CHƯƠNG I :
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC HOÀN THIỆN
CHUỖI CUNG ỨNG TRÀ BẢO LỘC
1. Khái niệm và vai trò chuỗi cung ứng
1.1.
Khái niệm:
“Chuỗi cung ứng là sự liên kết với các công ty nhằm đưa sản phẩm
hay dịch vụ vào thị trường” – “Fundaments of Logistics Management” của
Lambert, Stock và Elleam (1998, Boston MA: Irwin/McGraw-Hill, c.14)
“Chuỗi cung ứng bao gồm mọi công đoạn có liên quan, trực tiếp hay
gián tiếp, đến việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng không
chỉ gồm nhà sản xuất và nhà cung cấp, mà còn nhà vận chuyển, kho,
người bán lẻ và bản thân khách hàng” – “Supplychain management:
strategy, planing and operation” của Chopra Sunil và Pter Meindl, (2001,
Upper Saddle Riverm NI: Prentice Hall c.1)
“Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn sản xuất và phân
phối nhằm thực hiện các chức năng thu mua nguyên liệu, chuyển đổi
nguyên liệu thành bán thành phẩm và thành phẩm, và phân phối chúng
cho khách hàng” – “An introduction to supply chain management”
Ganesham, Ran and Terry P.Harrison, 1995.
5 TÁC NHÂN THÚC ĐẨY CHUỖI CUNG ỨNG
1
1.2.
Hoạt động của chuỗi cung ứng:
Mục tiêu của quản lý chuỗi cung ứng là “tăng thông lượng đầu vào
và giảm đồng thời hàng tồn kho và chi phí vận hành”. Theo định nghĩa
này, thông lượng chính là tốc độ mà hệ thống tạo ra doanh thu từ việc bán
cho khách hàng – khách hàng cuối cùng. Tùy thuộc vào thị trường đang
được phục vụ, doanh thu hay lượng hàng bán ra có nhiều lý do khác nhau.
Trong một vài thị trường, khách hàng sẽ chi trả cho mức độ phục vụ cao
hơn. Ở một số thị trường, khách hàng đơn giản tìm kiếm các mặt hàng có
giá thấp nhất.
Như chúng ta biết, có 5 lĩnh vực mà các công ty có thể quyết định
nhằm xác định năng lực của chuỗi cung ứng: sản xuất, tồn kho, địa điểm,
vận tải và thông tin. Các lĩnh vực này là tác nhân thúc đẩy hiệu quả chuỗi
cung ứng của công ty.
1.3.
Những đối tượng tham gia chuỗi cung ứng :
Với hình thức đơn giản nhất, một chuỗi cung ứng bao gồm công ty,
các nhà cung cấp và khách hàng của công ty đó. Đây là tập hợp những
2
đối tượng tham gia cơ bản để tạo ra một chuỗi cung ứng cơ bản. Những
chuỗi cung ứng mở rộng có ba loại đối tượng tham gia truyền thống:
Loại thứ nhất là nhà cung cấp của các nhà cung cấp hay nhà cung
cấp cuối cùng ở vị trí bắt đầu của chuỗi cung ứng mở rộng.
Loại thứ hai là khách hàng của các khách hàng hay khách hàng cuối
cùng ở vị trí kết thúc của chuỗi cung ứng.
Loại thứ ba là tổng thể các công ty cung cấp dịch vụ cho những
công ty khác trong chuỗi cung ứng. Đây là các công ty cung cấp dịch vụ
về hậu cần, tài chính, tiếp thị và công nghệ thông tin.
Trong chuỗi cung ứng cũng có sự kết hợp của một số công ty thực
hiện những chức năng khác nhau. Những công ty đó là nhà sản xuất, nhà
phân phối, nhà bán sỉ, nhà bán lẻ và khách hàng cá nhân hay khách hàng
là tổ chức. Những công ty thứ cấp này sẽ có nhiều công ty khác nhau
cung cấp hàng loạt những dịch vụ cần thiết.
1.4.
Vai trò của chuỗi cung ứng :
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, trong giai đoạn hội nhập,
vai trò của chuỗi cung ứng rất quan trọng. Nhắc đến việc chuỗi cung ứng
quyết định sự thành công của thương hiệu, không thể không đề cập hai
thương hiệu nổi tiếng là Wal-Mart và Kmart. Năm 1962, khi Wal-Mart ra
đời, lúc đó Kmart đã có 63 cửa hàng. Đến năm 2002, Kmart phá sản, WalMart trở thành nhà bán lẻ lớn nhất thế giới. Nói về sự thất bại của Kmart,
Tổng Giám đốc Chuck Conaway phải thừa nhận: “Tôi cho rằng chính chuỗi
cung ứng là gót chân Archilles của Kmart”.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Minh, Tổng Giám đốc Công ty CP Đầu tư và
Phát triển hệ thống phân phối VN – VDA, cũng cho rằng: Nếu quản trị
chuỗi cung ứng tốt, chi phí thấp sẽ dẫn đến giá sản phẩm thấp, tạo thế
mạnh cạnh tranh. Nếu như chi phí cung ứng của Mỹ năm 2005 là 1.183 tỉ
USD (chiếm 9,5% GDP), tại Nhật là 11% GDP, Trung Quốc là 21,6% GDP
thì theo thống kê chưa chính thức tại VN, chi phí cung ứng dao động từ
khoảng 19% - 25% GDP. chính vì vậy giá sản phẩm đến tay người tiêu
dùng còn rất cao. Các công ty áp dụng một chuỗi cung ứng hoàn thiện có
3
lợi nhuận cao hơn 12 lần so với các công ty có chuỗi cung ứng không hoàn
thiện.
