MỤC LỤC
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ....................................................................................2
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI....................................................................................2
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU .........................................................................3
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU......................................................................3
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU...........................................................................3
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ...................................................................4
I. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU...................................................................................4
II. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH .............................................................................5
1. Thuận lợi.........................................................................................................6
2. Khó khăn …………………………………………………………………….6
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN…………………………………...………7
1.Khảo sát thực trạng đầu năm học ………………………...………………..…7
1.1. Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh……………………………………..8
1.2 Tình hình học tập……………………………………………………………9
2. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm………………………………………………11
3. Tổ chức các hoạt động trên lớp………………………………………..…….12
3.1 Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp và bồi dưỡng những phần tử tích cực……...12
3.2. Xây dựng nề nếp lớp học…………………….……………………………15
3.3. Xây dựng nề nếp xếp hang vào lớp và khi ra về…………………………..18
3.4. Xây dựng nề nếp chuẩn bị tập vở………………………………………….19
3.5. Xây dựng nề nếp học tập ………………………………………………….20
4. Giáo dục đạo đức…………………………………………………………….22
5. Hoạt động ngoài giờ lên lớp…………………………………………………23
6. Công tác xã hội hóa giáo dục kết hợp với các lực lượng giáo dục………….25
6.1. Phối hợp với tổ chức Đoàn – Đội ………………………………………...25
6.2. Phối hợp với các giáo viên bộ môn……………………………………….26
6.3. Phối hợp với Ban giám hiệu của trường và các lực lượng giáo dục khác..26
6.4. Phối hợp với gia đình học sinh ..................................................................27
7. Kết hợp linh hoạt, khéo léo các phương pháp dạy học……………………..28
8. Kết quả………………………………………………………………………29
PHẦN III.KẾT LUẬN .....................................................................................30
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM………………………………………………….30
II. KẾT LUẬN…………………………………………………………………30
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 1
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, việc đào
tạo thế hệ trẻ trở thành những người lao động có ích cho xã hội là việc làm cấp
bách và cần thiết, đòi hỏi sự dày công của người giáo viên, bởi yêu cầu ngày càng
cao của xã hội. Bên cạnh đó những tệ nạn xã hội đang tồn tại và diễn ra ngay
trước mắt các em nó cũng chính là động lực lôi cuốn các em vào những thói hư
tật xấu. Do đó, đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ, có năng lực phẩm chất
đạo đức tốt, tâm huyết với nghề, yêu thương tận tụy với học sinh. Muốn vậy phải
qua cả một quá trình lâu dài và có sự kết hợp của nhiều ngành, nhiều bộ phận có
liên quan. Trong đó, giáo dục đóng vai trò quan trọng vì mọi kiến thức, hành vi
và phẩm chất đạo đức được hình thành ở nhà trường đặc biệt là cấp tiểu học. Hơn
nữa giáo viên tiểu học là người đại diện cho nhà trường trực tiếp giảng dạy và
giáo dục các em học sinh, ngoài việc cung cấp kiến thức, văn hoá còn dạy các em
về nề nếp, cách sống, cách làm người và làm chủ tương lai của đất nước.
Từ nhận thức trên, người giáo viên chủ nhiệm lớp hết sức quan trọng trong
việc hướng dẫn, chỉ đạo lớp và đào tạo thế hệ trẻ theo mục đích giáo dục toàn
diện. Người giáo viên chủ nhiệm lớp đóng vai trò quan trọng: Vừa là thầy dạy
học vừa là người cha, người mẹ và cũng có lúc phải là người bạn tốt nhất của các
em. Từ đó có thể uốn nắn các em đi theo quỹ đạo của mình. Giáo viên có chỉ đạo,
quản lí lớp tốt thì mới dẫn đến việc giảng dạy tốt. Khi mọi hoạt động của lớp đã
đi vào nề nếp thì việc học tập của các em chắc chắn sẽ tốt hơn. Hơn thế nữa: Họ
là người thay mặt Hiệu trưởng quản lý, giáo dục toàn diện học sinh một lớp học,
là cố vấn cho những hoạt động tự quản của tập thể học sinh, người tổ chức phối
hợp các lực lượng trong giáo dục trong và ngoài nhà trường. Vì vậy tôi đã chọn
đề tài: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP ĐẠT
HIỆU QUẢ”
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 2
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua nhiều năm dạy học, đặc biệt với vai trò là giáo viên chủ nhiệm lớp 5.
Tôi thấy kết quả áp dụng thực tế của đề tài: “Một số biện pháp để công tác chủ
nhiệm lớp đạt hiệu quả” là rất tốt. Trong năm học 2012- 2013 tôi tiếp tục mở
rộng đề tài trên với mục đích:
- Kích thích sự phát triển mọi mặt, phát triển toàn diện học sinh lớp mình chủ
nhiệm.
- 100 % học sinh của lớp thực hiện đầy đủ năm nhiệm vụ của người học sinh.
- 100 % học sinh của lớp hoàn thành chương trình tiểu học với kết quả cao.
- Phát huy tối đa vai trò tự quản, tự học của từng học sinh và tập thể học sinh.
- Phát huy vai trò phối hợp của phụ huynh học sinh, giáo viên bộ môn trong
công tác giáo dục.
- Tạo sự đoàn kết một lòng trong tập thể học sinh.
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Để công tác chủ nhiệm lớp đạt hiệu quả cao, bản thân tôi đã thực hiện nghiên
cứu các biện pháp giáo dục cũng như các biện pháp phối hợp giáo dục của một
người giáo viên nói chung và người giáo viên chủ nhiệm nói riêng.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài: “Một số biện pháp để công tác chủ nhiệm lớp đạt hiệu quả”được
nghiên cứu và áp dụng tại lớp 5.1 trường Tiểu học Tân Hiệp, huyện Phú Giáo,
tỉnh Bình Dương trong nhiều năm học và đặc biệt là từ đầu năm học 2012 – 2013.
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 3
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Ngôi trường Tiểu học chính là ngôi nhà chung đầu đời của mỗi con người. Ở
nơi ấy, mỗi một thầy cô giáo lại là một người mẹ thứ hai dạy cho học sinh tất cả
những kiến thức đầu tiên, những kỹ năng đầu tiên, trang bị cho các em một hành
trang lớn để các em bước dần đến tương lai. Vậy, người thầy ở đây phải nắm giữ
một vai trò vô cùng quan trọng. Vai trò là một người dìu dắt, người hướng dẫn,
người ảnh hưởng và người trang bị cho học sinh tất cả về kiến thức và kỹ năng
sống hàng ngày của chính các em.
Một nét đặc thù ở cấp Tiểu học là mỗi giáo viên đứng lớp đều là một giáo
viên chủ nhiệm (loại trừ giáo viên bộ môn). Vì thế, để làm tốt công tác chủ nhiệm
lớp, theo tôi việc đầu tiên của mỗi giáo viên chủ nhiệm là phải nhận thức rõ về
vai trò chủ nhiệm của chính mình.
- Trước hết, người giáo viên chủ nhiệm phải là một người quản lý tốt, quản lý
chặt chẽ, cụ thể, chi tiết và toàn diện. Giáo viên chủ nhiệm phải có tri thức về
mọi mặt kể cả tri thức về tâm lý giáo dục. Giáo viên chủ nhiệm phải có kỹ năng
sư phạm, biết tiếp cận, phán đoán học sinh khéo léo và đúng đắn với học sinh
trong hoạt động dạy học và giáo dục.
- Người giáo viên chủ nhiệm phải là người cố vấn cho các hoạt động tự quản
của tập thể học sinh. Để phát huy tốt vai trò cố vấn giáo viên chủ nhiệm cần có
năng lực đánh giá và dự báo chính xác khả năng dự báo của học sinh, có khả
năng kích thích khả năng sáng tạo của các em, lôi cuốn tất cả học sinh tham gia
vào các hoạt động của lớp, hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch giáo dục toàn
diện, đồng thời theo dõi, giúp đỡ học sinh thực hiện kế hoạch đó. Lưu ý, cố vấn
không có nghĩa là khoán trắng hay đứng ngoài hoạt động của học sinh mà phải
cùng hoạt động, kịp thời giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn, tranh thủ các lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 4
sinh và tập thể học sinh tiến hành thành công các hoạt động, tạo động lực cho học
sinh trong những hoạt động tiếp theo.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối giữa tập thể học sinh với các lực lượng
giáo dục trong nhà trường. Đây là một việc không đơn giản, đòi hỏi giáo viên
chủ nhiệm chẳng những phải có trách nhiệm cao, say sưa với nghề, yêu thương
học sinh mà còn phải có năng lực thuyết phục, có khả năng thiết lập quan hệ tốt
đẹp với các lực lượng giáo dục, biết xây dựng và giữ gìn uy tín, có ý chí vượt
khó, không ngại thử thách, đặc biệt trong những trường hợp cần đấu tranh bảo vệ
quyền lợi chính đáng của học sinh, kiên định thực hiện lý tưởng giáo dục thế hệ
trẻ.
- Giáo viên chủ nhiệm là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục
ngoài nhà trường. Hiệu quả giáo dục học sinh phụ thuộc không nhỏ vào khả năng
phối hợp và phát huy tiềm năng của các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường (gia
đình, các đoàn thể xã hội, cộng đồng, dân cư, …) về mọi mặt nhằm thực hiện nội
dung giáo dục đối với lớp chủ nhiệm. Dựa vào đặc điểm, điều kiện của nhà
trường, lớp cộng đồng, gia đình học sinh mà giáo viên chủ nhiệm tổ chức phối
hợp các lực lượng giáo dục trên.
Giáo viên chủ nhiệm không chỉ biết cách phối hợp tốt với gia đình học sinh
mà còn là người tổ chức bồi dưỡng nhận thức lý luận giáo dục cho các bậc cha
mẹ khi cần thiết.
II. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân tôi thấy rằng: Sản phẩm giáo dục
mà chúng ta tạo ra không thể biết trước chính xác kết quả như bao sản phẩm của
ngành nghề khác. Vì vậy, để làm tốt công tác giáo dục chúng ta cần phải thật kiên
trì, nhẫn nại, chịu khó và phải chịu tốn nhiều thời gian, công sức để tìm hiểu tâm
tư nguyện vọng của học sinh và đặc biệt là phải có tấm lòng yêu thương, nhân ái
của người thầy.
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 5
Đầu năm học 2012 - 2013 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ
nhiệm lớp 51. Tuy trường nằm ở vùng dân cư phần lớn là người lao động chân
tay, trình độ văn hóa của người dân chưa cao nhưng được sự quan tâm của Ban
giám hiệu nên trường lớp khang trang, cơ sở vật chất đầy đủ tôi nhận thấy có
những điều kiện thuận lợi và khó khăn như sau:
1. Thuận lợi
- Đa số học sinh lớp tôi nhà gần trường. Hầu hết các em đi học đúng độ tuổi,
ngoan ngoãn, lễ phép.
- Trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy tương đối đầy đủ cho từng khối
lớp nên giờ học rất sinh động.
- Đội ngũ giáo viên luôn đoàn kết, có tinh thần trách nhiệm cao, thường
xuyên trao đổi và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cùng nhau dạy tốt.
- Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường tạo mọi điều kiện
thuận lợi để giáo viên an tâm công tác.
- Ban đại diện Hội phụ huynh học sinh của lớp, trường rất nhiệt tình gắn bó
với các hoạt động của nhà trường về mọi mặt, góp phần động viên CB – GV CNV nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình học sinh rất chặt chẽ.
2. Khó khăn
Là một trường nằm trên địa bàn xã, nên học sinh lớp tôi chủ yếu là con em
nông dân, công nhân cạo mủ, các em thiếu sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ,
nên đa số các em không có ý thức học tập.
Có những em rất ngoan, rất có ý thức, nhưng hoàn cảnh kinh tế gia đình lại
khó khăn, không có thời gian học tập, nên kết quả đạt được không cao.
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 6
Một số em gia đình có điều kiện đầy đủ cho các em nhưng các em lại ham
chơi, không chú ý học tập.
Còn có một số phụ huynh học sinh có tư tưởng khoán trắng cho nhà trường
và thầy cô trong việc giáo dục con em mình.
Một số em học yếu không có hứng thú học tập, rụt rè, không tự tin khi đến
lớp.
Vẫn không ít học sinh chưa chuẩn bị bài và đồ dùng học tập trước khi đến
lớp.
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
1. Khảo sát thực trạng đầu năm học
1.1 Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh
Nhà giáo dục học K.Đ.Usinxki nói: “Muốn giáo dục cho con người mọi mặt thì
phải hiểu con người về mọi mặt”. Công tác chủ nhiệm đòi hỏi phải hiểu học sinh
một cách đầy đủ, cụ thể và toàn diện nhằm có thể lựa chọn những tác động sư
phạm phù hợp, có khả năng mang lại hiệu quả cao nhất. Thực tiễn giáo dục đã
cho thấy nhiều trường hợp thất bại đáng tiếc của giáo viên thậm chí gây thương
tổn nặng nề cho cả hai phía do các thầy cô không hiểu biết đầy đủ về học sinh.
Hiểu học sinh còn là điều kiện cần trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp thuận lợi
giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh, là tiền đề cho việc hình thành tình cảm
thầy trò thông hiểu, gắn bó.
Năm học 2012 – 2013 này tôi được phân công chủ nhiệm lớp 51, sau khi nhận
lớp xong, tôi tiến hành điều tra lí lịch của từng học sinh. Vì muốn hiểu kĩ học
sinh, tôi phải biết rõ gia đình các em.
Lớp 51 có 27 học sinh trong đó có 16 học sinh nữ, 11 học sinh nam. Không có
học sinh lưu ban.
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 7
* Trước tiên, tôi tìm hiểu sơ lược về thành phần gia đình từng cá nhân học
sinh:
- Cha mẹ làm nông: 15/27
- Cha mẹ làm công nhân: 4/27
- Cha mẹ buôn bán: 2/27
- Cha mẹ làm thuê:2 /27
- Cha mẹ là viên chức nhà nước: 4/27
* Hoàn cảnh gia đình:
- Số học sinh sống cùng với bố mẹ: 25/27
- Số học sinh được sống cùng mẹ hoặc cha: 2 (do cha mẹ đã li dị )
* Sự quan tâm của mỗi gia đình đối với học sinh:
- 12 em có góc học tập riêng, số còn lại không có góc học tập riêng.
- 7 em được bố, mẹ hoặc anh chị kiểm tra, nhắc nhở việc học ở nhà.
- 27 em có đầy đủ sách vở và dụng cụ học tập.
*Về tình trạng sức khỏe:
- Sức khỏe bình thường: 24/27 học sinh.
- Nghe không tốt: 1/27 học sinh.
- Sức khỏe yếu: 2/ 27 học sinh.
Qua việc tìm hiểu trên có thể giúp tôi lựa chọn được những phương
pháp giáo dục phù hợp đối với từng học sinh. Đặc biệt, sau khi tìm hiểu được
hoàn cảnh của các em, tôi nhận thấy rằng muốn các em thật sự tin yêu và gắn bó
với mình thì bản thân tôi phải đến với các em bằng tấm lòng của người thầy,
bằng tình cảm của một người chị, của một người bạn. Vì trẻ em không phải em
nào cũng có tính cách giống nhau. Có em khi sai phạm ta phải hết sức nghiêm
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 8
khắc, nhưng cũng có em thì các hình thức trách phạt không phải là biện pháp tốt
để uốn nắn, sửa chữa mà ta lại phải mềm mỏng, nhẹ nhàng phân tích lỗi lầm của
trẻ mới nhận ra.
1.2 Tình hình học tập
Với học sinh, sau ba tháng nghỉ hè, quả là một khoảng thời gian khá dài
khiến các em quên đi kiến thức cũ. Chính vì lẽ đó mà tôi luôn phải có sự chắt lọc
kiến thức đầu năm chính xác, để có phương pháp giáo dục thích hợp nhất với sự
tiếp thu của từng học sinh.
- Kết hợp ngay trong tuần ổn định, tôi kiểm tra phần đọc và viết của học sinh
bằng các bài viết chính tả, đọc văn. Qua đó tôi thấy chữ viết của các em phần lớn
rất xấu, sai chính tả, nhiều em đọc bài rất chậm. Cụ thể như: Tài, Thịnh, Ngọc,
Long, Huy, Tưởng, Tiền.
Sau 1 tuần ổn định, tôi tiếp tục tiến hành kiểm tra kiến thức về Toán học,
dựa vào chương trình mà các em đã học ở lớp 4. Để nắm rõ tình hình học tập của
các em như thế nào? Kết quả như sau:
TSHS
27
Giỏi
Khá
TS
%
TS
%
0
0
4
14,8
Trung bình
TS
%
16
59,2
Yếu
TS
%
7
25,9
Từ kết quả trên, tôi nhận thấy phần lớn các em đã quên kiến thức cũ, có
những em không thực hiện được phép tính đơn giản, đặc biệt là nhân chia.
Bên cạnh đó, nề nếp lớp học không có, còn gây mất trật tự trong giờ học,
còn tình trạng học sinh làm việc riêng trong giờ học. Hơn nữa các em chưa tự ý
thức được các việc trong lớp cũng như nội quy ra vào lớp, nội quy của nhà trường
đề ra. Để ổn định học sinh và đưa nề nếp của các em đi vào quỹ đạo của mình là
điều rất khó và phải mất một thời gian dài mới ổn định được.
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 9
Ngay trong tuần đầu, tôi đã gặp gỡ giáo viên chủ nhiệm năm lớp 4, giáo viên
bộ môn, xem lại kết quả học tập của các em qua sổ chủ nhiệm, nghiên cứu sổ bàn
giao của năm học trước, đặc biệt là phần nhận xét của giáo viên trong việc theo
dõi quá trình học tập, nhằm có kế hoạch rèn luyện cho các em đạt kết quả cao
hơn. Tôi đã thống kê và phân loại như sau:
- Về mặt đạo đức: Bản thân đã điều tra học sinh trong lớp xem em nào đã
thực hiện đầy đủ năm nhiệm vụ của người học sinh, em nào chưa thực hiện đầy
đủ năm nhiệm vụ của người học sinh. Để có kế hoạch bồi dưỡng, giáo dục cho
các em.
- Về tình hình học tập trong giờ học trên lớp:
+ Học khá giỏi, hoạt bát, có ý thức xây dựng bài, ngoan ngoãn: (4 em )
+ Học khá, ngoan nhưng thụ động: (5 em)
+ Học trung bình, tiếp thu bài chậm, thụ động : (10 em)
+ Học còn yếu tính toán khá chậm (8 em). Trong trường hợp này có 3 em
hay nghỉ học không phép, đi học không chú ý theo dõi bài và làm bài, gây mất
trật tự trong lớp, còn nói tục; 5 em chữ viết sai lỗi chính tả nhiều lại rất ít chuẩn
bị bài ở nhà.
Biết được đặc điểm, tính cách, sức học của từng em, tôi đã tiến hành sắp xếp
chỗ ngồi cho phù hợp. Một em nghe kém ngồi phía trên gần bảng hơn những bạn
khác. Những em thấp, nhỏ ngồi trước, những em cao lớn ngồi phía sau. Tôi sắp
xen kẽ giữa những học sinh khá, giỏi là những học sinh trung bình, yếu. Đặc biệt
là những em nghịch được tôi bố trí ở chỗ tôi dễ quan sát và ngồi cạnh những em
hiền ngoan, lễ phép, chăm học để những em này có cơ hội học ở bạn những điều
mình chưa có.
Bản thân tôi luôn xác định rằng, tìm hiểu nắm vững đối tượng giáo dục
không phải là việc làm có thời hạn, chóng vánh trong một, hai ngày, cũng không
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 10
phải là công việc chỉ được tiến hành trong giai đoạn đầu mới nhận lớp mà phải là
công việc thường xuyên, liên tục trong suốt năm học sao cho có thể hiểu học sinh
một cách cập nhật, đầy đủ, toàn diện và sâu sắc nhất.
2. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp
Sau khi đã điều tra kỹ đối tượng học sinh, tôi bắt đầu xây dựng cho mình một
kế hoạch chủ nhiệm theo đặc điểm của lớp. Để đảm bảo có một kế hoạch hợp lý,
khả thi, khoa học, khi xây dựng kế hoạch chủ nhiệm tôi căn cứ vào những vấn đề
sau:
- Mục tiêu chương trình hành động chung của ngành và cấp học.
- Mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch giáo dục của trường.
- Đặc điểm của lớp chủ nhiệm (bao gồm các đặc điểm về truyền thống, tập
thể, những mặt khó khăn và thuận lợi cơ bản, hoàn cảnh, điều kiện của số đông
học sinh và gia đình học sinh, …).
- Mục tiêu, kế hoạch công tác của các tổ chức đoàn thể trong trường học.
- Đặc điểm tình hình của địa phương.
- Dự báo của giáo viên chủ nhiệm về khả năng phát triển từng mặt của lớp.
Kế hoạch chủ nhiệm phải thể hiện tính toàn diện, cụ thể, có trọng tâm, trọng
điểm của từng thời gian và từng mặt nội dung giáo dục.
Kế hoạch công tác chủ nhiệm được xây dựng theo các thời gian: kế hoạch
tuần, tháng, học kỳ và năm học. Sau khi họp đầu năm học, căn cứ vào chỉ đạo của
ngành và kế hoạch của nhà trường, tôi đề ra kế hoạch năm cho lớp mình chủ
nhiệm. Từ kế hoạch năm, tôi thực hiện phân tích và đưa ra kế hoạch từng tháng.
Ở mỗi tháng, theo thời gian từng tuần, tôi vạch ra kế hoạch cụ thể từng tuần học.
Trong kế hoạch chủ nhiệm của từng tuần, tôi luôn đưa ra dự kiến thời gian thực
hiện từng kế hoạch cụ thể, biện pháp thực hiện và kết quả thực hiện.
Kế hoạch chủ nhiệm càng khoa học thì khả năng thực hiện càng cao và vì
vậy mà bản kế hoạch này có khả năng quyết định to lớn đối với hiệu quả công tác
chủ nhiệm của tôi.
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 11
3. Tổ chức các hoạt động trên lớp học
3.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp và bồi dưỡng những phần tử tích cực
Muốn cho ngôi nhà vững vàng, chịu đựng được gió bão thì cái móng nhà
phải vững chắc. Lớp học cũng vậy, phải có ban cán sự lớp vững mạnh thì mọi
hoạt động, mọi phong trào chắc chắn sẽ thực hiện tốt. Qua một tuần tìm hiểu, ổn
định, bước tiếp theo tôi thực hiện ngay việc bình chọn ban cán sự lớp. Vì đây là
lực lượng nòng cốt cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện
nề nếp học tập của các bạn trong năm học. Để được ban cán sự “Đầu tàu gương
mẫu”, tôi đưa ra tiêu chuẩn lựa chọn là: những em học lực phải đạt giỏi – khá,
hạnh kiểm thực hiện đầy đủ, hăng hái tham gia các hoạt động, các phong trào ở
lớp, ở trường với tinh thần tự giác, có trách nhiệm cao và điều đặc biệt là những
em này luôn được bạn bè tín nhiệm, yêu thương. Để xây dựng đội ngũ cán bộ lớp
giáo viên chủ nhiệm tiến hành những công việc sau:
*Lựa chọn những phần tử tích cực phân công vào các chức danh trong đội
ngũ cán bộ lớp.
* Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng vị trí trong đội ngũ cán bộ lớp.
* Làm rõ nội dung công tác của từng cán bộ lớp và hướng dẫn cụ thể về
phương pháp công tác. Trong đó, cần lưu ý hướng dẫn các kỹ năng công tác cơ
bản như: cách ghi chép trong sổ ghi chép công tác, kỹ năng điều hành một buổi
sinh hoạt lớp, kỹ năng trình bày thuyết phục, vận động, kỹ năng tổ chức hoạt
động tập thể, …
* Hướng dẫn cho cán bộ lớp tổng kết, khái quát kinh nghiệm qua từng thành
công hay thất bại trong hoạt động thực tiễn.
* Thường xuyên kiểm tra, đánh giá hoạt động của cán bộ lớp, giúp các em
khắc phục khó khăn, động viên kịp thời những cố gắng của các em.
* Xây dựng, củng cố và bảo vệ uy tín của cán bộ lớp trước tập thể.
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 12
* Không bao che khuyết điểm. Tuyệt đối tránh tạo ra sự đối lập giữa cán bộ
lớp với các thành viên trong lớp.
Việc tổ chức bình chọn được thực hiện công khai bằng cách cho các em bỏ
phiếu tín nhiệm. Sau khi có trong tay danh sách ban cán sự lớp tôi tiến hành họp
và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng em theo đúng khả năng của mình. Biết
được nhiệm vụ cụ thể của ban cán sự, khi có thắc mắc hay trao đổi về vấn đề gì
liên quan đến hoạt động nào thì các bạn trong lớp sẽ trực tiếp gặp gỡ với bạn phụ
trách công việc đó nhanh hơn, tiện lợi hơn.
Cán sự lớp với công việc kiểm tra, sắp xếp đồ dùng bán trú.
+ Lớp trưởng (Uyển Nhi): chịu trách nhiệm bao quát chung các hoạt động
của lớp, điều khiển chung toàn lớp trong giờ tập trung sinh hoạt, kiểm diện hàng
ngày, tổng hợp các báo cáo hoạt động của tổ trong tuần nộp cho GVCN.
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 13
+ Lớp phó học tập (Quỳnh): nắm tình hình chung phần chuẩn bị bài, truy
bài đầu giờ của các tổ hàng ngày, tổng kết điểm thi đua trong tuần.
+ Lớp phó kỷ luật (Nguyễn Nhi): quản lý việc thực hiện nội quy lớp,
trường, ý thức kỷ luật của học sinh, …
+ Lớp phó văn thể mỹ (lớp phó phong trào): (Thư): Chịu trách nhiệm giờ
hát của lớp, cùng các bạn tham gia các tiết mục văn nghệ, tham gia các phong
trào của lớp, ...
+ Lớp phó lao động (Minh Quân): Chịu trách nhiệm về việc vệ sinh, lao
động.
+ Các cán sự bộ môn (Thư, Thịnh, Như, Đào): Hỗ trợ lớp phó học tập
trong phạm vi môn học mình phụ trách nhất là trong các hoạt động trau dồi kiến
thức và giúp bạn học tốt bộ môn.
+ Sao đỏ (Thanh, Lan Anh): Theo dõi tình hình thực hiện nội quy, quy
định của nhà trường đề ra hàng tuần, ghi nhận tính điểm, cuối tuần tổng kết, xếp
hạng
+ Tổ trưởng (Như, Nguyễn Nhi, Quân ), tổ phó (Hoàng Nhi, Sang): Chịu
trách nhiệm chung về nề nếp và học tập trong tổ của mình.
+ Nhóm trưởng (Hân, Quỳnh, Hoàng Nhi, Uyển Nhi, Thư, Lan Anh): Là
những thành viên có học lực và năng lực quản lý tốt nhất trong nhóm của mình
(Nhóm 4 thành viên, được chia ra từ tổ). Nhóm trưởng có trách nhiệm hướng dẫn
điều hành các hoạt động nhóm trong từng giờ học.
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 14
Giáo viên chủ nhiệm đang cùng học sinh thảo luận nhóm 4
Sau đó hằng ngày, hàng tuần, hàng buổi học ban cán sự lớp sẽ tiến hành
công việc như sau:
Đầu giờ (trước giờ truy bài đầu giờ): kiểm tra
những việc như sau: Soạn sách vở theo đúng thời khóa biểu, mang đầy đủ đồ
dùng học tập, đi học đúng giờ,… tổ trưởng chấm điểm thi đua trong tuần theo
quy định như sau: (vi phạm một nội dung trừ 2 điểm xấu)
Trong giờ học: theo dõi các bạn trong tổ thái
độ học tập, phát biểu xây dựng bài, đạt điểm cao trong học tập thì được cộng
điểm thưởng như sau: Đạt 10 điểm một môn thì được cộng 5 điểm tốt, phát biểu
xây dựng bài cộng 1 điểm/lần, nói chuyện trong giờ học thì bị trừ 2 điểm/lần.
Giáo viên chủ nhiệm chỉ đóng vai trò cố vấn cho các em, định hướng cho
các em hoạt động cùng các em tháo gỡ những vướng mắc khi thực hiện công
việc.
3.2. Xây dựng nề nếp lớp học
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 15
Trong học tập không những chỉ chú trọng rèn luyện cho học sinh bằng nhiều
hình thức khác nhau mà còn chú trọng khâu nề nếp ngay từ đầu năm như truy bài
đầu giờ, trật tự nghe giảng trong giờ học, trong lớp tổ tự quản kiểm tra bài tập về
nhà của các bạn trong tổ ... Vì nề nếp tốt là cực kì quan trọng, nó góp một phần
lớn quyết định kết quả học tập của học sinh. Chính vì thế ngay từ đầu năm học
giáo viên phải quán triệt nề nếp bằng cách:
- Cho cả lớp học nội quy lớp học, và mọi quy định của giáo viên. Nội quy
của nhà trường.
- Giáo viên hướng dẫn các em làm quen với kí hiệu của giáo viên để tập trung
sự chú ý của học sinh trong khi nghe giảng bài.
Ví dụ: Phía trên tay trái góc bảng ghi rõ lớp, sĩ số học sinh, dưới sĩ số là
các kí hiệu ở góc bảng: +, B, V, S
Chỉ vào + là cả lớp trật tự lắng nghe giáo viên giảng bài.
Khi viết kí hiệu B là cả lớp lấy bảng con cá nhân làm bài.
Khi viết kí hiệu S là học sinh mở sách, kí hiệu V là lấy vở ra để ghi hoặc
làm bài tập tại lớp. Sau khi học sinh làm xong thì giáo viên xoá các kí hiệu đó đi,
học sinh sẽ cất sách hoặc vở đi.
- Thường xuyên giáo dục các em có nề nếp tốt trong mọi hoạt động, sinh
hoạt ngoài giờ.
Ví dụ: Bắt đầu có trống báo là các em có mặt đầy đủ ở lớp để lớp trưởng,
lớp phó, tổ trưởng kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà sau đó các em ngồi vào truy
bài dưới sự chỉ đạo của lớp trưởng, tổ chức cho các em đi vào nề nếp truy bài, tuy
giáo viên không có mặt ở lớp các em vẫn làm tốt.
- Không phó mặc cho cán bộ lớp, giáo viên phải kiểm tra đột xuất 1, 2 bài
của học sinh trong mỗi tổ. Áp dụng biện pháp này đỡ tốn thời gian, không chiếm
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 16
mất giờ dạy mà còn rèn cho học sinh tính tự giác cao, đồng thời hạn chế việc mất
trật tự của các em khi chưa vào học.
- Giao quyền tự quản cho Ban cán sự lớp trong những hoạt động mà các
em đã được hướng dẫn để phát huy tính năng động cho học sinh (thể dục giữa
giờ, sinh hoạt đội, nhặt rác, …).
- Tuyên dương, nhắc nhở kịp thời với những cá nhân tiến bộ và chưa tiến
bộ trong việc thực hiện nề nếp chung của lớp. Ví dụ: Đi học đúng giờ, nghỉ học
phải xin phép. Các em đi học mặc đồng phục, vệ sinh cá nhân, để dép đúng nơi
quy định, … Từ đó tạo cho các em sự tự giác biết tự lo cho bản thân, tự giác học
tập, thi đua để tạo thành tích giữa các thành viên trong lớp và thi đua giữa các
khối lớp trong toàn trường.
Học sinh tự xếp dép theo nội quy lớp học.
Khi kết hợp chặt chẽ những hoạt động trên thì nề nếp lớp học sẽ đi vào
khuôn khổ và điều đó sẽ là một phần quan trọng giúp giáo viên tiến hành các hoạt
động học tập dễ dàng hơn.
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 17
3.3. Xây dựng nề nếp xếp hàng vào lớp và khi ra về
Học sinh xếp hàng vào lớp
Nề nếp này phải được tiến hành thường xuyên theo từng buổi học. Đây là nề
nếp mang tính trật tự, kỉ luật cần được duy trì suốt năm học. Để làm tốt công tác
này, tôi đã tiến hành từng bước như sau:
- Tôi quy định khi các em xếp hàng vào lớp các em đứng thành 3 hàng ứng
với 3 tổ (tổ trưởng đứng đầu, tổ phó đứng cuối).
- Tôi cho các em đánh số thứ tự cho mình trong buổi xếp hàng đầu tiên và
yêu cầu học sinh phải nhớ số thứ tự.
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 18
- Khi xếp hàng ra về các em xếp thành hàng đôi: Lớp trưởng đi đầu hàng,
tiếp theo là thành viên tổ 1 và thành viên tổ hai, ở hàng hai là lớp phó sẽ dẫn đầu
tổ 3 và phía sau là thành viên tổ.
- Mỗi khi xếp hàng vào lớp các em chỉ cần nhớ số thứ tự và vị trí của mình
mà vào ngay hàng ngũ. Cũng như khi ra về ban cán sự lớp đi xen kẽ như vậy để
nhắc nhở các bạn đi cho ngay ngắn, không chen lấn, xô đẩy, đùa giỡn gây mất
trật tự, ảnh hưởng đến thi đua của lớp. Bắt đầu từ tháng 11 về sau các em đã quen
dần và đi vào nề nếp.
Khi việc xếp hàng đã đi vào nề nếp thì thời gian tiến hành sẽ rất nhanh, tốn ít
thời gian và không gây mất trật tự trước lớp học.
3.4. Xây dựng nề nếp chuẩn bị tập vở
Thường ngày các em thường phải mang tất cả đồ dùng học tập mà các em có
đến lớp, đôi lúc cặp không còn chỗ chứa, rất nặng nề so với thể trạng của các em.
Nhưng bên cạnh đó còn một số em lại quên mang sách vở đã gây khó khăn cho
việc dạy – học. Vì thế tôi từng bước hướng dẫn các em mang sách, vở đúng theo
quy định phân môn và thời khóa biểu.
- Ghi thời khóa biểu dán ngay góc học tập ở nhà.
- Sách vở học để ngay ngắn, không vức lung tung.Bao và ghi nhãn vở đầy đủ
- Cuối mỗi buổi học trước khi về nhà tôi dành vài phút để hướng dẫn các em
đem theo sách, vở gì cho ngày mai và gọi học sinh nhắc lại
- Dặn học sinh tối học bài xong phải chuẩn bị sách, vở và đồ dùng học tập
cho ngày mai. Tránh sáng dậy trễ các em lúng túng nên soạn không đầy đủ .
- Vào đầu buổi học các tổ trưởng kiểm tra lại, nếu em nào thực hiện không
đúng tôi sẽ hướng dẫn lại, sai phạm nhiều lần sẽ báo phụ huynh nhờ sự giúp đỡ.
Với các bước thực hiện như trên cho đến học kì một thì các em đã có thói quen
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 19
chuẩn bị sách vở đúng theo quy định, các em cảm thấy thoải mái không còn lo sợ
khi đến lớp mà quên mang sách, vở nên việc học tập diễn ra nhẹ nhàng hơn.
3.5. Xây dựng nề nếp học tập
Tổ chức có kế hoạch hoạt động học tập cho học sinh nhằm nâng cao kết quả
học tập là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của giáo viên chủ
nhiệm. Kết quả hoạt động học tập không những thể hiện ở kết quả nắm tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo mà còn thể hiện ở kết quả phát triển năng lực của trí tuệ, năng
lực tư duy sáng tạo ở học sinh.
- Mỗi ngày tôi đều đến lớp sớm (15 phút) dành thời gian để quan tâm tới các
em, tạo cho các em sự gần gũi, tin cậy, hướng dẫn các em truy bài. Khi tôi gần
gũi với các em thì các em không còn e dè, các em đã biết hoạt động học tập ở
trường là vì thích hơn là vì nghĩa vụ.
- Tôi yêu cầu các em viết cụ thể thời gian biểu ở nhà của mình
- Kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh qua việc kiểm tra bài cũ.
- Hướng dẫn cha mẹ học sinh quản lý học sinh học tập ở nhà (có góc học tập
ở nhà và thời gian biểu cho học sinh)
Học sinh đang thảo luận nhóm đôi
Người thực hiện: Vũ Thị Phương Hồng
Trang 20
- Xem thêm -