1.1 Công tác đền bù giải phóng mặt bằng và các khái niệm liên quan
1.1 .1 Công tác đền bù giải phóng mặt bằng
- Giải phóng mặt bằng: Là quá trình thực hiện các công việc liên quan đến việc di
dời nhà cửa, cây cối, các công trình xây dựng và một bộ phận dân cư trên một phần đất
nhất định để trả lại mặt bằng thực hiện các quy hoạch cho việc cải tạo, mở rộng hoặc
xây dựng một công trình mới.
Quá trình giải phóng mặt bằng được tính từ khi bắt đầu hình thành hội đồng giải
phóng mặt bằng đến khi giải phóng xong và giao cho chủ đầu tư mới. Đây là một quá
trình đa dạng và phức tạp thể hiện sự khác nhau giữa các dự án và liên quan trực tiếp
đến các bên tham gia và của toàn xã hội.
- Ý Nghĩa: Trong điều kiện nước ta hiện nay, “Giải phóng mặt bằng” là một trong
những công việc quan trọng phải làm trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Sự cần thiết triển khai xây dựng nhiều công trình cơ sở hạ tầng, nhiều khu kinh
tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, theo đó các cơ sở văn hoá giáo dục, thể dục thể
thao cũng đuợc phát triển, tốc độ đô thị hoá cũng diễn ra nhanh chóng.
Công tác giải phóng mặt bằng mang tính quyết định tiến độ của các dự án, là khâu
đầu tiên thực hiện dự án. Có thể nói: “Giải phóng mặt bằng nhanh là một nửa dự án”.
Việc làm này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư,
mà còn ảnh hưởng đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người bị thu hồi đất
- Vai trò của công tác giải phóng mặt bằng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước :
Đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ ÁN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NÂNG CAO CÔNG TÁC QUẢN LÝ TRONG
GIAI ĐOẠN BỒI THƯỜNG GIẢI PHÓNG
MẶT BẰNG CỦA CÁC DỰ ÁN XÂY DỰNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hiện nay một trong những nguyên nhân gây chậm trến tiến độ, tăng chi phí trong
quá trình đầu tư xây dựng là công tác bồi thường giải phóng mặt bằng. Đây là công tác
phức tập, liên quan đến nhiều vấn đề. Đặc biệt trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhu cầu về
đầu tư xây dựng cao, những dự án liên quan đến bồi thường giải phóng mặt bằng nhiều
do đó làm thê nào để nâng cao công tác này là một vấn đề cần giải quyết.
Đề tài “Nâng cao công tác quản lý trong giai đoạn bồi thường giải phóng mặt bằng
của các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai “ ra đời nhằm hoàn thiện hơn nữa
các quy trình, trình tự cũng như các vấn đề liên quan đến bồi thường giải phóng mặt
bằng để việc thực hiện các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai được hoàn thiện
đúng yêu cầu được giao.
2. Đối tượng nghiên cứu
Dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai .
3. Phạm vi nghiên cứu
Ông tác bồi thường giải phóng mặt bằng
4. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nâng cao công tác quản lý trong giai đoạn bồi thường giải phóng mặt bằng của các
dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết và luật quy định
6. Kết cấu của luận văn:
NỘI DUNG ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Nội dung thực hiện và tài liệu thực hiện luận văn:
Phần Mở đầu: - Tình hình quản lý trong giai đoạn bồi thường giải phóng mặt
bằng của các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
- Sự cần thiết tiến hành đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận về bồi thường giải phóng mặt bằng
1.1 Công tác đền bù giải phóng mặt bằng và các khái niệm liên quan
1.1 .1 Công tác đền bù giải phóng mặt bằng
- Giải phóng mặt bằng: Là quá trình thực hiện các công việc liên quan đến việc di
dời nhà cửa, cây cối, các công trình xây dựng và một bộ phận dân cư trên một phần đất
nhất định để trả lại mặt bằng thực hiện các quy hoạch cho việc cải tạo, mở rộng hoặc
xây dựng một công trình mới.
Quá trình giải phóng mặt bằng được tính từ khi bắt đầu hình thành hội đồng giải
phóng mặt bằng đến khi giải phóng xong và giao cho chủ đầu tư mới. Đây là một quá
trình đa dạng và phức tạp thể hiện sự khác nhau giữa các dự án và liên quan trực tiếp
đến các bên tham gia và của toàn xã hội.
- Ý Nghĩa: Trong điều kiện nước ta hiện nay, “Giải phóng mặt bằng” là một trong
những công việc quan trọng phải làm trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Sự cần thiết triển khai xây dựng nhiều công trình cơ sở hạ tầng, nhiều khu kinh
tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, theo đó các cơ sở văn hoá giáo dục, thể dục thể
thao cũng đuợc phát triển, tốc độ đô thị hoá cũng diễn ra nhanh chóng.
Công tác giải phóng mặt bằng mang tính quyết định tiến độ của các dự án, là khâu
đầu tiên thực hiện dự án. Có thể nói: “Giải phóng mặt bằng nhanh là một nửa dự án”.
Việc làm này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư,
mà còn ảnh hưởng đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người bị thu hồi đất
- Vai trò của công tác giải phóng mặt bằng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước :
Đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng
Ở mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế xã hội có một sự phát triển thích ứng của
hạ tầng kinh tế xã hội. Với tư cách là phương tiện vật chất kỹ thuật, hạ tầng kinh tế xã
hội lại trở thành lực lượng sản xuất quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội
mà trong đó giải phóng mặt bằng là điều kiện tiên quyết để dự án có được triển khai hay
không.
- Về mặt tiến độ hoàn thành của dự án
+ Tiến độ thực hiện các dự án phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau như: Tài
chính, lao động, công nghệ, điều kiện tự nhiên, tập quán của người dân trong diện bị
giải toả… Nhưng nhìn chung, nó phụ thuộc nhiều vào thời gian tiến hành giải phóng
mặt bằng.