2. Kinh nghiệm xây dựng chuỗi cung ứng
Trà xuất hiện lần đầu tiên ở Kenya vào năm 1903 nhờ vào một người
Châu Âu, GWL Caine. Chính phủ thuộc địa của Anh tại đây bắt đầu xuất
khẩu trà từ Kenya về Luân Đôn vào năm 1933. Năm 1963, sau khi người
dân Kenya giành được độc lập, việc trồng trà được thực hiện bởi các nông
dân Châu Phi, những người đã mua lại đất từ người nhập cư Anh, cả dưới
quy mô lớn và nhỏ. Sản lượng trồng và sản xúât trà đã tăng lên nhanh
chóng từ sau 1963, điển hình, quy mô sản xuất trà tăng từ 18000 tấn vào
năm 1963 lên đến 314198 tấn vào năm 2009 (Tea Board of Kenya). Ngành
trà đóng góp trực tíêp và gián tiếp vào việc tạo ra hơn 3 triệu công việc,
đáp ứng nhu cầu của gần 10% dân số Kenya (Sustainability Issue in the
tea sector). Bên cạnh đó, trà cũng là một trong những mặt hàng xuất
khẩu dẫn đầu của Kenya. Năm 2009, sản lượng trà đạt 314198 tấn, tuy có
giảm 9% so với năm 2008, nhưng sự giảm sản lượng sản xuất này chủ yếu
là do điều kiện thời tíêt không thuận lợi, khô hạn kéo dài suốt quý 1 và
mưa rất ít vào quý 2. Hiên tại, Kenya là quốc gia sản xuất trà lớn thứ 3
trên tòan cầu, chiếm hơn 20% sản luợng trà thế giới, sau Trung Quốc và
Ấn Độ, đồng thời là quốc gia xuất khẩu trà lớn thứ hai sau Sri Lanka.
BẢNG I.2.1: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT TRÀ CỦA KENYA
Năm
Trang
trại
Diện tích (ha)
Sản lượng (tấn)
Công suất
(tấn/ha)
Diện tích (ha)
Nông
Sản lượng (tấn)
dân
Công suất (tấn/
ha)
Diện tích (ha)
2005
2006
2007
2008
2009
48600
51300
51011
50605
51126
130800
119401
139992
134963
141593
2.7
2.3
3.1
2.8
2.9
92700
95780
191177
98185
107115
107268
210854
172605
197700
229614
2.1
2
2.6
2.4
1.9
141300
147080
149196
157720
158394
4
Tổng
Sản lượng (tấn)
cộng
Giá đấu giá trà đen ($/
100kg)
Tiêu dùng (tấn)
Xuất khẩu (tấn)
Giá trị xuất khẩu (triệu
Kshs)
328500
310578
369606
345817
314198
157
203
176
233
272
16549
14025
17387
18102
349738
17643
313720
345877
383444
342482
42862.9
47297.4
43146.4
62199.6
69603.2
Nguồn: tea board of Kenya
Những người nông dân trồng trà tiếp tục giữ vai trò quan trọng. Theo
số liệu thống kê giai đoạn 2005-2009 của Tea Board Of Kenya, họ đóng
góp hơn 60% tổng sản lượng trà cả nước. Năm 2009, con số này giảm còn
55%, tuy vậy, vai trò của những người nông dân trong chuỗi cung ứng trà
của Kenya vẫn rất quan trọng. Tuy nhiên, chính đặc điểm này cũng đã gây
ra một số khó khăn nhất định cho ngành trà ở Kenya, điển hình là những
khó khăn trong việc theo dõi, truy nguyên nguồn gốc và việc đảm bảo
lượng trà sản xuất đáp ứng được các tiêu chuẩn.
Bên cạnh đó, tình hình xuất khẩu trà của Kenya tuy rất khả quan
nhưng bên trong vẫn tồn tại những nguy cơ nhất định.
