Tuy nhiên bên cạnh đó, nguồn vốn FDI đầu tư vào địa bàn của tỉnh vẫn còn nhiều bất cập tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa thật sự hợp lý giữa các địa phương trong tỉnh, giữa các ngành sản xuất, nhất là tỷ lệ đầu tư vào các ngành có sự chênh lệch lớn, vì vậy đã làm mất cân đối trong cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Để phát huy vai trò của nguồn vốn FDI đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh một cách hợp lý và đúng hướng, cần nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của nó đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của địa phương. Trên cơ sở đó, xác định những quan điểm chỉ đạo sát, đúng với yêu cầu thực tiễn, đề ra những biện pháp cụ thể, khả thi nhằm phát huy vai trò của nguồn vốn FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương hiện nay, đây là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Vì những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương” làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế của các địa phương trong cả nước là rất lớn, có những tác động tích cực và cả những hạn chế của nó chính vì vậy đã có nhiều công trình khoa học, nhiều bài báo đề cập đến vấn đề này, trong đó liên quan trực tiếp đến đề tài có các công trình đáng chú ý sau:
Dưới dạng sách tham khảo và chuyên khảo có:
Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam của PGS, TS Nguyễn Khắc Thân, PGS, TS Chu Văn Cấp. Các tác giả đã chỉ ra xu hướng vận động của luồng tư bản đầu tư trực tiếp nước ngoài và thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trên cơ sở đó đề ra những giải pháp cơ bản về chính trị, kinh tế nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả.
Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam của TS Lê Xuân Bá chủ biên xuất bản năm 2006. Tác giả đã phân tích những tác động của FDI đến nền kinh tế Việt Nam từ năm 1988 đến nay, chỉ rõ vai trò của khu vực FDI với nền kinh tế nước ta. Bài viết đã đánh giá một cách tổng quan chính sách thu hút FDI ở Việt Nam, phân tích những quan điểm và so sánh chính sách thu hút FDI hiện hành với các nước trong khu vực từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thu hút FDI trong thời gian tới.
1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
ĐỐI VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NGÀNH Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG
Chuyên ngành: Kinh tế kế hoạch và đầu tư
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi Luật Đầu tư (1987) có hiệu lực, đất nước ta đã có những bước
phát triển mới cả về tư duy và hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta đã
dần chuyển đổi mô hình kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường năng
động và phù hợp hơn. Chính vì vậy đã tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi
cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đặc biệt đối với nền kinh tế
còn thiếu nhiều điều kiện và các yếu tố cấu thành nền kinh tế, các doanh
nghiệp trong nước còn non trẻ, chưa đủ mạnh thì nguồn vốn từ đầu tư nước
ngoài đã giúp chúng ta giải bài toán trong tình trạng khó khăn đó, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “ Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các
thành phần khác. Thu hút đầu tư nước ngoài là chủ trương quan trọng, góp
phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế,
tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH phát triển của
đất nước”. Trong các nguồn đầu tư nước ngoài thì đầu tư trực tiếp nước
ngoài(FDI) là nguồn vốn quan trọng, là động lực lớn của quá trình phát
triển kinh tế xã hội của nước ta trong suốt 29 năm qua. Thực tiễn 30 năm
đổi mới có thể khẳng định đóng góp của FDI vào sự tăng trưởng của nền
kinh tế của nước ta với con số không hề nhỏ, tạo sự chuyển biến lớn thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Bình Dương luôn
được đánh giá là một trong những tỉnh miền Đông Nam bộ có tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá cao, thực tế cho thấy Bình Dương có nền kinh tế phát triển
năng động, có chính sách thu hút vốn đầu tư khá hiệu quả và môi trường đầu
3
tư không ngừng được cải thiện. Chính vì vậy trong những năm qua Bình
Dương luôn là một trong những địa phương đi đầu và đạt được những kết quả
quan trọng trong thu hút đầu tư nước ngoài ngay từ khi có chủ trương của
Đảng và Nhà nước. Nguồn vốn này đã tạo nên bước đột phá trong phát triển
kinh tế, tác động tích cực đến cán cân xuất nhập khẩu, đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng GDP của địa phương, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
hiện đại, mở ra nhiều ngành, nghề sản xuất mới, xây dựng và phát triển các
khu công nghiệp công nghệ cao, giúp mở rộng thị trường và nâng cao kim
ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh. Đồng thời, giúp các cơ sở kinh tế, các doanh
nghiệp của Bình Dương tiếp nhận được công nghệ và phương pháp quản lý
hiện đại, tạo nhiều việc làm, góp phần tăng thu nhập cho người lao động và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của địa phương.
Tuy nhiên bên cạnh đó, nguồn vốn FDI đầu tư vào địa bàn của tỉnh vẫn
còn nhiều bất cập tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa thật sự hợp lý
giữa các địa phương trong tỉnh, giữa các ngành sản xuất, nhất là tỷ lệ đầu tư
vào các ngành có sự chênh lệch lớn, vì vậy đã làm mất cân đối trong cơ cấu
đầu tư, cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Để phát huy vai trò của nguồn vốn FDI đối với chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành của tỉnh một cách hợp lý và đúng hướng, cần nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiễn về vai trò của nó đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành của địa phương. Trên cơ sở đó, xác định những quan điểm chỉ
đạo sát, đúng với yêu cầu thực tiễn, đề ra những biện pháp cụ thể, khả thi
nhằm phát huy vai trò của nguồn vốn FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành ở tỉnh Bình Dương hiện nay, đây là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về lý
luận và thực tiễn. Vì những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Vai trò đầu tư
trực tiếp nước ngoài đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình
Dương” làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành kinh tế chính trị.
4
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế của các địa phương trong cả
nước là rất lớn, có những tác động tích cực và cả những hạn chế của nó chính
vì vậy đã có nhiều công trình khoa học, nhiều bài báo đề cập đến vấn đề này,
trong đó liên quan trực tiếp đến đề tài có các công trình đáng chú ý sau:
Dưới dạng sách tham khảo và chuyên khảo có:
Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam của PGS, TS Nguyễn Khắc Thân, PGS, TS
Chu Văn Cấp. Các tác giả đã chỉ ra xu hướng vận động của luồng tư bản đầu
tư trực tiếp nước ngoài và thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trên cơ sở đó đề ra những giải pháp cơ bản về chính trị, kinh tế
nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả.
Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam của TS Lê Xuân Bá chủ biên xuất bản năm 2006. Tác giả đã phân
tích những tác động của FDI đến nền kinh tế Việt Nam từ năm 1988 đến nay,
chỉ rõ vai trò của khu vực FDI với nền kinh tế nước ta. Bài viết đã đánh giá
một cách tổng quan chính sách thu hút FDI ở Việt Nam, phân tích những
quan điểm và so sánh chính sách thu hút FDI hiện hành với các nước trong
khu vực từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thu hút FDI
trong thời gian tới.
Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Chính sách và
thực tiễn do PGS.TS. Phùng Xuân Nhạ chủ biên, được Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2007, biên soạn trên cơ sở kết quả nghiên cứu
của đề tài đặc biệt cấp Đại học Quốc gia Hà Nội Các hình thức đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Nội dung cơ bản của cuốn sách này bao hàm cơ
sở lý luận và thực tiễn của lựa chọn các hình thức FDI ở Việt Nam; các hình
thức FDI theo luật đầu tư ở Việt Nam; thực trạng các hình thức ĐTNN ở Việt
5
Nam và các đề xuất, khuyến nghị chính sách đối với từng hình thức FDI ở
Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Dưới dạng luận văn, luận án có các công trình:
Những tác động trái chiều của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến đời
sống kinh tế - xã hội ở Đồng Nai hiện nay của tác giả Nguyễn Thị Nga, luận
văn thạc sĩ kinh tế, bảo vệ tại Học viện Chính trị năm 2011. Công trình đã
luận giải một số vấn đề lý luận, thực tiễn về FDI và tác động của nó đối với
sự phát triển KT - XH ở quốc gia nhận đầu tư, phân tích những tác động trái
chiều của FDI đến đời sống KT - XH ở Đồng Nai. Trên cơ sở đó, đề xuất một
số quan điểm chỉ đạo, giải pháp cơ bản hạn chế mặt trái của FDI đối với sự
phát triển KT - XH ở Đồng Nai trong thời gian tới.
Phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay
của tác giả Phạm Duyên Minh, luận văn thạc sĩ kinh tế, bảo vệ tại Học viện
Chính trị năm 2009. Công trình này đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, phân tích thực trạng phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở
tỉnh Bắc Ninh. Từ đó, đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Bắc Ninh trong thời gian tới.
Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã
hội ở Hải Dương của tác giả Nguyễn Quang Tạo luận văn thạc sĩ kinh tế, bảo
vệ tại Học viện Chính trị năm 2013. Công trình này đã làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài, phân tích thực
trạng tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội
đồng thời đưa ra những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu phát huy
những tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương.
6
Dưới dạng các tạp chí có công trình:
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam dưới tác động
của hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu của tác giả
Nguyễn Quốc Toản, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 877- 11/2015[ Tr8-11].
Tác giả đã phân tích và đưa ra những nhận định về hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở nước ta dưới tác động của hiệp định thương mại tự do. Bài viết
đã đánh giá thực trạng bất cập của FDI đối với nền kinh tế nước ta đồng thời
đưa ra một số giải pháp nhằm nhận diện cũng như tháo gỡ những bất cập và
tồn tại của FDI trong thời gian tới.
"Tổng kết 20 năm Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” của tác giả
Phan Hữu Thắng, đăng trên Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 1/2008 đã khái
quát kết quả FDI ở Việt Nam 20 năm qua; đánh giá tác động của ĐTNN trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường; đồng thời nêu ra một số vấn đề có
tính định hướng thu hút ĐTNN giai đoạn 2006 - 2010 ở nước ta.
“Thực trạng và triển vọng phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam ” của tác giả Hồ Thanh Thuỷ, công bố trên Tạp chí Kinh tế châu
Á - Thái Bình Dương, số 23/2005 đã khái quát kết quả đạt được và những
mặt tồn tại, hạn chế của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN sau 17 năm thực hiện
Luật ĐTNN; nêu dự báo về khả năng cải thiện môi trường đầu tư và triển
vọng thu hút ĐTNN của Việt Nam trong thời gian tới.
Ngoài ra, có thể tìm thấy nhiều bài viết trong đó đăng tải: những ý
kiến nhận định, những số liệu thực tiễn, những chính sách, các quyết định về
hoạt động của FDI trên các trang website của Tỉnh ủy Bình Dương, Sở Kế
hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương… với những tiêu đề phong phú, đa dạng.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập một
cách hệ thống, toàn diện về vai trò của FDI đối với CDCCKT ngành trên địa bàn
tỉnh Bình Dương. Điều này đồng nghĩa với việc khẳng định sự không trùng lắp
về hướng nghiên cứu của tác giả với các công trình khoa học đã được công bố.
7
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi của khóa luận
* Mục đích:
Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn về vai trò của
FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm và đề xuất một số giải pháp nhằm
phát huy vai trò của FDI đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh
Bình Dương.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của FDI đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
- Phân tích tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Bình Dương
trong thời gian vừa qua.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy vai trò của FDI đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh
Bình Dương.
* Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu những vai trò của FDI đến sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu FDI và vai trò của nó đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành ở tỉnh Bình Dương.
Các số liệu điều tra, khảo sát được thực hiện chủ yếu từ năm 2011 đến
năm 2015.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận
Khóa luận dựa trên lý luận kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
8
phát huy sức mạnh của thời đại, về hội nhập kinh tế quốc tế; Nghị quyết của
Đảng bộ tỉnh Bình Dương về thu hút đầu tư nước ngoài và phát huy vai trò
của nguồn FDI vào phát triển kinh tế ngành của tỉnh.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, luận văn sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị
Mác – Lênin và các phương pháp khác như: kết hợp lôgíc và lịch sử, phân
tích và tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
5. Ý nghĩa của khóa luận
Khóa luận được nghiên cứu thành công là đóng góp nhỏ đối với việc
hoạch định chủ trương, chỉ đạo, quản lý hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Dương và có thể tham khảo đối với các địa
phương khác. Đồng thời, cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy môn kinh tế chính trị liên quan đến vấn đề đầu tư nước
ngoài và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Có thể phát triển thành hướng đề tài nghiên cứu ở cấp độ cao hơn.
6. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm: Mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; 15 danh mục tài
liệu tham khảo và 7 phụ lục.
9
Chương 1
VAI TRÒ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Một số vấn đề liên quan đến vai trò của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương
1.1.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài và các hình thức đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Bình Dương hiện nay
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Xuất khẩu tư bản và các hình thức xuất khẩu tư bản
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức của xuất khẩu tư bản, bởi
quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thế giới đã sảy ra quá trình
tích tụ và tập trung tư bản làm cho các nước công nghiệp phát triển đã tích luỹ
được những khoản tư bản khổng lồ làm tiền đề cho việc xuất khẩu tư bản và
đến giai đoạn chủ nghĩa độc quyền, xuất khẩu tư bản là một đặc điểm nổi bật
và trở thành sự cần thiết của chủ nghĩa tư bản. Đó là vì tư bản tài chính trong
quá trình phát triển đã xuất hiện cái gọi là " tư bản thừa". “Tình trạng thừa
này không phải là thừa tuyệt đối, mà là thừa tương đối, nghĩa là không tìm
được nơi có lợi nhuận cao ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật ở các nước này đã
dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi
nhuận”[7,tr.328]. Trong lúc ở nhiều nước kinh tế lạc hậu cần tư bản để mở
mang kinh tế và đổi mới kỹ thuật, nhưng chưa tích luỹ tư bản kịp thời. Vậy
xuất khẩu tư bản là đem tư bản ra nước ngoài, nhằm chiếm được giá trị thặng
dư và các nguồn lợi khác được tạo ra ở các nước nhập khẩu tư bản.
Ta đã thấy rằng việc xuất khẩu tư bản xuất hiện trong các nước tiên
tiến. Đây là vấn đề mang tính tất yếu khách quan của một hiện tượng kinh tế
10
khi mà quá trình tích luỹ và tập trung đã đạt đến một độ nhất định sẽ xuất hiện
nhu cầu ra nước ngoài. Đây cũng là quá trình phát triển sức sản xuất của xã hội
vươn ra thế giới, thoát khỏi khuôn khổ chật hẹp của quốc gia, hình thành quy
mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Theo Lê Nin, “các nước xuất khẩu tư bản
hầu như bao giờ cũng có khả năng thu được một số lợi nào đó” [6, tr. 90].
Chính đặc điểm này là nhân tố kích thích các nhà tư bản có tiềm lực hơn trong
việc thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Bởi vì khi mà nền công nghiệp đã phát
triển, đầu tư trong nước không còn có lợi nhuận cao nữa. Mặt khác các nước
lạc hậu hơn có lợi thế về đất đai, nguyên liệu, tài nguyên, nhân công… lại đưa
lại cho nhà đầu tư lợi nhuận cao, ổn định, tin cậy và giữ vị trí độc quyền
Theo Lê Nin, " xuất khẩu tư bản" là một trong năm đặc điểm kinh tế
của chủ nghĩa đế quốc, thông qua xuất khẩu tư bản, các nước tư bản phát triển
thực hiện việc bóc lột đối với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó:
Nhưng ông không phủ nhận vai trò của nó. Trong thời kỳ đầu của chính
quyền Xô Viết, Lê Nin chủ trương sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài và khi
đưa ra "chính sách kinh tế mới" đã nói rằng những người cộng sản phải biết
lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản,
thông qua hình thức " chủ nghĩa tư bản nhà nước". Theo quan điểm này nhiều
nước đã “chấp nhận phần nào sự bóc lột của chủ nghiã tư bản để phát triển
kinh tế, như thế có thể còn nhanh hơn là sự vận động tự thân của mỗi nước”.
Tuy nhiên việc "xuất khẩu tư bản" phải tuân theo pháp luật của các nước đế
quốc vì họ có sức mạnh kinh tế, còn ngày nay thì tuân theo pháp luật, sự điều
hành của mỗi quốc gia nhận đầu tư.
Các hình thức xuất khẩu tư bản
Xét về chủ sở hữu tư bản có: xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu
tư bản tư nhân.
11
Xét về hình thức đầu tư có: xuất khẩu tư bản trực tiếp(đưa tư bản ra
nước ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao) và xuất khẩu tư bản
gián tiếp(cho vay để thu lợi tức). Trong phạm vi khóa luận này tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu hình thức xuất khẩu trực tiếp(đầu tư trực tiếp), bao gồm cả
đầu tư về vốn, khoa học-kỹ thuật-công nghệ.
- Quan niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI)
Gần đây, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được nhiều tổ chức
kinh tế quốc tế đưa ra nhằm mục đích giúp các quốc gia hoạch định chính
sách kinh tế vĩ mô về FDI, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động tự do hóa thương
mại và đầu tư quốc tế cũng như sử dụng trong công tác thống kê quốc tế. Đầu
tư trực tiếp nước ngoài ngày nay đã trở thành hình thức đầu tư phổ biến và đã
được định nghĩa bởi các tổ chức kinh tế quốc tế cũng như luật pháp của các
quốc gia.
Theo Ủy ban thương mại và phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD):
“FDI là hoạt động đầu tư bao gồm mối quan hệ dài hạn, phản ánh lợi ích và
quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu
tư nước ngoài hoặc công ty mẹ nước ngoài) đối với một doanh nghiệp thường
trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh
nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước ngoài) ”[4, tr.11].
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): FDI được quan niệm là “Đầu tư có lợi
ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu tư hosting country) không phải tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước
đi đầu tư - source country) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh
nghiệp” [10, tr.350].
Hoa Kỳ là một trong những nước tiếp nhận đầu tư và tiến hành đầu
tư lớn nhất trên thế giới cũng đưa ra định nghĩa về FDI: FDI là bất kỳ dòng
vốn nào thuộc sở hữu đa phần của công dân hoặc công ty của nước đi đầu
12
tư có được từ việc cho vay hoặc dùng để mua sở hữu của doanh nghiệp
nước ngoài [10, tr.350].
Luật Đầu tư năm 2005 của Việt Nam không đưa ra khái niệm “đầu tư
trực tiếp nước ngoài” mà chỉ đưa ra các khái niệm “đầu tư”, “đầu tư trực
tiếp”, “đầu tư nước ngoài”:
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc
vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định
của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan [9, tr.1].
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư [9, tr.1].
Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư [9, tr.2].
Vốn đầu tư là tiền và tài sản khác để thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh[8, tr.10]. Vốn có thể là những tài sản hàng hoá như tiền vốn, đất đai,
nhà cửa, máy móc, thiết bị, hàng hoá hoặc tài sản vô hình như bằng sáng chế,
phát minh, nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kỹ thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết
thương mại…
Từ các khái niệm này có thể hiểu: FDI là một loại hình đầu tư quốc tế,
trong đó chủ đầu tư của một nền kinh tế đóng góp một số vốn hoặc tài sản đủ
lớn vào một nền kinh tế khác để sở hữu hoặc điều hành, kiểm soát đối tượng
họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận hoặc các lợi ích kinh tế khác. Hay
có thể hiểu FDI là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản
nào từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát
doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi.
Như vậy, FDI, xét theo định nghĩa pháp lý của Việt Nam, là hoạt động
bỏ vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam với điều kiện
họ phải tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó.
13
Xét về bản chất FDI khác (đối lập) với đầu tư gián tiếp nước ngoài;
đồng thời FDI là đầu tư thuộc kênh tư nhân, khác hẳn với đầu tư tài trợ
(ODA) của Chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế.
Về mặt kinh tế: FDI là một hình thức đầu tư quốc tế đặc trưng bởi quá
trình di chuyển tư bản từ nước này qua nước khác. FDI được hiểu là hoạt
động kinh doanh, một dạng kinh doanh quan hệ kinh tế có quan hệ quốc tế.
Về đầu tư quốc tế là những phương thức đầu tư vốn, tư sản ở nước ngoài để
tiến hành sản xuất kinh doanh dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và
những mục tiêu kinh tế, xã hội nhất định.
Về mặt nhận thức: Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự
khác biệt quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham
gia đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở sự di chuyển tư bản bắt
buộc phải vượt qua tầm kiểm soát quốc gia.
Vì vậy, FDI là hoạt động kinh doanh quốc tế dựa trên cơ sở quá trình
di chuyển tư bản giữa các quốc gia chủ yếu là do các pháp nhân và thể nhân
thực hiện theo những hình thức nhất định trong đó chủ đầu tư tham gia trực
tiếp vào quá trình đầu tư. Nguồn vốn đầu tư có thể là những tài sản hữu hình
như tiền vốn, đất đai, nhà cửa, máy móc, thiết bị, công nghệ, hàng hoá hoặc
tài sản vô hình như bằng thương hiệu, sáng chế, phát minh, nhãn hiệu hàng
hoá, bí quyết kỹ thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết thương mại, trình độ quản
lý của nhà đầu tư nước ngoài…
Tóm lại, qua nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của đầu tư
trực tiếp nước ngoài qua các thời kỳ có thể nhận thấy bản chất của đầu tư trực
tiếp nước ngoài là nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích đầu tư hay tìm kiếm lợi
nhuận ở nước tiếp nhận đầu tư thông qua di chuyển vốn từ nước đi đầu tư đến
nước tiếp nhận đầu tư. Nhà đầu tư nước ngoài ở đây bao gồm tổ chức hay cá
14
nhân chỉ mong muốn đầu tư khi cho rằng khoản đầu tư đó có thể đem lại lợi
ích hoặc lợi nhuận cho họ.
Đặc điểm của FDI
Thứ nhất,gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các loại
tài sản khác giữa các quốc gia, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của
nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư và làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi
đầu tư.
Thứ hai,được tiến hành thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh
nghiệp mới (liên doanh hoặc sở hữu 100% vốn), hợp đồng hợp tác kinh
doanh, mua lại các chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở
mức khống chế hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng
doanh nghiệp.
Thứ ba,nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu hoàn toàn vốn đầu tư
hoặc cùng sở hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất định đủ mức tham gia quản lý
trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ tư,là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan
hệ thị trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan hệ chính
trị giữa các nước, các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao.
Thứ năm,nhà đầu tư trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận
động của dòng vốn đầu tư.
Thứ sáu,FDI bao gồm hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước
và đầu tư từ trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào
một nước và dòng vốn di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước đó.
Thứ bảy, FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện.
Các đặc điểm nêu trên mang tính chất chung cho tất cả các hoạt động
FDI trên toàn thế giới. Đối với Việt Nam, quá trình tiếp nhận FDI diễn ra đã
được gần 30 năm và những đặc điểm nêu trên cũng đã thể hiện rõ nét. Chính
15
những đặc điểm này đòi hỏi thể chế pháp lý, môi trường và chính sách thu hút
FDI phải chú ý để vừa thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư, vừa bảo đảm mối quan
hệ cân đối giữa kênh đầu tư FDI với các kênh đầu tư khác của nền kinh tế.
* Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Bình Dương
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức truyền
thống và phổ biến của FDI. Với hình thức này, các nhà đầu tư, cùng với việc
chú trọng khai thác những lợi thế của địa điểm đầu tư mới, đã nỗ lực tìm cách
áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý trong hoạt
động kinh doanh để đạt hiệu quả cao nhất. Hình thức này phổ biến ở quy mô
đầu tư nhỏ nhưng cũng rất được các nhà đầu tư ưa thích đối với các dự án quy
mô lớn. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư theo hình thức
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và họ thường thành lập một công ty con
của công ty mẹ xuyên quốc gia.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thuộc sở hữu của nhà đầu
tư nước ngoài nhưng phải chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại (nước
nhận đầu tư). Là một pháp nhân kinh tế của nước sở tại, doanh nghiệp phải
được đầu tư, thành lập và chịu sự quản lý nhà nước của nước sở tại. Doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài tại nước chủ nhà, nhà đầu tư phải tự quản lý, tự chịu trách
nhiệm về kết quả kinh doanh. Về hình thức pháp lý, dưới hình thức này, theo
Luật Doanh nghiệp 2005, có các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn,
doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần…
Hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài có ưu điểm là nước chủ nhà
không cần bỏ vốn, tránh được những rủi ro trong kinh doanh, thu ngay được
tiền thuê đất, thuế, giải quyết việc làm cho người lao động. Mặt khác, do độc
lập về quyền sở hữu nên các nhà đầu tư nước ngoài chủ động đầu tư và để
16
cạnh tranh, họ thường đầu tư công nghệ mới, phương tiện kỹ thuật tiên tiến
nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao, góp phần nâng cao trình độ tay nghề
người lao động. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước chủ nhà khó tiếp nhận
được kinh nghiệm quản lý và công nghệ, khó kiểm soát được đối tác đầu tư
nước ngoài và không có lợi nhuận.
Tính đến hết năm 2015, tại Bình Dương, doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài có 1.315 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký đầu tư gần
13 tỷ USD chiếm 65% vốn đầu tư [11, tr.78].
- Thành lập doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngoài
Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ trước tới nay.
Hình thức này cũng rất phát triển ở Việt Nam nói chung và ở Bình Dương nói
riêng, nhất là giai đoạn đầu thu hút FDI. Doanh nghiệp liên doanh là doanh
nghiệp được thành lập tại nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa
Bên hoặc các Bên nước chủ nhà với Bên hoặc các Bên nước ngoài để đầu tư
kinh doanh tại nước sở tại.
Như vậy, hình thức doanh nghiệp liên doanh tạo nên pháp nhân đồng
sở hữu nhưng địa điểm đầu tư phải ở nước sở tại. Hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp liên doanh phụ thuộc rất lớn vào môi trường kinh doanh của
nước sở tại, bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, mức độ hoàn thiện pháp
luật, trình độ của các đối tác liên doanh của nước sở tại... Hình thức doanh
nghiệp liên doanh có những ưu điểm là góp phần giải quyết tình trạng thiếu
vốn, nước sở tại tranh thủ được nguồn vốn lớn để phát triển kinh tế nhưng lại
được chia sẻ rủi ro; có cơ hội để đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm;
tạo cơ hội cho người lao động có việc làm và học tập kinh nghiệm quản lý của
nước ngoài; Nhà nước của nước sở tại dễ dàng hơn trong việc kiểm soát được
đối tác nước ngoài. Về phía nhà đầu tư, hình thức này là công cụ để thâm
17
nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và hiệu quả, tạo thị trường
mới, góp phần tạo điều kiện cho nước sở tại tham gia hội nhập vào nền kinh
tế quốc tế. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là thường dễ xuất hiện
mâu thuẫn trong điều hành, quản lý doanh nghiệp do các bên có thể có sự
khác nhau về chế độ chính trị, phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa,
ngôn ngữ, luật pháp. Nước sở tại thường rơi vào thế bất lợi do tỷ lệ góp vốn
thấp, năng lực, trình độ quản lý của cán bộ tham gia trong doanh nghiệp liên
doanh yếu.
Tính đến hết năm 2015, tại Bình Dương, thành lập doanh nghiệp liên
doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài có 950 dự án
được cấp phép với tổng số vốn đăng ký đầu tư gần 4 tỷ USD chiếm 20% vốn
đầu tư [11, tr.78].
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các
nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm
mà không thành lập pháp nhân
Hình thức đầu tư này có ưu điểm là giúp giải quyết tình trạng thiếu
vốn, công nghệ; tạo thị trường mới, bảo đảm được quyền điều hành dự án
của nước sở tại, thu lợi nhuận tương đối ổn định. Tuy nhiên, nó có nhược
điểm là nước sở tại không tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý; công nghệ
thường lạc hậu; chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh vực dễ sinh lời.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh không thành lập pháp nhân
riêng và mọi hoạt động BCC phải dựa vào pháp nhân của nước sở tại. Do đó,
về phía nhà đầu tư, họ rất khó kiểm soát hiệu quả các hoạt động BCC. Tuy
nhiên, đây là hình thức đơn giản nhất, không đòi hỏi thủ tục pháp lý rườm rà
nên thường được lựa chọn trong giai đoạn đầu khi các nước đang phát triển
18
bắt đầu có chính sách thu hút FDI. Khi các hình thức 100% vốn hoặc liên
doanh phát triển, hình thức BCC có xu hướng giảm mạnh.
Tính đến hết năm 2015, tại Bình Dương, đầu tư theo hình thức hợp
đồng hợp tác kinh doanh có 24 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký
đầu tư gần 920 triệu USD chiếm 2% vốn đầu tư [11, tr.78].
- Hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT
BOT là hình thức đầu tư được thực hiện theo hợp đồng ký kết giữa
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng,
kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định; hết thời
hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước
Việt Nam.
BTO và BT là các hình thức phái sinh của BOT, theo đó quy trình đầu
tư, khai thác, chuyển giao được đảo lộn trật tự.
Hình thức BOT, BTO, BT có các đặc điểm cơ bản: một bên ký kết
phải là Nhà nước; lĩnh vực đầu tư là các công trình kết cấu hạ tầng như đường
sá, cầu, cảng, sân bay, bệnh viện, nhà máy sản xuất, điện, nước...; bắt buộc
đến thời hạn phải chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước.
Ưu điểm của hình thức này là thu hút vốn đầu tư vào những dự án kết
cấu hạ tầng, đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn trong thời gian dài, làm giảm
áp lực vốn cho ngân sách nhà nước. Đồng thời, nước sở tại sau khi chuyển
giao có được những công trình hoàn chỉnh, tạo điều kiện phát huy các nguồn
lực khác để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, hình thức BOT có nhược điểm là độ
rủi ro cao, đặc biệt là rủi ro chính sách; nước chủ nhà khó tiếp nhận kinh
nghiệm quản lý, công nghệ.
Tính đến hết năm 2015, tại Bình Dương, đầu tư theo hình hình thức
hợp đồng BOT, BTO, BT có 80 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký
đầu tư 1.07 tỷ USD chiếm 5.5% vốn đầu tư [11, tr.78].
19
- Đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp
Đây là hình thức thể hiện kênh đầu tư Cross - border M & As. Khi thị
trường chứng khoán phát triển, các kênh đầu tư gián tiếp (FPI) được khai
thông, nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phần, mua lại các doanh
nghiệp ở nước sở tại, nhiều nhà đầu tư rất ưa thích hình thức đầu tư này.
Ở đây, về mặt khái niệm, có vấn đề ranh giới tỷ lệ cổ phần mà nhà đầu
tư nước ngoài mua - ranh giới giúp phân định FDI với FPI. Khi nhà đầu tư
nước ngoài tham gia mua cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán
nước sở tại, họ tạo nên kênh đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI). Tuy nhiên, khi
tỷ lệ sở hữu cổ phiếu vượt quá giới hạn nào đó cho phép họ có quyền tham
gia quản lý doanh nghiệp thì họ trở thành nhà đầu tư FDI. Luật pháp Hoa Kỳ
và nhiều nước phát triển quy định tỷ lệ ranh giới này là 10%. Đối với Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, tỷ lệ này được quy định là 30%.
Hình thức mua cổ phần hoặc mua lại toàn bộ doanh nghiệp có ưu
điểm cơ bản là để thu hút vốn và có thể thu hút vốn nhanh, giúp phục hồi hoạt
động của những doanh nghiệp bên bờ vực phá sản. Nhược điểm cơ bản là dễ
gây tác động đến sự ổn định của thị trường tài chính. Về phía nhà đầu tư, đây
là hình thức giúp họ đa dạng hoá hoạt động đầu tư tài chính, san sẻ rủi ro
nhưng cũng là hình thức đòi hỏi thủ tục pháp lý rắc rối hơn và thường bị ràng
buộc, hạn chế từ phía nước chủ nhà.
Tính đến hết năm 2015, tại Bình Dương, đầu tư theo hình hình thức
mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp có 246 dự án được cấp
phép với tổng số vốn đăng ký đầu tư gần 1.5 tỷ USD chiếm 7.5% vốn đầu tư
[11, tr.198].
Mỗi hình thức FDI đều có những đặc điểm riêng. Do vậy, cần phải đa
dạng hóa các hình thức FDI này sao cho phù hợp với cơ cấu chung của nền
kinh tế, quy hoạch phát triển lực lượng sản xuất của từng ngành, từng địa
20
phương với mục tiêu là huy động và phát huy một cách có hiệu quả nguồn vốn
FDI cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng và phát triển bền vững.
1.1.2 Vai trò của FDI đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở
tỉnh Bình Dương
Chúng ta đều biết rằng cơ cấu kinh tế ngành phản ánh trình độ phát
triển kinh tế của một tỉnh hoặc một quốc gia, với trình độ phát triển cao và
chiếm tỷ trọng lớn ở các ngành dịch vụ và công nghiệp được coi là chìa khóa
mở đường cho sự phát triển nền kinh tế. Vì vậy đối với nguồn vốn FDI trong
giai đoạn hiện nay có vai trò rất quan trọng góp phần tái cấu trúc nền kinh tế,
FDI làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với chiến lược CNH,
HĐH của tỉnh, thể hiện:
*FDI tạo ra sự phát triển ổn định, đúng hướng và đa dạng các ngành
kinh tế của tỉnh
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng và là một trong
những điều kiện tiên quyết để Bình Dương thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp
CNH, HĐH. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các ngành kinh tế
luôn giữ và ngày càng tăng qua các năm kể cả về số lượng và chất lượng.
Làm cho cơ cấu kinh tế ngành chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng dịch vụ,
giảm tỷ trọng nông nghiệp. Tính đến cuối năm 2015, cơ cấu kinh tế công
nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp đạt 60% - 37,3% - 2,7% (Nghị quyết 59% 38% - 3%), tương ứng cơ cấu mới là: công nghiệp 62,8% - dịch vụ 24% nông nghiệp 4%, thuế sản phẩm trừ nợ cấp sản phẩm 9,2%. GDP bình quân
đầu người là 95,6 triệu đồng/người [12. Tr 3].
Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, nguồn vốn đầu tư trong nước
hạn chế thì mức vốn FDI thực hiện trung bình khoảng 690 triệu USD/năm có
ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện cho tỉnh từng bước xây dựng cơ sở ban đầu
trong phát triển kinh tế - xã hội. FDI giai đoạn 2011- 2015 đạt 4.071,89 triệu
- Xem thêm -