+ Giải phóng mặt bằng thực hiện đúng tiến độ đề ra sẽ tiết kiệm được thời gian và
việc thực hiện dự án có hiệu quả. Ngược lại giải phóng mặt bằng kéo dài gây ảnh hưởng
đến tiến độ thi công các công trình cũng như chi phí cho dự án, có khi gây ra thiệt hại
không nhỏ trong đầu tư xây dựng. Chẳng hạn một dự án dự kiến hoàn thành đến hết mùa
khô nhưng do giải phóng mặt bằng chậm, kéo dài nên việc xây dựng phải tiến hành vào
mùa mưa gây khó khăn cho việc thi công cũng như tập trung vốn, lao động, công nghệ
cho dự án này và ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án khác.
- Về mặt kinh tế của dự án: Giải phóng mặt bằng thực hiện tốt giảm tối đa chi phí
cho việc giải toả đền bù, có điều kiện tập trung vốn đầu tư cho các công trình khác. giải
phóng mặt bằng kéo dài dẫn đến chi phí bồi thường lớn, không kịp hoàn thành tiến độ
dự án dẫn đến sự quay vòng vốn chậm gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Đặc biệt, các
nhà đầu tư trong nước có nguồn vốn hạn hẹp thì việc quay vòng vốn là rất cần thiết để
đảm bảo tận dụng cơ hội đấu thầu của các công trình khác.
Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Nếu công tác giải phóng mặt bằng không được thực hiện tốt sẽ xảy ra hiện tượng
“treo” công trình làm cho chất lượng công trình bị giảm, các mục tiêu ban đầu không
thực hiện được, từ đó gây lãng phí rất lớn cho ngân sách Nhà nước. Mặt khác, khi giải
quyết không thoả đáng quyền, lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi sẽ dễ dàng
nỗ ra những khiếu kiện, đặc biệt là những khiếu kiện tập thể, làm cho tình hình chính trị
- xã hội mất ổn định
- Sự cần thiết của việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
Việc hoàn thiện chính sách phát luật quản lý đất đai nói chung, trong đó có chính
sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu rõ Đảng và
Nhà nước chủ trương rà soát lại toàn bộ hệ thống chính sách pháp luật về đất đai lấy
mốc từ thời điểm năm 1987. Tháng 09 năm 2002 Trung ương Đảng giao cho Ban chỉ
đạo về "Đổi mới chính sách pháp luật đất đai" có kế hoạch chuẩn bị đề án về chính
sách đất đai và chuẩn bị đề cương báo cáo tổng kết chính sách đất đai, kiến nghị về
chủ trương sửa đổi Luật Đất đai từ Trung ương đến các địa phương. Trên cơ sở đó,
trong Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" được thông qua tại Hội nghị lần thứ 7
(phần 2) Ban chấp hành Trung ương Đảng, đã khẳng định đường lối, chủ trương đổi
mới chính sách và pháp luật đất đai của Đảng và Nhà nước đã từng bước đi vào cuộc
sống, thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần ổn định chính trị xã hội. Đồng thời chỉ rõ
những hạn chế về hiệu quả sử dụng đất đai, những yếu kém trong công tác quản lý Nhà
nước về đất đai, nguyên nhân của những hạn chế này là do một số chủ trương, chính
sách quan trọng của Đảng còn chưa được thể chế hoá hoặc văn bản pháp luật thể chế
ban hành nhiều, nhưng còn thiếu đồng bộ.
Đến năm 2003 Luật đất đai mới đã được Quốc hội thông qua thay thế Luật Đất đai
1993, trong Luật đã quy định đầy đủ hơn các nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế; việc thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích phát triển kinh tế của đất nước và quản lý quỹ đất thu hồi; chính sách bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư cho người có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích quốc phòng,
an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế và những trường hợp
thu hồi đất mà không bồi thường hoặc chỉ xử lý tiền sử dụng đất còn lại và giá trị tài
sản trên đất.v.v… Để hướng dẫn cụ thể quy định của Luật đất đai năm 2003 và chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 hướng
dẫn thi hành Luật Đất đai; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Tiếp tục hoàn thiện thể
chế chính sách phục vụ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường
sự chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển đất
nước, trong Báo cáo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Kỳ họp thứ 10
Quốc hội khoá XI Ngày 17 tháng 10 năm 2006 tại phần nhiệm vụ và giải pháp để tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, đã nêu rõ chủ
trương chỉ đạo của Chính phủ: “Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho lao động
nông thôn; tiếp tục hỗ trợ thích hợp cho người dân ở những nơi Nhà nước đã thu hồi
đất để sớm ổn định cuộc sống; kiểm tra chặt chẽ các dự án tái định cư bảo đảm cuộc
sống của dân khi quyết định thu hồi đất”. Triển khai thực hiện chủ trương của Đảng
và chỉ đạo của Chính phủ về đổi mới hoàn thiện chính sách bồi thường, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 ; Nghị định số
84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất
đai;Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 về quy hoạch sử dụng đất, giá đất,
thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư ; tại các nghị định này đã sửa đổi bổ sung một
số quy định về chính sách bồi thường, quy định bổ sung các trường hợp Nhà nước thu
hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng và mục đích phát triển kinh tế; sửa đổi quy định bồi thường đất, giá đất tính bồi
thường, cơ chế hỗ trợ cho người bị thu hồi đất và cải cách trình tự thực hiện thu hồi
đất, thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ngày càng phù hợp với yếu
cầu phát triển khinh tế - xã hội của đất nước.
1.1.2 Các khái niệm liên quan
- Thu hồi đất: Là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng
đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý
theo quy định (trích theo khoản 5 điều 4 luật đất đai 2003).
- Bồi thường: Là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích
đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất (trích theo khoản 6 điều 4 luật đất đai 2003).
Bồi thường là đền bù những tổn hại đã gây ra. Đền bù là trả lại tương xứng với giá
trị hoặc công lao. Như vậy, bồi thường là trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao
cho một chủ thể bị thiệt hại vì hành vi của một chủ thể khác.
- Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất : Là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất
thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm
mới (trích theo khoản7 điều 4 luật đất đai 2003).
- Tái định cư:
TĐC là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước đây để sinh sống và làm ăn.
TĐC bắt buộc đó là sự di chuyển không thể tránh khỏi khi Nhà nước thu hồi hoặc trưng
thu đất đai để thực hiện các dự án phát triển.
TĐC được hiểu là một quá trình từ bồi thường thiệt hại về đất, tài sản; di chuyển đến
nơi ở mới và các hoạt động hỗ trợ để xây dựng lại cuộc sống, thu nhập, cơ sở vật chất,
tinh thần tại đó. Như vậy, TĐC là hoạt động nhằm giảm nhẹ các tác động xấu về kinh tế
- xã hội đối với một bộ phận dân cư đã gánh chịu vì sự phát triển chung.
Hiện nay ở nước ta, khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì người sử
dụng đất được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau:
- Bồi thường bằng nhà ở.
- Bồi thường bằng giao đất ở mới.
- Bồi thường bằng tiền để người dân tự lo chỗ ở
TĐC là một bộ phận không thể tách rời và giữ vị trí rất quan trọng trong chính
sách GPMB. Các dự án TĐC cũng được coi là các dự án phát triển và phải được thực
hiện như các dự án phát triển khác.
1.1.3 Cơ sở lý luận bồi thường
Khi các công trình được xây dựng nhằm phục vụ cho mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia được triển khai thì Nhà nước cần phải có mặt
bằng để thực hiện dự án. Thế nhưng đất đai thuộc sở hữu toàn dân, với tư cách là người
quản lý, nhằm đảm bảo được lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhân dân, khi đó Nhà
nước sẽ ra quyết định thu hồi quyền sử dụng đất của người dân hoặc đất được Nhà nước
giao quản lý.
Theo điều 4, Luật đất đai năm 2003 “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định
hành chính để thu hồi quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý”.
Việc xây dựng những khu công nghiệp cho mục tiêu phát triển kinh tế, những con
đường quốc gia để phục vụ lợi ích chung là rất cần thiết nhưng không vì thế mà phải hy
sinh quyền lợi của những cá nhân, những nhóm người. Do đó, khi quyền sử dụng đất
của người dân bị thu hồi thì Nhà nước sẽ bồi thường thiệt hại.
Vậy, “ Bồi thuờng khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền
sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất ”
“Bồi thường” là sự đền trả lại tất cả những thiệt hại mà chủ thể gây ra một cách
tương xứng, trong quy hoạch xây dựng thiệt hại gây ra có thể là thiệt hại vật chất và thiệt
hại phi vật chất. Trong giải phóng mặt bằng, cùng với chính sách hỗ trợ và tái định cư,
chính sách bồi thường là một phần quan trọng trong chính sách đền bù thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất. Chính sách này nhằm giúp cho người bị thu hồi đất có thể tái lập, ổn
định cuộc sống mới do những thiệt hại vật chất hoặc thiệt hại phi vật chất do việc thu
hồi đất gây ra, mặt khác giúp họ giải quyết được những khó khăn khi phải thay đổi nơi
ở mới.
Bản chất của việc bồi thường
Mục tiêu phát triển kinh tế và xây dựng đất nước của Đảng và Nhà nước ta đó là:
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong nhiều chiến lược
phát triển của đất nước có chiến lược phát triển nhà ở nhằm tạo điều kiện cho nhân dân
có chỗ ở rộng rãi hơn, tiện nghi hơn qua mỗi thời kỳ phát triển.
Ăn và ở là hai nhu cầu tối thiểu của con người, trong đó nhu cầu về nhà ở có tầm
quan trọng trong việc ổn đời sống của mỗi người dân. Câu nói tuy giản dị từ bao đời nay
của ông cha ta “Có an cư, mới lạc nghiệp” nhưng trong hoàn cảnh nào cũng đúng vì sự
du canh, du cư của con người khó làm nên sự nghiệp. Do đó trong quá trình thu hồi đất
để giải phóng mặt bằng, người dân phải di chuyển chỗ ở và kéo theo đó là những khó
khăn mà họ sẽ, gặp phải trong cuộc sống hiện tại cũng như tương lai. không có chỗ ở ổn
định thì con người sẽ không có điều kiện tốt nhất cho việc học tập, lao động, nghiên cứu
khoa hoc…
Bài học của một số nước phát triển cho ta cách nhìn mới, đó là bên cạnh những
công sở nguy nga tráng lệ, những cao ốc trọc trời là những khu nhà “ổ chuột” của dân
lao động – công bằng và dân chủ không thể chỉ thông qua việc hô hào mà thực tế lại
không thực hiện.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chúng
ta không thể chỉ có những đô thị đẹp, hiện đại, những khu chế xuất khổng lồ, những
công trình công cộng khang trang mà kèm theo đó chỗ ở của người dân phải được nâng
cấp tiện nghi hơn, rộng rãi hơn… Chính vì vậy phải tính một cách toàn diện, không thể
có một hiện tượng một công trình mới ra đời lại kéo theo những người dân không có
chỗ ở hoặc chỗ ở kém hơn nơi ở cũ.
Nếu không nhìn rõ bản chất vấn đề, mỗi năm chúng ta có hàng ngàn dự án cần giải
phóng mặt bằng, mỗi dự án chỉ kéo theo một gia đình không có chỗ ở thì đã có hàng
ngàn gia đình thiếu chỗ ở hoặc chỗ ở tạm bợ. Như vậy là sự phát triển sẽ thiên lệch, lợi
ích của quốc gia, lợi công cộng không hài hoà với lợi ích cá nhân, gia đình. Từ đó mục
tiêu lớn của quốc gia sẽ không đạt được.
Từ những nhận thức trên có thể giúp chúng ta hiểu được bản chất quan trọng của
vấn đề, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng nói chung và chính sách bồi thường giải
phóng mặt bằng nói riêng cơ bản phù hợp với nguyện vọng chính đáng của người dân,
nhưng để chính sách đi vào cuộc sống cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nghành, các
cấp có liên quan. Đồng thời cần có sự chỉ đạo kịp thời, sự quan tâm đúng mức của những
người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong việc xảy ra những vướng mắc, khó khăn
nhằm có những giải pháp phù hợp cho từng khu vực, từng dự án và cả từng hộ dân trong
công tác bồi thường giải phóng mặt bằng.