5
Nguồn: tea board of Kenya
6
Nguồn: tea board of Kenya
Theo bản thống kê và biểu đồ trên, Ai Cập năm thứ 2 liên tiếp là
quốc gia nhập khẩu nhiều nhất sản lượng trà từ Kenya, với lương nhập
khẩu 75391513 ký, tương đương 22% tổng sản lượng xuất khẩu. Một số
thi trường xuất khẩu chủ yếu của Kenya còn có Vương quốc Anh, Pakistan,
Afghanistan và Sudan. 5 thị trường này nhập khẩu 73% tổng sản lượng
xúât khẩu của Kenya. Do vậy, Kenya phụ thuộc lớn và 5 thị trường chính
này. Một khi các thị trường này gặp vấn đề, ngành trà của Kenya cũng sẽ
bị ảnh hưởng nặng nề. Trên đây là 2 trong những thách thức mà chuỗi
cung ứng trà của Kenya đang phải đối mặt. Ngòai ra còn có những thách
thức khác như vấn đề lương nhân công, chính sách xã hội, nạn phân bịêt
giới tính…
Có thể nói, trong chuỗi trà Kenya, ta vẫn bắt gặp những yếu kém
còn tồn đọng, tuy vậy, không thể phủ nhận những tiến bộ mà chuỗi trà
này đã và đang làm được, mà điển hình là sự tổ chức khoa học và thống
nhất của chuỗi. Chính chuỗi cung ứng trà được tổ chức hệ thống và khoa
học đã giúp họ vươn lên vị trí hàng đầu trong ngành công nghiệp trà toàn
cầu. Nghiên cứu về chuỗi cung ứng trà Kenya và áp dụng các ưu điểm,
đồng thời tránh các khuyết điểm của họ chính là một cách học tập kinh
nghiệm, từ đó rút ngắn thời gian phát triển cho ngành trà Việt Nam nói
chung và Bảo Lộc nói riêng.
7
Nhìn chung, chuỗi trà Kenya có sự chuyên môn hóa, theo đó, mỗi
mắt xích trong chuỗi chỉ thực hiện vai trò của mình, không có sự “lấn sân”
sang các hoạt động của khâu tiếp theo. Bên cạnh đó, chuỗi cung ứng được
tổ chức một cách có hệ thống, với sự xuất hiện của các tổ chức, hiệp hội
đại diện cho các thành phần tham gia trong chuỗi. Ví dụ như Kenya Tea
Development Agency Limited (KTDA) đại diện cho người nông dân trồng
trà với quy mô nhỏ lẻ, Kenya Tea Growers Association (KTGA) đại diện cho
các trang trại trồng trà quy mô lớn. Các tổ chức này là tiếng nói chung
của những thành phần mà nó đại diện, đồng thời tập hợp nhằm gia tăng vị
thế thương lượng và đảm bảo quyền lợi cho mình. Ngoài ra, ngành trà
Kenya còn tổ chức các hiệp hội nhằm thiết lập và quản lý mối liên kết giữa
các mắt xích trong chuỗi, có thể kể đến như là:
Tea Board of Kenya (TBK): một tổ chức thuộc chính phủ với
trách nhiệm chính là cấp phép cho người trồng trà và các nhà
máy chế biến, quản lý, điều chỉnh khâu trồng và chế biến trà.
Ngoài ra, TBK hỗ trợ việc thực hiện các nghiên cứu của Tea
Research Foundation, đồng thời thu thập số liệu thống kê về
ngành trà. Cuối cùng, TBK là tổ chức tham mưu chính sách liên
quan đến ngành trà cho GOK và quảng bá trà Kenya trong và
ngoài nước. Ban đại diện của TBK bao gồm các nhân viên của
GOK, KTDA, KTGA và EATTA.
East African Tea Trade Association (EATTA): đây là một tổ
chức tình nguyện kết nối những người sản xuất trà, người môi giới
và người mua trà ở Đông Phi. Các quy định và điều lệ của tổ chức
hỗ trợ cho việc mua bán trà trực tiếp hoặc thông qua sàn trà. Nhờ
có tổ chức này, các hoạt động mua bán trà Kenya ra thị trường
quốc tế diễn ra thuận lợi hơn.
Chính phủ Kenya quản lý chặt chẽ các cơ sở, thành phần tham gia
vào chuỗi cung ứng. Tính đến hết 2009, có khỏang 400.000-500.000
người trồng trà, 93 nhà máy có đăng kí, 12 công ty môi giới, hơn 60 cơ sở
trộn, đóng gói trà có đăng kí và 100 doanh nghiệp thu mua trà ở Kenya
8
(Kenya-tea 2009). Các cơ sở này được kiểm tra nhằm đảm bảo tính đồng
bộ và thỏa mãn các tiêu chuẩn chung của chuỗi, đồng thời, việc kiểm soát
này cũng giúp cân bằng cung cầu trong chuỗi, từ đó giúp đảm bảo chất
lượng và hình ảnh trà Kenya khi xuất khẩu.
Tóm lại, các ưu điểm của chuỗi cung ứng trà Kenya mà chuỗi trà Bảo
Lộc cần phải học tập nhằm giải quyết các khó khăn còn tồn đọng chính là:
Sự tập hợp của các thành phần trong từng mắt xích dưới một tổ
chức chung, từ đó giải quyết tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ
lẻ, mất khả năng kiểm soát nhằm cải thiện vị thế thương lượng
giá, đồng thời định hướng và đảm bảo toàn chuỗi hoạt động theo
những chính sách, tiêu chuẩn chung của ngành trà, từ đó nâng
cao chất lượng và giá trị của trà Bảo Lộc.
Sự phối hợp liên kết giữa các mắt xích trong chuỗi được thực hiện
một cách thống nhất và có tổ chức, cụ thể là sự có mặt của các tổ
chức chịu trách nhiệm quản lý và điều chỉnh mối liên kết.
3. Các bộ tiêu chuẩn áp dụng cho ngành trà
Ngày nay, người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến chất lượng
trồng và chế biến trà. Hàng lọat các tiêu chuẩn đã được đặt ra nhằm thỏa
mãn các mối quan tâm này của khách hàng. Các bộ tiêu chuẩn đòi hỏi
nhà cung cấp trà phải đáp ứng các yêu cầu về an tòan thực phẩm, điều
kiện làm việc và thân thiện với môi trường. Nhìn chung, trà được chứng
nhận (certified tea) được định nghĩa là trà thỏa mãn ba yêu cầu của sự
bền vững, bao gồm việc đem lại lợi ích kinh tế cho nông dân, bảo vệ môi
trường và thực hiện trách nhịêm xã hội. Giấy chứng nhận được cấp bởi
một tổ chức thứ ba có thẩm quyền, xác nhận rằng chất lượng trà và quy
trình sản xuất trà của nhà cung cấp đã đáp ứng được một số tiêu chuẩn
nhất định. Ngành trà được chứng nhận theo một số bộ tiêu chuẩn như
sau:
Trang
Nhà
trại
máy
Môi giới
9
Trader
Chế
biến/
Nông
Tên bộ
dân
tiêu
chuẩn
Trồng trọt/ sơ chế
Sàn
giao
dịch
Mua bán trao đổi
Đóng
gói
Người
tiêu
dùng
Chế
biến
Rainforest
Alliance
Ethical
Tea
Partnershi
p (ETP)
GlobalG.A
.P
Fair Trade
UTZ
Certified
Organic
Chú thích:
Phạm vi áp dụng
Thời gian vừa qua, thị trường trà đã chứng kiến một số xu hướng
chính. Nổi bật trong số đó là mức cầu ngày càng tăng đối với các sản
phẩm trà chứng nhận, đặc biệt là ở một số thị trường lớn ở Tây Âu như
Anh, Đức,…Người tiêu dùng tại đây biết đến nhiều nhất là bộ tiêu chuẩn
Rainforest Alliance và Fair Trade. Ngòai ra, các thương hiệu hàng đầu cũng
lần lượt tuyên bố các cam kết của mình trong việc xây dựng thị trường trà
ngày một bền vững, đồng thời cải thiện các tiêu chuẩn về lao động và môi
trường trong chuỗi cung ứng trà tòan cầu. Một ví dụ điển hình là việc 2
thương hiệu trà lớn nhất thế giới tuyên bố áp dụng bộ tiêu chuẩn
Rainforest Alliance cho các sản phẩm của mình:
Unilever cam kết 100% sản phẩm trà Lipton nhãn vàng và P&G
Tips được chứng nhận Rainforest Alliance vào năm 2010, và
100% sản phẩm trà Lipton trên tòan cầu được chứng nhận vào
2015.
10
Tata Tea cam kết 100% dòng sản phẩm Tetley được chứng nhận
tại Anh và Canada vào 2011, đồng thời bắt đầu tại Mỹ, Úc và
Châu Âu vào 2012.
Thị phần của các sản phẩm trà chứng nhận đã tăng nhanh trong
vòng 3 năm qua, năm 2007 các sản phẩm này chỉ chiếm 1% tổng sản
lượng trà sản xuất trên tòan thế giới, con số này theo kế họach sẽ tăng
lên 10% vào cuối năm 2010. Bên cạnh đó, sản lượng trà chứng nhận theo
bộ tiêu chuẩn Rainforest Alliance và UTZ Certified dự tính sẽ tăng gấp đôi
trong vòng 1 năm.
3.1.
Rainforest Alliance
Rainforest Alliance là một tổ chức phi lợi nhuận ra đời vào năm 1986.
Năm 1987, hội nghị chính thức đầu tiên về rừng nhiệt đới được tổ chức ở
Mỹ, thu hút được 700 người tham gia. Nạn phá rừng trở thành một chủ đề
nóng bỏng và nhận được sự quan tâm của công chúng. Chỉ trong một năm
2 năm 1987 và 1988, số lượng thành viên của Rainforest Alliance tăng lên
5000. Ban đầu, tổ chức này chỉ chứng nhận cho gỗ, sau đó, mở rộng sang
các lọai nông sản khác như chuối, cà phê, trà… Các loại nông sản đáp
ứng được các điều kiện về môi trường, xã hội và kinh tế quy định bởi Hệ
thống nông nghiệp bền vững (Sustainable Agriculture Network_SAN) có
thể sử dụng mác của Rainforest Alliance Certified. Các tiêu chuẩn của SAN
nhấn mạnh vào người trực tiếp tham gia sản xuất và đời sống tự nhiên,
đồng thời trải đều cả 3 mặt môi trường, xã hội và kinh tế của sự bền vững
chứ không đặc biệt ưu tiên cho một mặt nào. Chúng bao gồm các nội
dung như:
Bảo tồn đất và nước.
Bảo vệ đời sống hoang dã và bảo vệ rừng.
Lên kế họach và kiểm sóat việc thực hiện
Quản lý chất thải hiệu quả và có trách nhiệm
Nghiêm cấm việc sử dụng các lọai thuốc trừ sâu nguy hiểm.
11
Ngòai ra, các tiêu chuẩn của SAN cũng bao gồm các vấn đề
liên quan tới việc bảo vệ người lao động, ví dụ như:
Quyền được tổ chức
Quyền được làm việc trong một môi trường sạch sẽ và an tòan
Quyền được trả lương, ít nhất là bằng mức lương tối thiểu của
quốc gia đó.
Quyền được bố trí chỗ ở hợp lý (bao gồm nước có thể uống
được)
Quyền được tíêp cận hệ thống chăm sóc sức khỏe (cho người
lao động và gia đình của họ) và hệ thống giáo dục cho trẻ em.
Chương trình chứng nhận theo bộ tiêu chuẩn Rainforest Alliance bắt
đầu hợp tác với người nông dân trồng trà vào năm 2006. Làm việc với tổ
chức này, người nông dân sẽ được học cách tăng sản lượng và kiểm sóat
chi phí, đồng thời nâng cao chất lượng cây trà để từ đó bán được mức giá
cao hơn trên thị trường.
3.2.
GlobalG.A.P
GlobalGAP hay còn gọi là EuropGAP là bộ tiêu chuẩn có tính chất
quy chuẩn cho việc chứng nhận, nó hướng dẫn áp dụng những kiến thức
sẵn có vào quá trình sản xuất nông nghiệp để hướng đến sự bền vững của
môi trường, kinh tế, xã hội trong các quá trình sản xuất và sau sản xuất
nông nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm nông nghiệp phi thực phẩm và
thực phẩm bổ dưỡng, an toàn. GlobalGAP gồm có 210 điểm đánh giá,
trong đó có 47 điểm chính yếu, đòi hỏi tuân thủ 100%; 98 điểm thứ yếu,
đòi hỏi tuân thủ 95% và 65 điểm khuyến cáo. Bộ tiêu chuẩn VietGAP mà
hiện tại Việt Nam đang áp dụng được xây dựng chủ yếu trên cơ sở
GlobalGAP, bên cạnh đó, có tham khảo thêm từ các nguồn khác như
AseanGAP, HAQCCP, Freshcare và pháp lệnh vệ sinh ATTP. VietGAP được
xây dựng nhằm phục vụ ba mục tiêu chính. Thứ nhất là tổng hợp các biện
pháp về quản lý, đầu tư kĩ thuật nhằm tạo ra sản phẩm an toàn. Thứ hai
là phục vụ cho công tác truy nguyên nguồn gốc sản phẩm khi cần thiết.
12
Thứ ba là nhằm bảo vệ sức khóe người lao động và bảo vệ môi trường.
VietGAP gồm 65 điểm, trong đó, 56 điểm bắt buộc thực hiện và 9 điểm
khuyến khích thực hiện, quy định về 12 nội dung chính như sau:
Đánh giá, lựa chọn vùng sản xuất
Giống và gốc ghép
Quản lý đất và giá thể
Phân bón và chất phụ gia
Nước tưới
Hóa chất
Thu hoạch và xử lý sau thu hoạch
Quản lý và xử lý chất thải
Người lao động
Ghi chép, lưu trữ hồ sơ, truy nguyên nguồn gốc và thu hồi sản
phẩm
Kiểm tra nội bộ
Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Trong các nội dung trên, nội dung về vấn đề ghi chép, lưu trữ hồ sơ,
truy nguyên nguồn gốc và thu hồi sản phẩm là quan trọng nhất.
3.3.
Ethical Tea Partnership
Năm 1997, một số doanh nghiệp đóng gói trà Anh đã liên kết với
nhau và thành lập tổ chức Tea Sourcing Partnership. Vào tháng 9/ 2004, tổ
chức này đổi tên thành Ethical Tea Partnership (ETP). Đây là một liên minh
phi thương mại của hơn 20 doanh nghiệp đóng gói trà quốc tế, những
người có chung mong muốn phát triển ngành trà thế giới theo hướng bền
vững về mặt xã hội và môi trường. Sau nhiều năm phát triển, ETP đã tăng
trưởng mạnh về mặt địa lý, bao quát hết tất cả các vùng xuất khẩu trà
chủ yếu trên thế giới như: Argentina, Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia,
Kenya, Malawi, Sri Lanka, Tanzania, Zimbabwe. Trước đây, ETP chỉ đơn
thuần giúp thành viên của nó kiểm sóat và thực hiện các điều kiện ở các
13
trang trại trồng trà trong chuỗi cung ứng của họ, nhưng ngày nay, ETP tập
trung vào việc phát triển ngành trà theo hướng bền vững. Các quy định
của ETP bao gồm các vấn đề về môi trường và xã hội.
3.4.
FairTrade
Năm 1988, thương hiệu đầu tiên được chứng nhận FairTrade, cà phê
Max Havelaar của Mexico, được bày bán tại các siêu thị Hà Lan. FairTrade
là một tổ chức được thành lập với mục tiêu giảm nghèo cho người sản
xuất trà (nông dân và người làm thuê trong các trang trại, nhà máy), đồng
thời hướng tới sự phát triển bền vững. Trà là một trong những sản phẩm
được mang nhãn FairTrade đầu tiên ở Vương quốc Anh vào năm 1994. Các
sản phẩm mang nhãn FairTrade được chứng nhận là các sản phẩm đã thỏa
mãn các điều kiện của tổ chức này. Có 2 bộ tiêu chuẩn FairTrade dành cho
2 nhóm đối tượng khác nhau. Thứ nhất là nhóm các nông dân trồng trà
làm việc cùng nhau hoặc tập hợp trong các tổ chức địa phương và thứ hai
là những người làm công. Ngoài ra, FairTrade cũng bao gồm các điều
khỏan thương mại. Tất cả các sản phẩm được chứng nhận sẽ được đảm
bảo mức giá FairTrade, đây là mức giá tối thiểu phải trả cho người sản
xuất trà, nhằm giúp họ đủ khả năng chi trả các chi phí liên quan tới sản
xuất bền vững. Mức giá FairTrade phát huy tác dụng khi thị trường trà sụt
giảm. Tuy vậy, người sản xuất trà vẫn có thể thương lượng mức giá bán
cao hơn trong các điều kiện bình thường tùy theo chất lượng sản phẩm.
Ngòai mức giá tối thiểu này, người sản xuất trà còn nhận được các khỏan
tăng thêm (FairTrade Premium) để tái đầu tư và nâng cao chất lượng cuộc
sống.
3.5.
UTZ Certified
Mục tiêu cơ bản của UTZ Certified là tạo ra một thị trường mở và
thông thóang cho các sản phẩm nông nghiệp. Nó thực hiện các chưong
trình chứng nhận cho cà phê, trà, ca cao và dầu cọ. Tầm nhìn của UTZ
Certified là đạt được chuỗi cung ứng nông nghiệp bền vững, trong đó
người nông dân áp dụng kỹ thuật canh tác tốt, dẫn đến việc mua bán
14
thuận lợi hơn và thị trường thực phẩm sẽ thực hiện trách nhiệm bằng cách
đề cao và sử dụng các sản phẩm được sản xuất một cách bền vững, và
trong đó, khách hàng mua các sản phẩm thỏa mãn trách nhiệm với môi
trường và xã hội. Có thể nói, hệ thống tiêu chuẩn của UTZ Certified bao
gồm cả 3 mặt của sự bền vững: kinh tế, xã hội và môi trường. Ngòai việc
đáp ứng các quy định của UTZ, các nhà sản xuất cũng phải xây dựng hệ
thống kiểm sóat và theo dõi nhằm đả bảo khả năng truy nguyên nguồn
gốc. Nhờ đó, các sản phẩm được chứng nhận UTZ sẽ dễ dàng trả lời hai
câu hỏi của người tiêu dùng: Sản phẩm này có nguồn gốc từ đâu và quy
trình sản xuất của nó được thực hịên thế nào. Ý tưởng ban đầu của UTZ
Certified là nhằm đem sự công nhận đến cho các nhà sản xuất cà phê một
cách có trách nhiệm và cung cấp các công cụ cho các hãng rang xay và
các thương hiệu để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đối với các lọai cà
phê được sản xuất một cách có trách nhiệm. Những người sáng lập đã xây
dựng một tổ chức độc lập với các nhà sản xuất và rang xay cà phê với tên
gọi UTZ Kapeh, theo tiếng Maya UTZ có nghĩa là “tốt” và kapeh nghĩa là
“cà phê”. Văn phòng tổ chức được thành lập ở thành phố Guatemala vào
năm 1999, sau đó, vào năm 2002, trụ sở chính chính thứ ra đời ở Hà Lan.
Tháng 3/ 2007, UTZ Kapeh đổi tên thành UTZ Certified “Good Inside”.
Cũng từ năm này, UTZ đã vận dụng những kinh nghiệm của mình đối với
cà phê để xây dựng chương trình chứng nhận cho trà. Các sản phẩm đã
được chứng nhận UTZ có giá trị gia tăng, đó là việc sản phẩm được đảm
bảo đã thỏa mãn các trách nhiệm về kinh tế, xã hội và môi trường, đồng
thời là các sản phẩm được sản xuất, chế biến một cách có trách nhiệm và
chất lượng. Bằng cách sử dụng các sản phẩm được chứng nhận, người tiêu
dùng đã giúp những người nông dân trồng trà, những nhà sản xuất…có
cuộc sống tốt hơn, đồng thời góp phần vào sự phát triển bền vững của
chuỗi cung ứng trà tòan cầu.
3.6.
Organic
Bộ tiêu chuẩn Organic cung cấp một hệ thống chỉ rõ những việc mà
người nông dân có thể và không thể thực hiện, trong đó đặc biệt nhấn
15
mạnh vào việc bảo vệ môi trường và đời sống tự nhiên. Theo bộ tiêu
chuẩn này, thuốc trừ sâu bị hạn chế sử dụng một cách nghiêm ngặt, đồng
thời, các lọai phân bón hóa học, công nghệ biến đổi gen và việc sử dụng
thuốc kích thích, kháng sinh đều bị cấm. Rất nhiều sản phẩm, trong đó có
trà, được chứng nhận kép, tức được chứng nhận theo Organic phối hợp với
một bộ tiêu chuẩn khác.
16
CHƯƠNG II :
THỰC TRẠNG CHUỖI CUNG ỨNG TRÀ BẢO LỘC
1. Giới thiệu ngành trà Lâm Đồng
1.1.
Giới thiệu cây chè
Cây chè hay cây trà có tên khoa học là Camellia sinensis là loài cây
mà lá và chồi của chúng được sử dụng để sản xuất chè hay trà. Tên gọi
sinensis có nghĩa là "Trung Quốc" trong tiếng Latinh. Các danh pháp khoa
học cũ còn có Thea bohea và Thea viridis.
Xét về hệ thống phân loại thực vật, chè thuộc:
o Ngành hạt kín Angiospermae
o Lớp song tử diệp Dicotyledonae
o Bộ chè Theales
o Họ chè Theaceae
o Chi chè Camellia (Thea)
o Loài Camellia (Thea) sinensis.
Về đặc điểm sinh học, chè là loại cây xanh lưu niên mọc thành bụi
hoặc các cây nhỏ, thông thường được xén tỉa để thấp hơn 2 m (6 ft) khi
được trồng để lấy lá. Cây có rễ cái dài; hoa màu trắng ánh vàng, đường
kính từ 2,5–4 cm, với 7 - 8 cánh hoa; hạt có thể ép để lấy dầu.
1.1.1. Phân loại chè
Để phân biệt các loại chè người ta thường dựa vào 3 tiêu chí:
Cơ quan dinh dưỡng: loại thân bụi hoặc thân gỗ, hình dạng của
tán, hình dạng và kích thước của các loại lá, số đôi gân lá...
Cơ quan sinh thực: độ lớn của cánh hoa, số lượng đài hoa, vị trí
phân nhánh của đầu nhị cái.
Đặc tính sinh hóa hay thành phần hóa học có trong cây
chè: gồm nước, tannin, ancaloit, Protein và axít amin, Gluxít và
pectin, diệp lục tố, carotin và xantofin, dầu thơm, vitamin, men,
chất tro…Trong đó, người ta chủ yếu dựa vào hàm lượng tannin để
17
phân biệt. Mỗi giống chè đều có hàm lượng tanin biến động trong
phạm vi nhất định.
Sau đây giới thiệu cách phân loại chè dựa vào cơ quan dinh dưỡng
và sinh thực của tác gỉa Cohen Stuart (1919). Ông phân loại chè thành 4
loại:
Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var. Bohea):
Cây bụi thấp phân cành nhiều.
Lá nhỏ, dày nhiều gợn sóng, màu xanh đậm, lá dài 3,5 - 6,5
cm.
Có 6 - 7 đôi gân lá không rõ, răng cưa nhỏ, không đều.
Búp nhỏ, hoa nhiều, năng suất thấp, phẩm chất bình thường.
Khả năng chịu rét ở độ nhiệt -12oC đến -15oC.
Phân bố chủ yếu ở miền đông, đông nam Trung Quốc, Nhật Bản
và một số vùng khác.
Chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var. macrophylla):
Thân gỗ nhỡ cao tới 5m trong điều kiện sinh trưởng tự nhiên.
Lá to trung bình chiều dài 12 - 15 cm, chiều rộng 5 - 7 cm, màu
xanh nhạt, bóng, răng cưa sâu không đều, đầu lá nhọn.
Có trung bình 8 - 9 đôi, gân lá rõ.
Năng suất cao. Phẩm chất tốt.
Nguyên sản ở Vân Nam, Tứ Xuyên (Trung Quốc).
Chè Shan (Camellia sinensis var. Shan):
Thân gỗ, cao từ 6 đến 10 m.
Lá to và dài 15 - 18 cm màu xanh nhạt, đầu lá dài, răng cưa
nhỏ và dày.
Tôm chè có nhiều lông tơ, trắng và mịn trông như tuyết, nên
còn gọi là chè tuyết.
Có khoảng 10 đôi gân lá.
18
Có khả năng thích ứng trong điều kiện ấm ẩm, ở địa hình cao,
năng suất cao, phẩm chất thuộc loại tốt nhất.
Nguyên sản ở Vân Nam - Trung Quốc, miền bắc của Miến Điện
và Việt Nam.
Chè Ấn Độ (Camellia sinensis var. atxamica):
Thân gỗ cao tới 17 m phân cành thưa.
Lá dài tới 20 - 30 cm, mỏng, mềm, thường có màu xanh đậm,
dạng lá hình bầu dục, phiến lá gợn sóng, đầu lá dài.
Có trung bình 12 - 15 đôi gân lá.
Rất ít hoa quả.
Không chịu được rét hạn.
Năng suất, phẩm chất tốt.
Trồng nhiều ở Ấn Độ, Miến Điện, Vân Nam (Trung Quốc) và một
số vùng khác.
Tại Việt Nam, ta trồng được cả bốn loại trên nhưng nhiều nhất vẫn là
chè Shan và chè trung Quốc lá to. Từ các loại chè này, tùy thuộc vào cách
chế biến và nồng độ oxi hóa khác nhau ta có các loại chè xanh, chè đen,
chè Ô Long… như hiện nay.
1.1.2. Giá trị dinh dưỡng của cây chè:
Hiện nay trên thế giới, số người dung chè đang ngày càng tăng lên,
không chỉ vì hương vị của nó mà còn vì tác động tích cực của chè đến sức
khỏe:
Caféin và một số hợp chất ancaloit khác có trong chè là những chất
có khả năng kích thích hệ thần kinh trung ương, kích thích vỏ đại não làm
cho tinh thần minh mẫn, tăng cường sự hoạt động của các cơ trong cơ
thể, nâng cao năng lực làm việc, giảm bớt mệt nhọc sau những lúc làm
việc căng thẳng.
Hỗn hợp tanin chè có khả năng giải khát, chữa một số bệnh đường
ruột như tả, lỵ, thương hàn. Nhiều thầy thuốc còn dùng nước chè, đặc biệt
19
là chè xanh để chữa bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang và chảy máu dạ dày.
Theo xác nhận của M.N. Zaprometop thì hiện nay chưa tìm ra được chất
nào lại có tác dụng làm vững chắc các mao mạch tốt như catechin của
chè. Dựa vào số liệu của Viện nghiên cứu y học Leningrat, khi điều trị các
bệnh cao huyết áp và neprit mạch thì hiệu quả thu được có triển vọng rất
tốt, nếu như người bệnh được dùng catechin chè theo liều lượng 150mg
trong một ngày. E.K. Mgaloblisvili và các cộng tác viên đã xác định ảnh
hưởng tích cực của nước chè xanh tới tình trạng chức năng của hệ thống
tim mạch, sự cản các mao mạch, trao đổi muối - nước, tình trạng của chức
năng hô hấp ngoại vi, sự trao đổi vitamin C, trạng thái chức năng của hệ
thống điều tiết máu.v.v...
Chè còn chứa nhiều loại vitamin như vitamin A, B1, B2, B6, vitamin
PP và nhiều nhất là vitamin C. Nguồn axit amin từ chè gây hiệu ứng thư
giản dựa trên việc tăng sóng alpha; theamine giúp phản ứng miễn nhiễm
tự nhiên của cơ thể với các bệnh lây do nấm và virus.
Ngoài ra còn một số giá trị đặc biệt của chè được phát hiện gần đây
như tác dụng chống phóng xạ (chất Stronti (Sr) 90, một đồng vị phóng xạ
rất nguy hiểm) được các nhà khoa học Nhật Bản. Còn theo nghiên cứu của
các nhà khoa học Australia đã tiết lộ rằng chất tinh dầu chiết xuất từ cây
chè có thể được sử dụng như một phương pháp điều trị an toàn và hiệu
quả đối với căn bệnh ung thư da lành tính.
1.1.3. Giá trị kinh tế của cây chè
Chè là một cây công nghiệp lâu năm, có đời sống kinh tế lâu dài,
mau cho sản phẩm, cho hiệu quả kinh tế cao. Chè trồng một lần, có thể
thu hoạch 30-40 năm hoặc lâu hơn nữa. Trong điều kiện thuận lợi của ta
cây sinh trưởng tốt thì cuối năm thứ nhất đã thu hoạch trên dưới một tấn
búp/ha. Các năm thứ hai thứ ba (trong thời kỳ kiến thiết cơ bản) cũng cho
một sản lượng đáng kể khoảng 2-3 tấn búp/ha. Từ năm thứ tư chè đã đưa
vào kinh doanh sản xuất.
Tại Việt Nam, chè là một trong những cây có giá trị xuất khẩu cao và
hiện nay chè trở thành một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
20
- Xem thêm -