phải sử dụng và ghi nhớ những kiến thức mới này. Còn với dạy học bằng cách đặt câu hỏi, giáo viên đặt câu hỏi hoặc giao bài tập yêu cầu học sinh phải tự tìm ra kiến thức mới – mặc dù vậy vẫn có sự hướng dẫn hoặc chuẩn bị đặc biệt. Kiến thức mới này được giáo viên chỉnh sửa và khẳng định lại. Khám phá có hướng dẫn là một ví dụ của cách tiếp cận này. Dạy học 11 theo hướng khám phá chỉ có thể được sử dụng nếu người học có khả năng rút ra được bài học mới từ kiến thức và kinh nghiệm có sẵn của mình. Tác giả lưu ý rằng, tìm thông tin trong sách không phải là cách học khám phá và nhấn mạnh: Các hoạt động khám phá thường được tiến hành theo nhóm. Chúng đòi hỏi phải có kĩ năng tư duy cao để tìm ra cái mới, và vì người học tự tìm tòi vấn đề cho nên việc học có chất lượng cao. Mỗi thành viên của nhóm có thể cung cấp một phần của “bộ xếp hình” về những hiểu biết đối với chủ đề đang nghiên cứu. Geoffrey Petty cũng đã đề cập đến những thế mạnh của phương pháp khám phá nếu áp dụng đúng, là: + Tích cực, khuyến khích được học sinh tham gia, có tính động viên cao và vui. Phần đặt câu hỏi làm tăng tính ham hiểu biết và hứng thú của học sinh đối với môn học. + Học sinh phải “tự tìm hiểu”, tức là phải nắm bắt vấn đề đang học. Kết quả là các em sẽ hiểu vấn đề, mối liên quan của nó tới bài học trước và các em nhớ bài lâu hơn. Phương pháp này khiến học sinh phải có tư duy tốt: Đánh giá, tư duy có suy xét, giải quyết vấn đề, phân tích, tổng hợp,… Ngược lại, lấy giáo viên làm trung tâm thường hướng học sinh tới những kĩ năng ít phải tư duy như ngồi nghe giảng và cố hiểu bài. + Với phương pháp này, học sinh được khuyến khích coi việc học là công việc của bản thân hơn là việc của các chuyên gia làm hộ các em. + Phương pháp này cho phép học sinh học mà vui, tự tìm ra câu trả lời cho mình, và một điều gây nhiều tranh luận là phương pháp này phát triển được động cơ (học tập) bên trong chứ không phải là bên ngoài. Tuy nhiên, tác giả cũng đã nêu một số hạn chế của phương pháp hoạt động khám phá là: Tốc độ chậm và không có cách nào áp dụng hoạt động này cho một số chủ đề, ví dụ: các chủ đề đơn giản dựa trên các sự kiện thực tế, hoặc các chủ đề hầu như không đòi hỏi học sinh phải khám phá gì cả. 12 DHPK theo các tài liệu của Trần Bá Hoành đó là theo giáo sư trước hết cần phải xây dựng được các bài toán có tình khám phá: là bài toán được cho bao gồm những câu hỏi, những bài toán thành phần để học sinh trong khi trả lời hoặc tìm cách giải các bài toán thành phần dần thể hiện cách giải bài toán ban đầu. Cách giải này thường là những quy tắc hoặc khái niệm mới. Cách xây dựng bài toán để học sinh khám phá: Để dạy trẻ sử dụng cách khám phá, cần viết lại các bài toán theo hướng thiết kế các bài toán thành phần, hướng dẫn cách ghi chép kết quả, đưa ra các câu hỏi dẫn dắt nhằm sau khi thực hiện các yêu cầu được đưa ra cho phép tìm tòi, khám phá nội dung mới. Các câu hỏi dẫn dắt phải đảm bảo giúp học sinh quan sát, tư duy để tìm ra câu trả lời. Việc tìm ra câu trả lời đi dần từ dễ đến khó, từ những điều bộc lộ, dễ thấy đến việc phát hiện những quy luật, khái niệm không tường minh, phải thông qua phân tích, khái quát hóa mới phát hiện ra được. Và cuối cùng theo Từ điển Long Man Dictionary of Langue Teaching and Applied Linguicts: DHKP (Discovery Learning) là phương pháp dạy và học dựa trên những quy luật sau: 1) Người học phát triển quá trình tư duy liên quan đến việc khám phá và tìm hiểu thông qua quá trình quan sát, phân loại, đánh giá, tiên đoán, mô tả và suy luận. 2) Giáo viên sử dung một phương pháp giảng dạy đặc trưng hỗ trợ qua trình khám phá và tìm hiểu. 3) Giáo trình giảng dạy không phải là nguồn duy nhất cho người học. 4) Kết luận được đưa ra với mục đích thảo luận chứ không phải là cuối cùng. 5) Người học phải lập kế hoạch, tiến hành và đánh giá quá trình học của mình với sự hỗ trợ một phần của giáo viên. Khám phá toán. Mô tả thuật ngữ KPT với vai trò là một nhiệm vụ học tập và một quy trình mà HS khám phá các bài toán cùng với việc phân biệt KPT với vấn đề, 13 hoạt động KPT với giải quyết vấn đề là cần thiết để hiểu rõ việc sử dụng của thuật ngữ này trong cộng đồng các nhà giáo dục. Xem xét việc tích hợp KPT vào chương trình toán ở một số nền giáo dục để thấy được sự ủng hộ của các nhà quản lí, nghiên cứu giáo dục và giáo viên với tiếp cận này. KPT là một tiếp cận dạy học, cung cấp cho GV môi trường để hiểu tư duy toán học của HS, thông qua hoạt động này giúp cho HS phát triển các tưởng toán học, mang đến cho HS cơ hội thấy được bản chất của toán học và việc xây dựng kiến thức của môn Toán. Thúc đẩy mog muốn học toán, tư duy toán học của HS. Từ dó, KPT đã trở thành một hoạt động thiết thực trong các lớp học toán, thịnh hành ở các trường học của Anh từ những năm 1980 và thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà giáo dục. Nhưng nhìn chung hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau về KPT là cung cấp cơ hội để HS tham gia vào quá trình đặt ra các vấn đề để HS tìm tòi, giải quyết các tình huống toán học phức tạp có thông qua các hoạt động như đặt câu hỏi, thử nghiệm, kiểm chứng, khái quát hóa và phản ánh. Khi tham gia vào quá trình KPT, HS bị cuốn hút vào các bài toán đòi hỏi các em phải đặt ra câu hỏi, thu thập dữ liệu và tiến hành nghiên cứu để tự khám phá ra những kiến thức mới cần lĩnh hội. Trong quá trình tổ chức hoạt động khám phá giáo viên từng bước cho học sinh tiếp cận bằng cách vận dụng những tình huống yêu cầu học sinh phải tự tìm tòi khám phá ra câu trả lời. Việc vận dụng các tình huống KPT trong dạy học được thực hiện theo tiến trình là GV hoặc HS đặt ra tình huống KPT, HS sẽ tiến hành quá trình khám phá, các em sẽ trình bày kết quả của hoạt động khám phá của mình, sau đó toàn lớp thảo luận và GV sẽ đưa ra những bổ sung, điều chỉnh khi cần thiết để hoàn thiện kiến thức toán học mà HS khám phá trong tiết học. Như vậy qua nghiên cứu những nội dung liên quan đến các hoạt động dạy học khám phá của các tác giả, chúng ta có thể đưa ra một số nhận định
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất