hương 1. Sự Phân hoá giàu nghèo - hiện tượng mang tính tất
yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường........................
1.1. Cơ sở lí luận của sự phân hoá giàu nghèo và mối quan hệ của
phân hoá giàu nghèo với một số khái niệm có liên quan.............
1.2. Những cơ sở phân loại giàu nghèo và những phương pháp tiếp
cận phân hoá giàu nghèo.............................................................
Chương 2. Sự phân hoá giàu nghèo trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay - Thực trạng,
nguyên nhân và hệ quả của nó.................................................
2.1. Thực trạng phân hoá giàu nghèo ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện
nay........
2.2. Những nguyên nhân dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo ở tỉnh
Vĩnh Phúc hiện nay......................................................................
2.3. Sự phân hoá giàu nghèo ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay - một số
vấn đề đặt ra và hệ quả của
nó............................................................
Chương 3. Một số giải pháp định hướng nhằm giảm nghèo và
giảm phân hoá giàu nghèo trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.......................................
3.1. Kinh nghiệm giảm nghèo và giảm phân hoá giàu nghèo của
một số nước và nước ta trong thời gian
qua........................................
3.2. Một số giải pháp nhằm giảm nghèo và giảm thiểu sự phân hoá
giàu nghèo ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay........................................
KẾT LUẬN................................................................... ....................
2
7
7
24
31
31
40
46
54
54
57
79
82
89
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
LÝ THỊ HUỆ
VẤN ĐỀ PHÂN HOÁ GIÀU NGHÈO Ở TỈNH
VĨNH PHÚC HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2009
®¹i häc quèc gia hµ néi
Trung t©m §µo t¹o, båi d-ìng Gi¶ng viªn Lý luËn ChÝnh trÞ
Lý thÞ huÖ
VÊN §Ò PH¢N HO¸ GIµU NGHÌO ë TØNH
VÜNH PHóC HIÖN NAY
Chuyªn ngµnh: TriÕt häc
M· sè:
60.22.80
luËn v¨n th¹c sü triÕt häc
Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS.TS TrÇn V¨n Phßng
Hµ Néi - 2009
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………........................ 2
Chương 1. Sự Phân hoá giàu nghèo - hiện tượng mang tính tất
yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường........................
7
1.1. Cơ sở lí luận của sự phân hoá giàu nghèo và mối quan hệ của
phân hoá giàu nghèo với một số khái niệm có liên quan............. 7
1.2. Những cơ sở phân loại giàu nghèo và những phương pháp tiếp
cận phân hoá giàu nghèo.............................................................
24
Chương 2. Sự phân hoá giàu nghèo trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay - Thực trạng, 31
nguyên nhân và hệ quả của nó.................................................
2.1. Thực trạng phân hoá giàu nghèo ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện
nay........
31
2.2. Những nguyên nhân dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo ở tỉnh 40
Vĩnh Phúc hiện nay......................................................................
2.3. Sự phân hoá giàu nghèo ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay - một số 46
vấn
đề
đặt
ra
và
hệ
quả
của
nó............................................................
54
Chương 3. Một số giải pháp định hướng nhằm giảm nghèo và
giảm phân hoá giàu nghèo trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay....................................... 54
3.1. Kinh nghiệm giảm nghèo và giảm phân hoá giàu nghèo của
một
số
nước
và
nước
ta
trong
thời
gian 57
qua........................................
3.2. Một số giải pháp nhằm giảm nghèo và giảm thiểu sự phân hoá 79
giàu nghèo ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay........................................ 82
KẾT LUẬN................................................................... .................... 89
1
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................
PHỤ LỤC...........................................................................................
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, sự phân hoá giàu nghèo là một hiện tượng mang tính toàn cầu,
nó diễn ra ở cả những nước giàu như Mỹ, Anh, Pháp và ở cả những nước
nghèo thuộc Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ Latinh. Khoảng cách quá xa
giữa người giàu và người nghèo là nguy cơ tiềm ẩn gây ra những mâu
thuẫn, những xung đột giữa các tầng lớp dân cư trong một quốc gia. Hơn
thế nữa, sự phân hoá giàu nghèo cũng đang bị những thế lực khác nhau trên
thế giới lợi dụng kích động, gây ra mâu thuẫn giữa các dân tộc.
Thực tiễn quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các nước trên thế
giới đã cho thấy, những quốc gia giải quyết tốt vấn đề nghèo đói và vấn đề
phân hoá giàu nghèo, đều có được sự ổn định và sự phát triển bền vững.
Ngược lại, quốc gia nào giải quyết không tốt vấn đề này sẽ tạo ra một xã
hội phát triển thiếu ổn định, mâu thuẫn xã hội diễn ra sâu sắc, tệ nạn xã hội
gia tăng (như ở một số nước thuộc khu vực Mỹ Latinh, Trung Quốc, Nêpal,
Ấn Độ, Hồng Kông...). Do vậy, giảm nghèo và giảm khoảng cách giàu nghèo
đang là một trong những mục tiêu quan trọng của chính phủ các nước trên
thế giới nói chung và của Đảng, Nhà nước ta nói riêng.
Ở nước ta, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản khởi xướng và lãnh đạo, đã
mang lại cho đất nước những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử: “Kinh tế ra
khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh.
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và
an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng
cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới
cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp” [24, tr.67]. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu rất đáng tự hào mà không ai có thể phủ nhận được
3
nói trên, thì nhiều vấn đề kinh tế xã hội bức xúc khác cũng nảy sinh, đòi
hỏi Đảng và Nhà nước và toàn xã hội ta cần bình tĩnh, sáng suốt xem xét
và giải quyết một cách thận trọng khoa học. Một trong những vấn đề
“nóng” nổi lên đó là sự gia tăng đói nghèo và phân hoá giàu nghèo trong dân
cư.
Tỉnh Vĩnh Phúc cũng không tránh khỏi xu hướng chung của sự phân
hoá đó. Được thành lập từ năm 1950, trên cơ sở sát nhập 2 tỉnh Vĩnh Yên
và Phúc Yên, năm 1968 sát nhập với tỉnh Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú, từ
ngày 01/01/1997 tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập. Sau hơn 10 năm tái lập tỉnh, tăng
trưởng bình quân của Vĩnh Phúc tăng 17,5%, thu hút trên 600 dự án với vốn đầu tư
lên tới gần 4 tỷ USD. Đến năm ngoái, cơ cấu công nghiệp, xây dựng ở Vĩnh Phúc
đã chiếm trên 61%; kim ngạch xuất khẩu đạt gần 350 triệu USD, tăng gấp 25 lần so
với thời điểm tái lập tỉnh năm 1997. Sau nửa nhiệm kỳ cụ thể hoá và thực hiện Nghị
quyết Đại hội X của Đảng, tỉnh Vĩnh Phúc cũng đã đạt nhiều kết quả quan trọng,
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu đều
đạt và vượt mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 14 đề ra, trong đó, GDP bình
quân tăng trên 20%; thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 22 triệu đồng/ một năm
(tương đương 1.300 USD). Tỷ lệ hộ nghèo trong tỉnh giảm còn 10%.
Bên cạnh những thành tựu lớn mà nền kinh tế thị trường đem lại cho tỉnh Vĩnh
Phúc, thì cũng đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề xã hội phức tạp. Cơ cấu xã hội kiểu
cũ ở cả nông thôn và thành thị Vĩnh Phúc bị phân giải, được tổ chức lại và được
chuyển hoá sang cơ cấu kiểu mới dựa trên mối quan hệ kinh tế mới - xã hội mới. Sự
phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội hình thành dần dần trên cơ sở tích tụ kinh
tế, tức tài sản, trí tuệ và ưu thế về quyền lực hay uy tín ngày càng rõ nét trong
những năm gần đây. Chính sự phân hoá giàu nghèo đó đã tác động trực tiếp đến
tổng thể mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc, hậu quả là tệ nạn xã
hội và tội phạm gia tăng, tính gắn kết cộng đồng bị phá vỡ, dẫn đến mất ổn định
chính trị, thậm chí về lâu dài còn dẫn đến nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, mất lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước ta. Là một người con của
4
quê hương Vĩnh Phúc anh hùng, tác giả rất mong muốn được đóng góp một số ý
kiến của mình, nhằm góp phần giảm nghèo và hạn chế những tác động tiêu cực của
sự phân hoá giàu nghèo ở tỉnh, để Vĩnh Phúc ngày càng phát triển bền vững như lời
căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi về thăm tỉnh năm 1963: “Phải làm cho Vĩnh
Phúc thành một trong những tỉnh giàu có, phồn vinh nhất ở miền Bắc nước ta” [60,
tr. 30]. Vì vậy tác giả chọn đề tài “Vấn đề phân hoá giàu nghèo ở tỉnh Vĩnh Phúc
hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phân hoá giàu nghèo đã và đang là vấn đề có tính chất toàn cầu. Tại Việt Nam
nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thì phân hoá giàu nghèo là một tất yếu. Đã có nhiều
nhà khoa học xem xét, nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân của sự phân hoá giàu
nghèo, cũng như đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế sự phân hoá đó trên các bình
diện khác nhau. Tiêu biểu đó là:
- Những công trình tiếp cận vấn đề phân hoá giàu nghèo như một nhân tố tạo
ra sự phân hoá giai cấp, biến động cơ cấu xã hội giai cấp, bao gồm: “Phân tầng xã
hội và phân hoá giàu nghèo trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế”, tác giả Nguyễn Đình Tấn, Tạp chí Xã hội học, (2/2007). “Sự phân
tầng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường - Những tác
động tiêu cực của cơ chế thị trường ở Việt Nam”, Trịnh Duy Luân (2000), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Đề cập đến vấn đề dưới góc độ xoá đói giảm nghèo trong chiến lược phát
triển nông thôn và nông thôn miền núi, có các công trình: “Nhận thức của Đảng ta
về vấn đề xoá đói giảm nghèo”, tác giả Nguyễn Đình Tấn (số 3/2005), Tạp chí Lịch
sử Đảng. “Xoá đói giảm nghèo - một cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh cho người
nghèo nước ta và thế giới”, Nguyễn Túc (số 19/2003), Tạp chí Cộng sản. “Nâng
cao khả năng tiếp cận và ứng dụng khoa học - công nghệ cho nông nghiệp, nông
thôn và nông dân”, tác giả Đường Vinh Sường (số 3/2004), Tạp chí Cộng sản. “Để
viện phí không là gánh nặng với người nghèo”, tác giả Trần Quang Minh (4/2004),
5
Tạp chí thanh tra tài chính. “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
ở Việt Nam: một số vấn đề đặt ra và hướng giải quyết”, tác giả Trần Đắc Hiến
(11/2007), Tạp chí Triết học.
-Tuy nhiên, mức độ phân hoá giàu nghèo như thế nào và cách thức xác định ra
sao ở Vĩnh Phúc chưa có một công trình nào nghiên cứu hoàn chỉnh về nó. Hiện tại,
chúng tôi tìm hiểu được những công trình liên quan đến vấn đề này là: “Phân hoá
giàu nghèo trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta - Thực trạng,
xu hướng, biến động và giải pháp”, tác giả Nguyễn Thị Mai Hồng, Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, bảo vệ năm 2000. “Vấn đề
phân hoá giàu nghèo ở tỉnh Yên Bái hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, tác giả
Hà Tùng Dương, Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên Lý luận chính trị - Đại
học Quốc gia Hà Nội, bảo vệ năm 2006. “Nghiên cứu điều tra về tình hình đời sống
kinh tế xã hội bộ phận còn nghèo đói vùng dân tộc miền núi trong tỉnh”, Đường
Văn Toán chủ biên (2004). “Sự phân hoá giàu nghèo ở nông thôn ngoại thành Hà
Nội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Những nguyên nhân, hậu quả và
giải pháp khắc phục tình trạng đó”, đề tài cấp bộ, mã số: CB.03.13. Chủ trì: TS.
Dương Văn Duyên, Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Đại học Quốc gia, Hà Nội, bảo vệ năm 2005.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đã góp phần làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn, phương pháp tiếp cận, nghiên cứu sự phân hoá giàu nghèo ở nước
ta trong thời gian qua. Đồng thời đã đưa ra một số giải pháp để nhằm hạn chế tình
trạng đó. Tuy nhiên, để phân tích rõ thực trạng, nguyên nhân và đưa ra một số giải
pháp nhằm hạn chế mặt tiêu cực của sự phân hoá giàu nghèo ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện
nay một cách có hệ thống vẫn là mảng trống cần tiếp tục nghiên cứu. Do đó đề tài
“Vấn đề phân hoá giàu nghèo ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cần nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
a. Mục đích
6
Làm rõ thực trạng và nguyên nhân dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo trong quá
trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay. Từ đó, luận
văn đề xuất một số giải pháp định hướng giảm nghèo và giảm thiểu sự phân hoá
giàu nghèo trên địa bàn tỉnh.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ
yếu sau đây :
- Làm rõ các khái niệm: giàu, nghèo, phân hoá giàu nghèo, mối quan hệ giữa
phân hoá giàu nghèo với một số khái niệm có liên quan. Đồng thời phân tích rõ tính
tất yếu khách quan của sự phân hoá giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và các phương pháp tiếp cận sự phân
hoá giàu nghèo.
- Làm rõ thực trạng và nguyên nhân của sự phân hoá giàu nghèo, trong quá
trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo và hạn
chế mặt tiêu cực của sự phân hoá giàu nghèo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
a. Đối tượng nghiên cứu
Sự phân hoá giàu nghèo trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh
Phúc hiện nay.
b. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả chỉ tập trung làm rõ thực trạng,
nguyên nhân của sự phân hoá giàu nghèo ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, biểu hiện cụ
thể trong mối tương quan về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội từ sau khi tái lập tỉnh
trong vòng 5 năm trở lại đây. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần xoá
đói giảm nghèo và hạn chế mặt tiêu cực của sự phân hoá giàu nghèo trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
7
a. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của luận văn
Cơ sở lý luận: Vận dụng các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tăng trưởng kinh tế, phát triển
kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, về xoá đói giảm nghèo. Đồng thời,
luận văn cũng tham khảo và kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các
tác giả đi trước về những vấn đề có liên quan.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là: thực trạng, nguyên nhân của sự phân hoá giàu
nghèo ở Vĩnh Phúc qua kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình trên địa bàn tỉnh, chủ
yếu từ năm 2002 đến năm 2008 của Tổng cục Thống kê.
b. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trong luận văn này tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân
tích và tổng hợp, lôgích và lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống
hoá, phương pháp khái quát hoá, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp
thống kê xã hội học...
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đã đánh giá tổng quan về thực trạng, nguyên nhân của sự phân hoá
giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong tỉnh Vĩnh Phúc. Từ đó, luận văn đã đưa
ra một số giải pháp nhằm định hướng giảm nghèo và giảm phân hoá giàu nghèo
giữa các tầng lớp dân cư trên địa bàn tỉnh.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
phục vụ giảng dạy của các giáo viên lý luận Mác - Lênin ở các trường cao đẳng, đại
học trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục
các tài liệu tham khảo, thì còn có nội dung chính của luận văn gồm 03 chương, 07
tiết.
8
Chương 1
SỰ PHÂN HOÁ GIÀU NGHÈO - HIỆN TƯỢNG MANG TÍNH TẤT
YẾU KHÁCH QUAN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Cơ sở lí luận của sự phân hoá giàu nghèo và mối quan hệ của phân hoá
giàu nghèo với một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm phân hóa giàu nghèo
Tiếp cận vấn đề phân hoá giàu nghèo thực chất là tiếp cận nội dung cơ bản của
vấn đề phân hóa giai cấp và phân tầng xã hội. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác
nhau, nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau về vấn đề thế nào là giàu? thế nào là
nghèo? thế nào là phân hoá giàu nghèo? Bàn đến vấn đề này cũng đã có nhiều công
trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm giàu, nghèo và phân hoá giàu nghèo ở các
góc độ khác nhau như: đạo đức học, xã hội học, kinh tế học...
Liên quan đến quan niệm về sự phân hoá giàu nghèo, có thể đưa ra một số
luận điểm sau đây:
Theo tác giả Đỗ Nguyên Phương thì “phân hoá giàu nghèo là trục trung tâm
của sự phân tầng xã hội” [71, tr.5].
Tác giả Phạm Văn Dũng lại cho rằng “sự phân hoá giàu nghèo là kết quả tất
yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế và đến lượt mình, sự phân hóa đó
lại trở thành nguyên nhân kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển kinh tế” [14,
tr.183].
Nhìn nhận sự phân hoá giàu nghèo ở một khía cạnh khác, tác giả Phạm Xuân
Hảo viết: “Phân hoá giàu nghèo là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân
chia xã hội thành các nhóm xã hội có điều kiện kinh tế khác biệt nhau. Phân hoá
giàu nghèo là phân tầng xã hội về mặt kinh tế, thể hiện trong xã hội có nhóm giàu tầng đỉnh, nhóm nghèo - tầng đáy. Giữa nhóm giàu và nhóm nghèo là khoảng cách
về thu nhập, mức sống” [32, tr.1].
Với các phương pháp tiếp cận khác nhau, đa số các quan niệm truyền thống
đều xem xét vấn đề giàu, vấn đề nghèo một cách tách biệt. Điều đó đúng nhưng
9
chưa đủ, chưa giải quyết một cách triệt để các khía cạnh quan hệ giàu và nghèo một
cách tuyệt đối về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội.
Vì thế, theo chúng tôi để nghiên cứu, nhận thức vấn đề giàu, nghèo và vấn đề
phân hoá giàu nghèo nói riêng, một cách đầy đủ, chuẩn xác đòi hỏi phải nghiên cứu
dưới nhiều góc độ, “lát cắt” khác nhau. Cơ sở đầu tiên đồng thời cũng là cơ sở quan
trọng nhất, quyết định nhất là chúng ta phải xuất phát từ các nguyên lí của chủ
nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là quan điểm về giai cấp, về phân hoá giai cấp. Kế thừa
quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về tăng trưởng kinh tế, phát
triển kinh tế, gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, về xoá đói giảm nghèo. Đồng
thời, vận dụng những hạt nhân hợp lí trong lí thuyết phân tầng của các nhà nghiên
cứu, các học giả đi trước như Max Weber, T. Parson, V. Pareto... Bên cạnh đó cũng
phải thấy rằng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ, của phân công lao động ngày càng chuyên môn hóa, sự phát triển của nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của
nhà nước, cùng với quá trình mở cửa, hội nhập của nền kinh tế, thì cơ cấu xã hội ở
nước ta ngày càng mang tính đa dạng và phức tạp.
Từ sự tổng hợp trên, theo ý kiến chúng tôi, có thể đưa ra một khái niệm khái
quát về phân hoá giàu nghèo như sau: Phân hoá giàu nghèo là một hiện tượng phân
chia xã hội thành các nhóm người có điều kiện kinh tế và chất lượng sống khác
nhau, là sự phân tầng xã hội chủ yếu về mặt kinh tế, thể hiện sự chênh lệch giữa các
nhóm này về tài sản, thu nhập, mức sống.
Khái niệm phân hoá giàu nghèo nêu trên, theo chúng tôi, là tương đối hợp lí
trong bối cảnh thực tiễn cũng như lí luận về sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta hiện
nay. Bởi lẽ nó tập trung phản ánh:
Thứ nhất, để nghiên cứu sự phân hoá giàu nghèo phải dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề phân hóa xã hội, phân hóa giai cấp, vì sự phân hoá
giàu nghèo cũng là một dạng của sự phân hóa xã hội, phân hoá giai cấp.
Thứ hai, sự phân hoá giàu nghèo là một sự phân tầng xem xét chủ yếu về mặt
kinh tế, được nhấn mạnh về mặt kinh tế, chỉ số kinh tế về mặt tài sản, thu nhập, tiêu
10
chí giàu nghèo, chứ không phải sự phân hoá giàu nghèo chỉ xem xét về mặt kinh tế,
ngoài ra không xét đến các yếu tố khác. Trên thực tế, các yếu tố văn hóa, chính trị,
có quan hệ hữu cơ, phụ thuộc, thâm nhập vào nhau. Bởi vậy, xem xét toàn diện
chúng ta mới phát hiện được tính quy luật của hiện tượng phân hoá giàu nghèo và
cũng chỉ xem xét từ tầm nhìn như vậy mới đề xuất được các giải pháp hữu hiệu cho
hiện tượng này. Điều đó có nghĩa là phân hoá giàu nghèo cũng là một dạng của
phân tầng xã hội, do đó lí thuyết phân tầng xã hội phải được vận dụng một cách hợp
lí trên cơ sở quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh
cụ thể của Việt Nam nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
Thứ ba, cách tiếp cận phân hoá giàu nghèo trên, giúp chúng ta khắc phục các
quan điểm phiến diện xem xét một cách tách rời giữa vấn đề giàu và vấn đề nghèo.
Đồng thời, cách tiếp cận đó còn giúp chúng ta xem xét, nghiên cứu đưa ra những
giải pháp, để sao cho phân hoá giàu nghèo được kiểm soát và có giá trị tích cực đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước ta nói chung và của tỉnh Vĩnh Phúc nói
riêng, tức là giữ cho sự phân hoá giàu nghèo trong giới hạn “độ” cho phép, để có
thể là động lực kích thích mọi đối tượng vươn lên làm giàu chính đáng, để sao cho
người nghèo không thấy bị quá nghèo, cũng như để cho thấy sự cần thiết phải có sự
điều chỉnh, kiểm soát vấn đề phân hoá giàu nghèo từ phía Nhà nước xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta.
Như vậy, phân hoá giàu nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính
khách quan, tồn tại như một tất yếu. Nhưng ở Việt Nam nói chung và tỉnh Vĩnh
Phúc nói riêng, sự phân hoá này đang ở giai đoạn đầu, nó sẽ còn tiếp tục diễn biến
phức tạp. Trên cơ sở khái niệm phân hoá giàu nghèo đã phân tích, chúng ta sẽ vận
dụng vào việc nghiên cứu vấn đề này trong thực tiễn.
1.1.2. Mối quan hệ giữa phân hoá giàu nghèo với một số khái niệm có liên quan
Mối quan hệ giữa phân hoá giàu nghèo với khái niệm “phân cực xã hội” và
“phân hoá xã hội”.
Phân hoá giàu nghèo có liên quan chặt chẽ với “phân cực xã hội”. Sự phân cực
xã hội cũng là sự phân hóa xã hội chủ yếu theo tiêu chí giàu nghèo. Nhưng khái
11
niệm phân cực xã hội, khác với khái niệm phân hoá giàu nghèo ở chỗ, nó là khái
niệm dùng để chỉ “quá trình xã hội, dẫn tới chỗ các cá nhân và các nhóm xã hội, hội
tụ ở cực này hay cực kia trong hoàn cảnh xung đột xã hội ngấm ngầm hay công
khai...
Phân cực xã hội đạt đỉnh cao trong những hoàn cảnh cách mạng xã hội: các cá
nhân và các nhóm xã hội phải lựa chọn chỗ đứng của mình hoặc ủng hộ cách mạng,
hoặc chống lại cách mạng” [94, tr. 214].
Phân hoá giàu nghèo cũng có liên quan chặt chẽ với “phân hoá xã hội”. Sự
phân hóa xã hội là khái niệm dùng để chỉ “một xã hội hay một nhóm xã hội từ trạng
thái thuần nhất dần dần chia thành những tầng lớp khác nhau, trái ngược nhau về
mục tiêu, lợi ích…
Phân hóa xã hội mang tính tích cực khi nó thúc đẩy xã hội phát triển, nhưng
nó cũng thường kèm theo những căng thẳng xã hội” [94, tr.215-216]. Theo chúng
tôi, sự phân hoá giàu nghèo là khái niệm chỉ sự phân hóa xã hội phản ánh quá trình
phân hoá giàu nghèo, nhưng chưa đạt đến “điểm nút” đẩy tới phân cực xã hội, nếu
để “vượt qua điểm nút” là nguyên nhân tiềm tàng gây mất ổn định xã hội.
Mối quan hệ giữa phân hoá giàu nghèo với khái niệm “phân tầng xã hội”
Phân tầng xã hội là một chủ đề quan trọng trong các lý thuyết xã hội. Đã có rất
nhiều nhà lý thuyết xã hội với những cách tiếp cận khác nhau để đưa ra những quan
niệm khác nhau để giải thích vấn đề này.
Sự phân tầng xã hội, theo C.Mác là sự phân chia giản đơn những người lao
động thành những người lao động thành thạo và những người lao động không thành
thạo, và là sự phát triển một thang bậc sức lao động với một thang tiền công phù
hợp với nó. Ông cũng cho rằng, sự tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, kéo theo đó là sự phân phối bất bình đẳng về của cải vật chất, về sản phẩm lao
động trong xã hội, là nét chung, phổ biến của mọi xã hội có giai cấp, là yếu tố
thường xuyên, liên tục, trực tiếp dẫn đến phân tầng xã hội, phân hoá xã hội. Kết cục
của nó là sự hình thành các mô hình đối kháng giai cấp chủ yếu trong xã hội - giai
cấp, người giàu thống trị, bóc lột và giai cấp người nghèo, bị trị, bị bóc lột.
12
Đồng thời, theo C.Mác, mối quan hệ quyền lực chủ yếu được xây dựng trên cơ
sở của cơ cấu xã hội mà nét chính là sự tồn tại của những giai cấp đối lập. Cơ cấu
quyền lực trong các xã hội có đối kháng giai cấp bị quy định bởi cơ cấu giai cấp, cơ
cấu kinh tế, mà trung tâm của nó là các quan hệ sở hữu. Ông cũng cho rằng, sự phát
triển của sản xuất, chế độ sở hữu sẽ dẫn đến những mâu thuẫn trong kết cấu kinh tế:
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ ngày càng được xã hội hóa với sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa. Biểu hiện về mặt xã hội của nó là sự bất bình đẳng về địa vị
xã hội và quyền lực. Giai cấp thống trị nắm được tư liệu sản xuất, sẽ nắm luôn
quyền lực tổ chức sản xuất, phân phối sản phẩm và thống trị các giai cấp khác về
mặt chính trị và tinh thần, vì vậy cơ cấu xã hội chủ yếu được xem xét theo một “trục
đứng” tức là quyền lực chính trị phụ thuộc trực tiếp vào quyền lực kinh tế. Giai cấp
nào nắm vị trí chủ đạo trong kinh tế thì giai cấp đó sẽ nắm được quyền lực chính trị
và có khả năng chi phối các giai cấp khác về mặt tư tưởng, tinh thần. C.Mác cũng
đồng thời khẳng định “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định của sản xuất” [57, tr.662].
Trên cơ sở đó, C.Mác cũng chỉ ra rằng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, quyền sở
hữu tư nhân về tài sản nói chung về tư liệu sản xuất xã hội nói riêng được coi là
quyền bất khả xâm phạm. Giai cấp tư sản thống trị luôn tìm mọi cách để hợp pháp
hóa, thể chế hóa quyền sở hữu này thành các quy tắc, văn bản pháp luật nhằm duy
trì, bảo vệ và kế thừa cấu trúc bất bình đẳng về mặt kinh tế, chính trị và địa vị xã hội
có lợi hơn cho mình. Tuy nhiên, theo C.Mác, do mâu thuẫn nội tại trong lòng xã hội
tư bản là có tính chất đối kháng và không thể dung hòa được, bởi vậy nó luôn chứa
đựng tiềm tàng cuộc đấu tranh chống đối của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản
nhằm tạo ra sự biến đổi cách mạng và tiến bộ xã hội. Ông cho rằng, khi cuộc cách
mạng cộng sản chủ nghĩa đã giành được thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới, xã hội
sẽ được xây dựng thành một liên hiệp của những người sản xuất tự do. Trong xã hội
này sẽ không còn nhà nước, không còn nền chuyên chính và sự tồn tại của các giai
cấp, sẽ không còn cấu trúc bất bình đẳng xã hội, sự thống trị xã hội và áp bức xã
13
hội. Ở đây con người được phát triển toàn diện, có cuộc sống hài hòa, phong phú,
lao động tự do, sáng tạo, làm chủ được tự nhiên và vận mệnh của mình.
Như vậy, theo C.Mác nhà nước, giai cấp, sự đối kháng giai cấp, bất bình đẳng
giai cấp - nét cốt yếu nhất của cấu trúc bất bình đẳng xã hội chỉ là một phạm trù lịch
sử. Nó sẽ mất đi, khi xã hội cộng sản chủ nghĩa xây dựng thành công trên phạm vi
toàn thế giới. Đây chính là điểm riêng, độc đáo của học thuyết C.Mác về xã hội nói
chung, cũng như sự kiến giải của ông về phân tầng xã hội nói riêng, động lực đầu
tiên của mọi sự thay đổi trong xã hội.
Song, để thực hiện được điều đó Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Sự xóa bỏ giai
cấp xã hội giả định phải có một trình độ phát triển của lịch sử trong đó sự tồn tại
không chỉ của một giai cấp thống trị nhất định này hay một giai cấp thống trị khác,
mà là của một giai cấp thống trị nói chung, do đó ngay cả sự phân chia giai cấp,
cũng đều trở thành một việc không hợp thời đại, trở thành lỗi thời” [53, tr.391].
Quan niệm về phân tầng xã hội còn được nhà xã hội học Max Weber phân tích
rất cụ thể. Max Weber đưa ra nguyên tắc nghiên cứu “ba chiều” về phân tầng xã
hội. V.I.Lênin viết: “Ông đã tách một luận điểm về giai cấp thành ba phần riêng
biệt, song có quan hệ mật thiết qua lại với nhau. Đó là địa vị kinh tế hay tài sản, địa
vị chính trị hay quyền lực, địa vị xã hội hay uy tín” [44, tr.232].
Max Weber không thừa nhận quan niệm cho rằng chỉ có quan hệ kinh tế mới
là yếu tố duy nhất giải thích cấu trúc xã hội và là động lực đầu tiên của mọi thay đổi
trong xã hội. Ông cho rằng, những tư tưởng tôn giáo có ảnh hưởng độc lập về mặt
lịch sử, nó là lực lượng kiểm soát cốt yếu của những thay đổi xã hội. Max Weber
nhấn mạnh quyền lực kinh tế có thể là kết quả từ sự sở hữu quyền lực trên các nền
tảng khác. Địa vị xã hội hay uy tín có thể xuất phát từ quyền lực kinh tế, nhưng đây
không phải là trường hợp tất yếu. Ông cho rằng, đây là một vấn đề cần thiết cho sự
phân tích lịch sử và xã hội để phát hiện ra cơ sở thực sự của sự bất bình đẳng trong
bất cứ xã hội nào. Ông dẫn ra trường hợp kinh doanh mới giàu lên, song chưa có
được sự giáo dục và văn hóa cần thiết để nắm được những địa vị cao. Tương tự như
vậy, địa vị cao trong kinh tế có thể được tạo nên trên cơ sở của quyền lực chính trị.
14
Ông quan niệm: phân tầng xã hội là một cách thức mà trong đó sự phân phối quyền
lực trong xã hội được thể chế hoá. Do đó, cũng giống như C.Mác, Max Weber nhìn
nhận giai cấp như là có gốc rế trong các quan hệ sản xuất, và sự phân chia chủ chốt
là sự phân chia giữa những người có sở hữu và những người không có sở hữu.
Song, Max Weber nhấn mạnh, phải nhận ra hai loại nhóm có thể hình thành trong
cuộc cạnh tranh giành quyền lực cộng thêm vào các giai cấp. Như chúng ta đã thấy,
nhóm quan trọng nhất là nhóm có địa vị xã hội – nhóm được xác định bởi uy tín chứ
không phải bởi sở hữu: một nhóm người họ coi nhau như những người bình đẳng,
và những nhóm khác lại nhìn họ như cấp trên hoặc là như cấp dưới. Song cơ sở của
sự nhìn nhận lẫn nhau của họ không phải là vị trí của họ trong sản xuất mà là mô
hình tiêu dùng của họ mà ông gọi là lối sống.
Với Max Weber, mỗi xã hội về mặt lịch sử, đều độc nhất và phức tạp. Để giải
thích sự bất bình đẳng trong xã hội, ông đã đưa ra một loạt những phạm trù như: địa
vị, vai trò, uy tín, quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế, khả năng thị trường, cơ
may... Những phạm trù này có thể được sử dụng trong bất cứ xã hội nào.
Phân tích sự bất bình đẳng trong xã hội tư bản, Max Weber cho rằng nguyên
nhân đầu tiên của hiện tượng này là khả năng thị trường. Ông quan niệm, khả năng
thị trường của cá nhân có thể đem ra thị trường lao động với tư cách một người làm
công. Một khi mà mỗi người với những kỹ năng khác nhau, chủ yếu là do kết quả
của sự khác nhau về cơ hội giữa các giai cấp để có kỹ năng đó, thì sự khác nhau
trong thưởng công và lợi thế là đương nhiên. Điều cơ bản là ở chỗ, sự thưởng công
này có đem lại cơ may trong cuộc sống của mỗi cá nhân hay không. Nói cách khác,
sự bất bình đẳng về thưởng công có những bất bình đẳng đi kèm theo và sản sinh ra
những bất bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống như: điều kiện làm việc, sức
khoẻ, nhà ở, giáo dục, sự hưởng thụ văn hoá, tinh thần, tuổi thọ... Trong cuộc sống
có rất nhiều trường hợp như trên, nó diễn ra rất đa dạng, phức tạp, ở những mức độ
khác nhau. Cuộc sống của mỗi cá nhân có những bước ngoặt lớn đôi khi chỉ là kết
quả của một cơ may nào đó. Chính vì vậy, khi phân tích những yếu tố của sự phân
tầng xã hội, Max Weber luôn đề cập đến yếu tố cơ may trong cuộc sống.
15
Trong tác phẩm của mình, khi viết về vấn đề phân tầng xã hội, Max Weber
cho rằng quyền lực là cơ may của một người, hoặc của một số người, thực hiện ý
chí của họ trong một hành động chung, quyền lực do kinh tế quyết định.
Như vậy, qua sự phân tích trên ta thấy, cả C.Mác và Max Weber đều giống
nhau là ở chỗ, các ông đánh giá những nét kinh tế chủ yếu của hệ thống phân tầng
xã hội trong chủ nghĩa tư bản, là quyền sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất và những thị trường cho hàng hóa và lao dộng. Song, sự khác biệt cốt yếu
giữa C.Mác và Max Weber là ở chỗ: C.Mác hướng trọng tâm vào con đường xóa bỏ
sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Còn Max Weber lại hướng
trọng tâm vào yếu tố thị trường và cho rằng nguyên nhân đầu tiên của sự bất bình
đẳng trong chủ nghĩa tư bản là khả năng thị trường, tức là những kỹ năng mà người
làm thuê mang ra thị trường lao động để bán và người chủ sẽ là người mua. Max
Weber cũng nói đến cơ may đời sống tức là những lợi thế mà người ta có thể có
được do thị trường mang lại. Những cơ may này bao gồm thu nhập, phụ cấp, bảo
hiểm và có thể thấy được ở các giai cấp khác nhau cũng như ở chính trong nội bộ
của mỗi cấp.
Tóm lại, phân tầng xã hội bộc lộ trên nhiều phương diện song rõ nét nhất,
được nhiều người quan tâm nhất đó là sự phân tầng về mặt kinh tế - tài sản, thu
nhập mà biểu hiện về mặt xã hội của nó là vấn đề phân hoá giàu nghèo. Phân hoá
giàu nghèo là một hiện tượng mang tính quy luật, gắn bó một cách mật thiết với
phân tầng xã hội, đồng thời là một thành tố cấu thành của phân tầng xã hội. Trong
ba đặc trưng của phân tầng xã hội bao gồm sự khác biệt về địa vị kinh tế (hay tài
sản), địa vị chính trị (hay quyền lực), địa vị xã hội (hay uy tín), thì phân hoá giàu
nghèo là biểu hiện về mặt xã hội của sự khác biệt về mặt kinh tế (vấn đề giàu hay
nghèo, nhiều tài sản hay ít tài sản)… Tuy nhiên, theo nghĩa rộng hơn phân hoá giàu
nghèo không chỉ bó hẹp ở sự xem xét thuần tuý về mặt kinh tế, tài sản, thu nhập cao
hay thấp… Mà nó còn xem xét đến những khía cạnh khác trực tiếp hay gián tiếp
liên quan đến yếu tố kinh tế như trình độ học vấn, loại nghề nghiệp, tình trạng sức
khỏe, mức tiêu dùng văn hoá. Hơn thế, khi nói đến phân tầng xã hội, chúng ta
16
không chỉ đề cập đến hai nhóm xã hội giàu hay nghèo, mà xem xét một cách cấu
trúc thang bậc nhiều tầng xã hội hơn… Nó xem xét cả trạng thái “tĩnh” và trạng thái
“động” của cấu trúc xã hội, cả ở những động thái và phương thức tạo ra sự biến đổi
cấu trúc xã hội, cũng như trong nội bộ từng tầng, từng nhóm xã hội. Trong khi đó,
khi nói tới phân hoá giàu nghèo chúng ta chủ yếu xem xét đến trạng thái “động”,
trạng thái đang biến đổi của cấu trúc xã hội, mà thường là lúc đầu các thành viên
trong xã hội đó có thể tương đối ngang nhau, đồng đều nhau song dần dần sẽ trở
nên khác biệt nhau về kinh tế, tài sản, thu nhập, mức sống. Phân tầng xã hội và phân
hoá giàu nghèo là hai hiện tượng vừa có điểm chung, vừa có sự khác biệt tương đối
với nhau. Bởi vậy, trong chiến lược toàn diện về tăng trưởng kinh tế và xoá đói
giảm nghèo cần phải có những chương trình, giải pháp đồng bộ.
Mối quan hệ giữa phân hoá giàu nghèo với khái niệm “Bất bình đẳng xã hội”.
Vấn đề bất bình đẳng xã hội có liên quan chặt chẽ tới sự phân hoá giàu nghèo.
Điều này thể hiện: Thứ nhất, khi tăng trưởng kinh tế đi cùng với bất bình đẳng sẽ
khiến cho nghèo đói giảm chậm. Thứ hai, khi bất bình đẳng tăng lên, sự gắn kết xã
hội giảm đi, người nghèo thấy bị tụt hậu, xa lánh… Hố sâu ngăn cách giữa người
giàu và người nghèo ngày càng gia tăng.
Song, để hiểu rõ mối quan hệ giữa phân hoá giàu nghèo với khái niệm “Bất
bình đẳng xã hội”, cần phải thông qua sự phân tích khái niệm đối lập với nó là công
bằng xã hội. Trong triết học phương Tây, người đầu tiên đề cập đến khái niệm công
bằng là Platôn. Trong tác phẩm “Nền cộng hoà”, ông đã coi công bằng là căn cứ để
xây dựng nhà nước lý tưởng. Nhà triết học Mỹ - Giôn Rols trong tác phẩm “Lý
thuyết về công bằng”, đã đưa ra sự khái quát mới về khái niệm công bằng xã hội,
coi công lý như là công bằng. Ông cho rằng, những bất công về kinh tế và xã hội
phải được tổ chức sao cho mọi người có thể chấp nhận được và bản thân chúng
cũng phải được xem xét trên cơ sở tính đến vị trí và chức năng của mỗi người. Với
quan niệm này, ông đã đưa ra nguyên tắc “tối đa hóa cái tối thiểu” cho những người
bị thiệt thòi, yếu thế trong xã hội và xem đó như lý tưởng của xã hội công bằng; con
đường tiến lên xã hội công bằng đó là bằng đạo đức. Triết gia I.Kant lại cho rằng để
17
loại bỏ được tính đối kháng sinh ra từ những mâu thuẫn bất công trong xã hội, con
người cần phải thiết lập một xã hội công dân pháp quyền phổ biến trong đó các
thành viên có thể dành được tự do trên cơ sở phải tôn trọng quyền tự do của người
khác. Như vậy, nhìn chung các triết gia đều thừa nhận sự khác biệt, bất bình đẳng
về giai cấp và chưa lí giải được nguồn gốc sâu xa của những bất công xã hội ấy.
Các nhà kinh điển Mác - Lênin đã đặt nền móng cho quan niệm duy vật lịch sử
về công bằng xã hội. Trong “Bản thảo kinh tế - triết học 1844”, C.Mác viết: “Lao
động [của người công nhân] sản xuất ra những vật phẩm kỳ diệu cho những người
giàu, nhưng chính nó lại sản xuất ra bần cùng hoá của công nhân. Nó tạo ra lâu đài,
nhưng cũng tạo ra cả những nhà ổ chuột cho công nhân. Nó sáng tạo ra cái đẹp,
nhưng cũng làm què quặt công nhân. Nó thay lao động thủ công bằng máy móc,
nhưng nó lại ném một bộ phận công nhân trở về với lao động dã man và biến một
bộ phận công nhân khác thành những cái máy. Nó sản xuất ra trí tuệ, nhưng cũng
sản xuất cả sự đần độn, ngu ngốc cho công nhân” [58, tr.131].
Đến tập I của bộ Tư bản đồ sộ (1867), C.Mác lại chứng minh rằng: Trong xã
hội tư bản - một xã hội dựa trên quyền chiếm hữu của chủ tư bản đối với giá trị
thặng dư trong sản phẩm lao động của người làm thuê, thì “sự tích luỹ của cải ở một
cực này đồng thời cũng có nghĩa là tích lũy sự nghèo khổ, sự dốt nát và sự trụy lạc
tinh thần ở cực đối lập” [54, tr.909]. Nhưng theo C.Mác, tình trạng bất công xã hội
ấy không phải là vĩnh viễn. Để xoá bỏ được những bất bình đẳng trên, chúng ta phải
thực hiện công bằng xã hội, phải thực hiện nguyên tắc “Phân phối theo lao động”.
Đặc biệt trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta”, được viết vào giữa năm
1875, khi bàn về vấn đề phân phối ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa,
C.Mác chỉ ra rằng: “Vậy một khi đã khấu trừ các khoản đi rồi, mỗi người sản xuất
nhận trở lại vừa đúng cái mà anh ta đã cung cấp cho xã hội. Cái mà anh ta đã cống
hiến cho xã hội là lực lượng lao động của cá nhân anh ta” [56, tr.33], đồng thời
C.Mác cũng chỉ rõ “Nhưng đối với việc phân phối những vật phẩm ấy giữa từng
người sản xuất thì thống trị ở đây, cũng vẫn là cái nguyên tắc trong việc trao đổi
những hàng hoá - vật ngang giá: một số lượng lao động dưới một hình thức này
18
- Xem thêm -