1.1.4
Cơ sở pháp lý về bồi thường giải phóng mặt bằng
Sau một thời gian dài thực hiện Luật đất đai 1993 đã thấy những thiếu sót, những
khó khăn về phạm vi bồi thường, nên đến Luật đất đai 2003 và cùng với đó Chính phủ
ban hành Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 đã khắc phục được những
thiếu sót, khó khăn trên.
Hiện nay cùng với Nghị định 197/2004/NĐ-CP, Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Nghị
định 84/2007/NĐ-CP là sự ra đời của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009
của Chính phủ, trong đó công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đã có nhiều thay đổi
khi UBND cấp tỉnh có dự án được thoả thuận với người dân về mức bồi thường. Qua đó
kéo gần thêm khoảng cách giữa chủ đầu tư với người có đất bị thu hồi, hạn chế những
“dự án treo” trên giấy mà nguyên nhân chủ yếu là việc bồi thường giải phóng mặt bằng
gặp khó khăn.
1.2 Đặc điểm của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng
Giải phóng mặt bằng là quá trình đa dạng và phức tạp nó thể hiện khác nhau đối
với mỗi dự án, nó liên qua đến lợi ích bên tham gia và lợi ích toàn xã hội.
- Sự cấn thiết của công tác đền bù giải phóng mặt bằng:
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, do đó chỉ có Nhà
nước mới có quyền định đoạt đối với tài sản quốc gia này. Nhà nước có thể giao cho các
đối tượng sử dụng theo quy định đã ghi trong luật đất đai nhưng khi cần nhà nước sẽ thu
hồi lại để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nhu cầu sử dụng đất để
xây dựng các công trình cở sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình kiến trúc khác luôn
thay đổi. nhà nước giao đất cho các chủ sử dụng với một mục đích nhất định phù hợp
với quy hoạch. Tuy nhiên khi quy hoạch thay đổi cũng đồng nghĩa với việc thay đổi mục
đích sử dụng. Nhà nước phải thu hồi lại đất để phục vụ cho mục đích sử dụng mới. Ví
dụ như các dự án sử dụng đất với mục đích xây dựng một tuyến đường giao thông trong
một địa phương nào đó hoặc đường quốc lộ lớn, xây dựng các trung tâm kinh tế, khu
vui chơi giải trí, sân vận động quốc gia, nhà thi đấu, ... nhằm mục đích phát triển kinh
tế và phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Để thực hiện các dự án này cần có đất.
Vì Nhà nước đã giao cho các đối tượng sử dụng, vì vậy đất đai thực hiện dự án Nhà
nước phải thu hồi đất của người sử dụng. Sau khi thu hồi đất, Nhà nước sẽ giao lại cho
chủ dự án sử dụng đất mới mà có dự án đã được nhà nước phê duyệt.
Khi được nhà nước giao đất thì các đối tượng sử dụng có thể sử dụng vào nhiều
mục đích theo đăng ký nhằm phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống. Họ có thể xây dựng
nhà ở, các công trình kiến trúc, công trình phục vụ cho đời sống, những tài sản gắn với
đất. Các tài sản đó thuộc sở hữu của người sử dụng.
Do đó, khi nhà nước thu hồi đất người sử dụng không chỉ mất đi đất đai mà còn
mất những tài sản được xây dựng trên mảnh đất đó.
- Họ sẽ mất đi tư liệu sản xuất là đất đai, do đó mất đi nghề nghiệp và địa bàn sản
xuất. Trên mảnh đất này trước đó họ có thể trồng trọt chăn nuôi và đất đai trong trường
hợp này đóng vai trò là một tư liệu sản xuất, hoặc họ có thể xây dựng các công trình
phục vụ cho sản xuất mà họ sở hữu.
- Để sản xuất họ cần phải đt các yếu tố phục vụ sản xuất vào đất như hệ thống tưới
tiêu, phân bón làm tăng độ phì của đất và các công trình phục vụ sản xuất khác. Do đó,
Nhà nước phải đền bù cho họ chi phí đã đt vào đất.
- Họ xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ sinh hoạt, khi nhà nước thu hồi đất
và buộc họ phải tháo dỡ các công trình đó thì phải đền bù thiệt hại về giá trị các công
trình đó.
Việc đền bù những thiệt hại trên sẽ bù đắp những thiệt hại về bất động sản và
những thiệt hại khác về lợi ích gắn với đất của chủ sử dụng. Mặt khác còn tạo điều kiện
cho họ có thể tạo dựng lại cuộc sống ít nhất là như trước kia. Bởi vì khi xét duyệt các
dự án sử dụng đất thì nhà nước cũng đã cân nhắc lợi ích mang lại sau khi thực hiện dự
án, dự án là nhằm phát triển kinh tế - xã hội, mang lại lợi ích cho người dân. Vì vậy
không có ly gì để cho những người phải trả lại đất để thực hiện dự án bị thiệt hại mà
không đền bù cho họ.
Ngoài ra, họ không chỉ bị thiệt hại do không còn đất, không còn tài sản gắn với
đất mà họ còn mất chi phí để phá dỡ, di dời các tài sản đó. Để giúp họ nhanh chóng ổn
định lại cuộc sống và sản xuất. Nhà nước có thể hỗ trợ khó khăn trong việc phá dỡ các
công trình, hỗ trợ di chuyển và một số khó khăn khác
- Tính đa dạng: Mỗi một dự án được tiến hành trên một vùng đất khác nhau với
các điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau và trình độ dân trí khác nhau. Do đó công tác tổ
chức bồi thường cũng có những đặc trưng nhất định với từng vùng đất từng điều kiện
sống khác nhau trên khu đất đó. Các tài sản gắn trên đất cũng mang tính đa dạng cao, đa
dạng về mục đích sử dụng đa dạng về hình thức sở hữu các tài sản đó nên công tác định
giá trong công tác đền bù cũng mang tính đa dạng cao.
- Tính phức tạp thể hiện: Đất đai là tài sản có giá trị cao có vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế-xã hội với mọi người dân. Ở các khu vực nông thôn dân cư sống
chủ yếu nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh trên đất nông nghiệp mà đất đai là tư liệu
sản xuất quan trọng trong khi trình độ sản xuất người dân thấp khả năng chuyển đổi
nghề nghiệp khó khăn do đó tâm lí của người dân ta là giữ đất để sản xuất.
Trước tình hình đó dẫn đến công tác tuyên truyền vận động dân cư tham di chuyển
là rất khó khăn và việc hỗ trợ chuyển nghề nghiệp là điều cần thiết để đảm bảo đời sống
dân cư sau này. Mặt khác cây trồng vật nuôi trên vùng đất đó cũng rất đa dạng gây khó
khăn cho việc định giá
- Đối với hình thức đất ở lại càng phức tạp:
+ Đất ở là tài sản có giá trị lớn gắn bó với trực tiếp với đời sống và sinh hoạt của
người dân mà tâm lí tốp quần cư nông dân là ngại di chuyển. Xây dựng nhà trái phép
mua bán chuyển nhượng trái phép xảy ra nhiều nên gây rất nhiều khó khăn.
+ Dân cư sống bằng nghề buôn bán sống nhờ vào các trục đường giao thông nay
chuyển đến ở khu vực mới thì đời sống lại bị thay đổi mà không mong muốn.
+ Do chính sách pháp luật chưa phù hợp
Chính sự phức tạp này làm cho công tác đền bù càng trở nên phức tạp khó khăn
hơn
1.3 Bản chất và yêu cầu của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng
1.3.1 Bản chất của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng
Công tác đền bù giải phóng mặt bằng thực chất là trả lại mặt bằng xây dựng để có
thể xây dựng các công trình mới. Việc thực hiện giải phóng mặt bằng các dự án có sử
dụng đất đặc biệt là các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông đô thị thường làm cho
giá đất đai ở các khu vực xung quanh tăng lên rất cao. Việc giải phóng mặt bằng trong các
khu dân cư đông đúc còn làm ảnh hưởng tới mỹ quan, kiến trúc của đường phố đô thị.
Thông thường các dự án khục vụ kinh tế như xây dựng khu công nghiệp chế xuất thường
tập trung ở bên ngoài thành phố và thường lấy đất sản xuất nông nghiệp để làm mặt bằng
xây dựng. Còn các dự án thực hiện trong các khu dân cư đông đúc thường là phát triển cơ
sở hạ tầng mà chủ yếu là mở rộng đường giao thông trong thành phố. Khi các dự án mở
đường thực hiện, những hộ gia đình ở ngay sát đường cũ thường mất hết hoặc còn một
phần đất để lại. Do đó họ thường tận dụng để xây nhà hoặc xây các quán nhỏ kinh doanh,
hình thể này trông rất xấu như sự tự phát về kiến trúc , không có sự đồng bộ trong các
thiết kế ….Nó làm ảnh hưởng đến tới mỹ quan kiến trúc của đường phố. GPMB liên quan
đến việc thu hồi đất và bồi thường thiệt hại về đất và tài sản trên đất. Trong khi giá đất
hiện nay là rất cao và thường xuyên biến động. Mà các dự án thì thường phải dùng đến
một lượng mặt bằng khá lớn.Hơn thế nữa còn phải bồi thường các tài sản trên đất các
khoản chi phí liên quan đến công tá di dời và các khoản hỗ trợ khác như hỗ trợ chuyển
đổi nghề nghiệp tạo việc làm hỗ trợ ổn định đời sống hỗ trợ gia đình chính sách …Ngoài
ra còn có các chi phí liên quan đến việc triển khai thực hiện công tác bồi thường, GPMB.
Trong thực tế không ít dự án phải rơi vào chậm trễ hay khó khăn do thiếu vốn để thực
hiện công tác này.
1.3.2 Yêu cầu của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng
- Đảm bảo tiến độ nhanh chóng, kịp thời và chính xác.
Công tác GPMB được coi là một trong những bước đầu tiên của một dự án đầu tư
xây dựng, do đó đảm bảo nhanh chóng, kịp thời và chính xác trong công tác BT GPMB
là một yêu cầu cấp thiết và rất quan trọng.
Các dự án sẽ không thể thực hiện nếu không có được mặt bằng. Không những đảm
báo đến tiến độ thành công của các dự án mà còn ảnh hưởng rất lớn đến các vấn đề an
ninh chính trị xã hội.
Việc tiến hành GPMB đúng tiến độ còn giúp tiết kiệm chi phí, đẩy nhanh việc thi
công, đưa vào khai thác sử dụng đúng kế hoạch nhằm đạt được hiệu quả tối đa của dự
án tiết kiệm chi phí cho xã hội cho nhà nước.
- Đảm bảo công khai dân chủ và công bằng
Công khai và dân chủ nghĩa là phải công khai các văn bản pháp lý, các chế độ
chính sách BT và HT, các phương án BT và HT đã được các cấp có thẩm quyền phê
duyệt với mục đích để dân biết, dân tin vào chủ trương thu hồi đất của các cấp có thẩm
quyền và phương án phê duyệt của Hội đồng GPMB. Từ đó tạo niềm tin trong nhân dân
và khiến người dân tự giác thực hiện.
Công bằng có nghĩa là phải đảm bảo tính công bằng trong các phương án bồi
thường cho người bị thu hồi đất không được ưu tiên cho người này người khác mà phải
làm theo các quy định của chính sách của nhà nước.
Mặt khác, việc thực hiện tốt công bằng, công khai và dân chủ sẽ tránh được những
tiêu cực của một số cán bộ trong việc thực hiện BT, thu hồi đất GPMB tạo niềm tin cho
nhân dân.
- Đảm bảo hài hòa lợi ích cho các bên liên quan.
Công tác GPMB là một công tác khá phức tạp và rất nhạy cảm. Nó liên quan tới nhiều
cấp, ngành và đặc biệt là người dân. Do đó đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên liên quan
là một yêu cầu quan trọng trong công tác BT GPMB. Khi thực hiện hiện tốt yêu cầu này thì
có thể hạn chế các khiếu kiện của người bị thu hồi đất và sẽ đẩy nhanh tiến độ của công tác
bồi thường giai phóng mặt bằng.
- Đối tượng được bồi thường: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước có đất bị
thu hồi gọi chung là người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
1.4 Dự án đầu tư xây dựng
Dự án là một quá trình đơn nhất, gồm một tập hợp các hoạt động có phối hợp và
được kiểm soát, có thời hạn bắt đầu và kết thúc, được tiến hành để đạt được một mục
tiêu phù hợp với các yêu cầu quy định, bao gồm cả các ràng buộc về thời gian, chi phí
và nguồn lực.
Dự án là tập hợp một số giải pháp nhằm đật được mục tiêu nhất định trong mét
thời gian nhất định với giá thành quy định và chất lượng theo yêu cầu. Dự án đầu tư là
mét trong những dự án quan trọng nhất.
Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ. Về mặt hình thức; dự án đầu
tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và
chi phí theo mét kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu
nhất định trong tương lai.
Theo Nghị định 52/1999/NĐ- CP ngày 8/ 7/ 1999 của Chính phủ về việc ban hành
quy chế quản lý đầu tư và xây dựng thì dự án đầu tư được định nghĩa như sau:
Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo
mới, mở rộng và cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng
về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong
khoảng thời gian xác định.
Dự án đầu tư xây dựng công trình là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc bỏ
vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những công trình xây dựng nhằm mục đích
phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong một
khoảng thời gian nhất định. Dự án đầu tư xây dựng công trình bao gồm phần thuyết
minh và phần thiết kế cơ sở.
1.5 Sự cần thiết của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đối với các dự
án đầu tư xây dựng.
1.5.1 Giải phóng mặt bằng là yêu cầu tất yếu đối với các dự án xây dựng
Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế,văn hóa xã hội phát triển cơ sở hạ tầng thì
ngày càng có nhiều dự án đầu tư xây dựng được đưa vào thưc hiện.Trong khi quỹ đất
còn có hạn và do tính đặc thù của các dự án nên khi xây dựng đều phải chuẩn bị mặt
bằng. Vậy mặt bằng xây dựng là yếu tố hết sức cần thiết để có thể triển khai các dự an
xây dựng. Không có mặt bằng thì không thể triển khai được các dự án. Do đó giải phóng
mặt bằng là một yêu cầu tât yếu góp phần quan trọng cho việc thực hiện thành công các
dự án. Cũng như việc hoàn thành tiến độ xây dựng của các dự án nó là điều kiện kiên
quyết để dự án có thể thực hiện.
1.5.2 Giải phóng mặt bằng là một yêu cầu khách quan của quá trình đổi mới
Trong quá trình đổi mới thì nhu cầu xây dựng các cơ sở hạ tầng, các khu đô thị
mới các khu công nghiệp ngày càng phát triển. Với điều kiện quỹ đất hạn hẹp nên hầu
hết các diện tích đất đều đã được sử dụng. Do đó để thực hiện được các dự án trong quá
trình đổi mới thì một yêu cầu khách quan được đặt ra là mặt bằng để có thể thực hiện
được dự án. Trong quá trình đổi mới thì nhu cầu về nhà ở, bệnh viện, trường học các
dịch vụ vui chơi giải trí ngày càng cao nên công tác giải phóng mặt bằng để tạo quỹ đất
lại càng cần thiết. Gắn với sự phát triển đó thì hệ thống giao thông cũng cần được đầu
tư xây dựng mới và mở rộng các tuyến đường để đáp ứng nhu cầu đi lại, lưu thông hàng
hóa. Để thực hiện được điều đó thì chúng ta phải bồi thường, giải phóng mặt bằng để có
mặt bằng thực hiện các dự án giao thông. Vậy cùng với quá trình đổ mới phát triển của
đất nước thì công tác giải phóng mặt bằng có vai trò quan trọng và là một yêu cầu tất
yếu khách quan trong quá trình đổi mới.
1.5.3 Công tác giải phóng mặt bằng góp phần thực hiện quy hoạch sử dụng đất
đai nhằm sử dụng đất đai hiệu quả hơn
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai là một trong những công cụ thống nhất quản
lý đối với toàn bộ đất đai, đảm bảo đất đai được sử dụng hợp lý tiết kiệm và có hiệu quả.
Để thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đai hợp lý thì cần có sử chuyển đổi mục
đích sử dụng qua từng thời kỳ để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội nhất
nhằm mang lại lợi ích kinh tế cao nhất. Chúng ta sẽ thực hiện chuyển đổi đất có mục
đích kém hiệu quả sang những mục đích có hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội cao hơn.
Ví dụ như chúng ta chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang xây dựng các khu
công nghiệp để tạo ra giá trị kinh tế cao hơn rất nhiều lần so với sản xuất nông nghiệp.
Do đó công tác GPMB là yếu tố cần thiết không thể thiếu trong việc thực hiện quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Do các khu đô thị các khu dân cư, khu công nghiệp, nông
nghiệp, lâm nghiệp, hình thành và phát triển một cách tự nhiên thiếu sự đồng bộ nên
một số đất đai bị sử dụng lãng phí, kém hiệu quả. Nhà nước tiến hành sắp xếp bố trí lại
quy mô cơ cấu sử dụng đất thông qua các quy hoạch kế hoạch để sử dụng đất cho các
dự án cụ thể. Các dự án được đưa ra luôn nhằm mục đích là nâng cao hiệu quả sử dụng
đất đai cũng như tạo điều kiện sử dụng tốt hơn các nguồn lực khác trong vùng để thúc
đẩy kinh tế phát triển. Tóm lại công tác giải phóng mặt bằng góp phần thực hiện các quy
hoạch kế hoạch sử dụng đất nhằm tăng hiệu quả sử dụng đất đai góp phần phát triển
kinh tế xã hội.
1.6 Quản lý trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đối với các dự
án đầu tư xây dựng
Chương 2: Hiện trạng quản lý trong giai đoạn bồi thường giải phóng mặt
bằng của các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Tìm hiểu thực trạng chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai trong thời gian qua, tôi xin được chọn một số dự án có những đặc thù riêng
làm cơ sở phân tích, đánh giá.từ đó nêu lên những mặt đã đạt được, những hạn chế,
những tồn tại về mặt chính sách của Nhà nước hay quá trình thực hiện của cả chính
quyền địa phương cũng như người dân bị thu hồi, giải tỏa để cùng nhau tiến tới một mục
đích chung là công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, xây dựng xã hội công bằng- dân
chủ- văn minh; mà ở đó cuộc sống của người dân càng ngày càng được đảm bảo và nâng
cao.
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của tinh Đồng Nai.
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên
- Vị trí địa lý : Đồng Nai là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, có diện tích 5.903.940 km2, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước
và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ. Tỉnh có 11 đơn vị hành
chính trực thuộc gồm: Thành phố Biên Hòa - là trung tâm chính trị kinh tế văn hóa của
tỉnh; thị xã Long Khánh và 9 huyện: Long Thành; Nhơn Trạch; Trảng Bom; Thống
Nhất; Cẩm Mỹ; Vĩnh Cửu; Xuân Lộc; Định Quán; Tân Phú.
Là một tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam, Đồng Nai
tiếp giáp với các vùng sau: Phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận, Phía Đông Bắc giáp tỉnh
Lâm Đồng, Phía Tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh, Phía Tây Bắc giáp tỉnh Bình
Dương và Bình Phước, Phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Đồng Nai là tỉnh có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến giao thông huyết
mạch chạy qua như: quốc lộ 1A, quốc lộ 20, quốc lộ 51; tuyến đường sắt Bắc - Nam;
gần cảng Sài Gòn, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh tế trong vùng cũng như giao thương với cả nước đồng thời có vai trò gắn
kết vùng Đông Nam Bộ với Tây Nguyên.
- Địa hình : Tỉnh Đồng Nai có địa hình vùng đồng bằng và bình nguyên với những dải
núi rải rác, có xu hướng thấp dần theo hướng Bắc Nam. Có thể phân biệt các dạng địa
hình chính như sau:
a) Địa hình đồng bằng gồm 2 dạng:
- Các bậc thềm sông có độ cao từ 5 đến 10 m hoặc có nơi chỉ cao từ 2 đến 5 m
dọc theo các sông và tạo thành từng dải hẹp có chiều rộng thay đổi từ vài chục mét đến
vài km. Đất trên địa hình này chủ yếu là các Aluvi hiện đại.
- Địa hình trũng trên trầm tích đầm lầy biển: là những vùng đất trũng trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai với độ cao dao động từ 0,3 đến 2 m, có chỗ thấp hơn mực nước biển,
thường xuyên ngập triều, mạng lưới sông rạch chằng chịt, có rừng ngập mặn bao phủ.
Vật liệu không đồng nhất, có nhiều sét và vật chất hữu cơ lắng đọng.
b) Dạng địa đồi lượn sóng
Độ cao từ 20 đến 200m. Bao gồm các đồi Bazan, bề mặt địa hình rất phẳng,
thoải, độ dốc từ 30 đến 80. Loại địa hình này chiếm diện tích rất lớn so với các dạng
địa hình khác bao trùm hầu hết các khối Bazan, phù sa cổ. Đất phân bổ trên địa hình
này gồm nhóm đất đỏ vàng và đất xám.
c) Dạng địa hình núi thấp:
Bao gồm các núi sót rải rác và là phần cuối cùng của dãy Trường Sơn với độ
cao thay đổi từ 200 - 800m. Địa hình này phân bố chủ yếu ở phía Bắc của tỉnh thuộc
ranh giới giữa huyện Tân Phú với tỉnh Lâm Đồng và một vài núi sót ở huyện Định
Quán, Xuân Lộc. Tất cả các núi này đều có độ cao (20–300), đá mẹ lộ thiên thành cụm
với các đá chủ yếu là granit, đá phiến sét.
Nhìn chung đất của Đồng Nai đều có địa hình tương đối bằng phẳng, có 82,09%
đất có độ dốc < 80,92% đất có độ dốc <15o, các đất có độ dốc >15o chiếm khoảng 8%
- Đất đai :
Tỉnh Đồng Nai có quỹ đất phong phú và phì nhiêu. Tuy nhiên theo nguồn gốc và
chất lượng đất có thể chia thành 3 nhóm chung sau:
- Các loại đất hình thành trên đá Bazan: Gồm đất đá bọt, đất đen, đất đỏ có độ
phì nhiêu cao, chiếm 39,1% diện tích tự nhiên (229.416 ha), phân bố ở phía Bắc và
Đông Bắc của tỉnh. Các loại đất này thích hợp cho các cây công nghiệp ngắn và dài
ngày như: cao su, cà phê, tiêu…
- Các loại đất hình thành trên phù sa cổ và trên đá phiến sét như: đất xám, nâu
xám, loang lổ chiếm 41,9% diện tích tự nhiên (246.380 ha), phân bố ở phía Nam,
Đông Nam của tỉnh (huyện Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Biên Hoà, Long Thành, Nhơn
Trạch). Các loại đất này thường có độ phì nhiêu kém, thích hợp cho các loại cây ngắn
ngày như đậu, đỗ … một số cây ăn trái và cây công nghiệp dài ngày như cây điều …
- Các loại đất hình thành trên phù sa mới như: đất phù sa, đất cát. Phân bố chủ
yếu ven các sông như sông Đồng Nai, La Ngà. Chất lượng đất tốt, thích hợp với nhiều
loại cây trồng như cây lương thực, hoa màu, rau quả …
- Tổng diện tích toàn tỉnh có: 590.723 ha. Bao gồm: đất nông nghiệp: 277.641
ha; đất lâm nghiệp: 181.578 ha; đất chuyên dùng: 49.717 ha; đất ở: 16.763 ha; đất
chưa sử dụng: 897 ha; Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng: 52.715 ha.
- Tình hình sử dụng đất của tỉnh những năm qua có biến động ít nhiều, nhưng
đến nay, Đồng Nai vẫn là tỉnh có quy mô đất nông nghiệp lớn nhất Đông Nam Bộ.
- Khí hậu:
- Đồng Nai nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với khí hậu ôn
hòa, ít chịu ảnh hưởng của thiên tai, đất đai màu mỡ (phần lớn là đất đỏ Bazan), có hai
mùa tương phản nhau (mùa khô và mùa mưa).
- Nhiệt độ cao quanh năm là điều kiện thích hợp cho phát triển cây trồng nhiệt
đới, đặc biệt là các cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu cao.
- Nhiệt độ bình quân sơ bộ năm 2009 là: 25,90C
- Số giờ nắng trung bình trong sơ bộ năm 2009 là: 2.454 giờ
- Lượng mưa tương đối lớn và phân bố theo vùng và theo vụ tương đối lớn
khoảng 2.301,6mm phân bố theo vùng và theo vụ. Vì thế Đồng Nai đã sớm hình thành
những vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn và dài ngày, những vùng cây ăn quả
nổi tiếng, ... cùng với nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, tạo điều kiện thuận lợi cho
ngành du lịch phát triển.
- Độ ẩm trung bình sơ bộ năm 2009 là 82%
- Dân số:Dân số toàn tỉnh tính đến năm 2010 là 2.559.673 người. Trong đó:
- Phân theo khu vực thành thị - nông thôn là: Thành thị là: 855.703 người; Nông
thôn là 1.703.970 người.
- Phân theo giới tính: Nam: 1.270.120 người, chiếm 49,62%; Nữ:1.289.554
người, chiếm 50,38%.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2010 là 1,12%
2.1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội:
- Tổng sản phẩm quốc nội GDP của tỉnh tăng bình quân 13,2%/năm. Trong đó
ngành công nghiệp, xây dựng tăng 14,5%/năm, dịch vụ tăng 15%/năm, nông lâm
nghiệp thủy sản tăng 4,5%/năm. Quy mô GDP theo giá thực tế năm 2010 dự kiến đạt
75.137 tỷ đồng (tương đương 4,13 tỷ USD), gấp 2,5 lần năm 2005. GDP bình quân
đầu người năm 2010 là 29,65 triệu đồng (1.629USD), tăng gấp 2,1 lần năm 2005.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng, tỷ trọng các ngành công
nghiệp - xây dựng tăng từ 57% năm 2005 lên 57,2% năm 2010; dịch vụ từ 28% lên
34% và giảm ngành nông - lâm - thủy sản từ 14,9% xuống còn 8,7%. Cơ cấu lao động
cũng chuyển dịch mạnh theo hướng giảm tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp từ
45,5% năm 2005 xuống còn 30% năm 2010, lao động phi nông nghiệp tăng từ 54,5%
năm 2005 lên 70% năm 2010.
- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân là 17,2%/năm, cao hơn mức tăng của giai
đoạn 2001 - 2005.
- Tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bình quân 19,1%/năm. Trong 5
năm 2006 - 2010 huy động tổng vốn đầu tư phát triển xã hội đạt 121.500 tỷ đồng. Tốc
độ thu ngân sách bình quân 12,5%/năm, tổng thu ngân sách bình quân chiếm tỷ lệ
khoảng 23% GDP hàng năm.
- Trong 5 năm 2006 - 2010, đã phát triển thêm 11 khu công nghiệp, nâng tổng số
khu công nghiệp được thành lập trên địa bàn tỉnh lên 30 khu với diện tích 9.573 ha. Về
phát triển các cụm công nghiệp, đến cuối năm 2010 toàn tỉnh có 43 cụm công nghiệp
được quy hoạch với tổng diện tích là 2.143 ha trong đó có 2 cụm công nghiệp đã đầu
tư hoàn thiện hạ tầng, 6 cụm công nghiệp đang đầu tư hạ tầng số còn lại đang trong
quá trình bồi thường giải phóng mặt bằng và lập thủ tục đầu tư.
- Tỷ lệ thất nghiệp thành thị năm 2010 giảm xuống còn 2,6%. Cơ cấu lao động
năm 2010 là: khu vực công nghiệp - xây dựng 39,1%, khu vực dịch vụ 30,9%, khu vực
nông nghiệp 30%.
- Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đến cuối năm 2010 đạt 53%, tỷ lệ lao động qua
đào tạo nghề đạt 40%.
- Tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 100%. Kết quả xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia
đến năm 2010 là mầm non 12%, tiểu học 12%, THCS 15%, THPT 20%. Đến năm
2010, trên địa bàn tỉnh có 2 trường đại học, 9 trường cao đẳng, 6 trường trung cấp
chuyên nghiệp, 80 cơ sở dạy nghề với năng lực đào tạo trên 58.000 học viên.
- Cuối năm 2010, toàn tỉnh có 86% ấp, khu phố và 94% hộ gia đình đạt danh hiệu
ấp, khu phố, gia đình văn hóa; 98% cơ quan, đơn vị có đời sống văn hóa.
- Tỷ lệ hộ nghèo tính theo chuẩn năm 2006 đến cuối năm 2009 còn dưới 1%. Nuế
tính theo chuẩn 2009 của tỉnh đến cuối năm 2010 còn 4,27%.
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi cuối năm 2010 giảm còn 14,5%.
- Năm 2010, dự kiến toàn tỉnh có 257 cơ sở y tế. 100% xã, phường có trạm y tế, 100%
trạm y tế có nữ hộ sinh, 100% ấp, khu phố có nhân viên y tế được đào tạo và hưởng
chế độ trợ cấp của nhà nước. Toàn tỉnh có 19 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa và 13
phòng khám đa khoa khu vực với 5.675 giường bệnh, đạt 19 giường bệnh/vạn dân.
Toàn tỉnh có 5.703 cán bộ y tế, đạt 22,5 cán bộ y tế/vạn dân. Trong đó số bác sỹ là
1.267 người, đạt 5 bác sỹ/vạn dân.
- Tỷ lệ hộ dùng điện năm 2010 đạt 99%.
- Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch năm 2010 khu vực thành thị đạt 98%, khu vực
nông thôn 90%.
- Thu gom xử lý chất thải y tế đạt 100%; thu gom chất thải nguy hịa đạt 60%; thu
gom, xử lý rác thải sinh hoạt đạt 80%.
- Tỷ lệ độ che phủ cây xanh đến cuối năm 2010 đạt 54,3%, trong đó tỷ lệ độ che
phủ của rừng đạt 29,76%.
Nguồn nhân lực:
- Xem thêm -