HÀNH VI TỔ CHỨC
GVHD: THẠC SĨ NGUYỄN VĂN THỤY
NHÓM: 1A
HOÀNG TRÚC MI
KD01
VŨ THỊ HỒNG NHUNG
KD01
NGUYỄN ÁI MINH PHƯƠNG
KD01
NGUYỄN TRẦN PHƯƠNG THẢO
KD01
NGUYỄN THỊ TƯỜNG VI
KD01
TP.HCM
2012
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................
2
I.
ĐỊNH NGHĨA HÀNH VI TỔ CHỨC................................................................
II.
3
TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ CỦA CÁC HỌC THUYẾT OB.................................
4
1. CÁC LÝ LUẬN SƠ KHAI
........................................................................................................................
4
2. CÁC HỌC THUYẾT CỔ ĐIỂN
........................................................................................................................
5
3. CÁC HỌC THUYẾT QUAN HỆ CON NGƯỜI
........................................................................................................................
9
4. NHỮNG NHÀ LÝ LUẬN KHOA HỌC HÀNH VI
........................................................................................................................
13
5. HÀNH VI TỔ CHỨC HIỆN ĐẠI
........................................................................................................................
III.
17
SO SÁNH SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỌC THUYẾT, MÔ HÌNH...........
IV.
21
CÁC NGÀNH BỔ TRỢ CHO LĨNH VỰC OB.................................................
24
KẾT LUẬN.....................................................................................................................
25
1
Lời mở đầu
Quản lý thực chất là làm việc với người khác và thông qua những người khác để đạt được
kết quả mong muốn.Do vậy, những kiến thức và kỹ năng để làm việc và làm việc thông qua người
khác đóng vai trò quan trọng trong quản lý.Con người là tài sản quý giá nhất của tổ chức. Khai
thác tiềm năng con người là khả năng lớn nhất để nâng cao năng suất lao động và chất lượng
công việc. Tuy vậy, vấn đề con người, quan hệ giữa con người với con người, quan hệ giữa con
người với tổ chức là những vấn đề các nhà quản lý hay gặp nhất và cũng phức tạp nhất.Con
người trong tổ chức trước hết là cá nhân, sau đó họ được tập hợp trong nhóm và cao nhất là trong
tổ chức. Quan hệ giữa cá nhân, tập thể và tổ chức là những quan hệ phức tạp và quan trọng nhất.
Để hoạt động hiệu quả, các tổ chức cần phát triển kĩ năng của từng cá nhân với nhau hay
còn gọi là kĩ năng con người. Theo Robbins (2003), hành vi tổ chức Ogranizational Behavior(OB)
là một môn học nghiên cứu sự ảnh hưởng của hành vi cá nhân, nhóm và cấu trúc trong một tổ
chức, sau đó áp dụng những kiến thức trên để giúp cho tổ chức hoạt động hiệu quả hơn. Môn học
hành vi tổ chức (OB) đưa ra những kiến thức cơ bản nhất về khoa học nghiên cứu hành vi của
tâm lý học, tâm lý xã hội và văn hóa nhân loại.Đây cũng chính là những nội dung mà chúng tôi
đề cập đến trong bài tiểu luận, hy vọng sẽ cung cấp thông tin hữu ích để mọi người hiểu rõ hơn về
OB và có cái nhìn sâu rộng hơn trong lĩnh vực này.
2
I.
ĐỊNH NGHĨA HÀNH VI TỔ CHỨC (OB)
OB là một trong số những khái niệm mà nhiều nhà nghiên cứu đưa ra trên
nhiều khía cạnh.
Pugh (1971) cho rằng “OB is concerned with the study of the structure,
functioning and performance of organizations, and the behavior of groups and
individuals with them”. Theo quan điểm này, ta có thể hiểu Hành vi tổ chức nghiên
cứu về cấu trúc, chức năng và hiệu quả của tổ chức cũng như nghiên cứu cách ứng xử
các nhóm và các cá nhân trong hoạt động.
Khác với Pugh, Ivancrvich và Matteson (1998) đưa ra một định nghĩa rộng
hơn: “ OB is about the study of human behavior, attitudes and performance within an
organization setting; drawing on theory, methods, and principles from such disciplines
as psychology, sociology and cultural anthropology to learn about individual
perception, values, learning capabilities and actions while working with groups and
within the total organization; analyzing the external environment’s effect on the
organization and its human resources, missions, objectives and strategies” (tạm dịch
là : “nghiên cứu về cách ứng xử của con người, thái độ và hiệu quả trong một cấu trúc
tổ chức; đưa ra những học thuyết, phương pháp và nguyên tắc từ những lĩnh vực như
tâm lý học, xã hội học và văn hóa nhân loại để nghiên cứu về sự nhận thức của cá
3
nhân, giá trị, khả năng nghiên cứu và hành động trong khi làm việc nhóm và trong
toàn bộ tổ chức; phân tích tác động của môi trường bên ngoài đến tổ chức và nguồn
nhân lực, sứ mệnh, mục tiêu và chiến lược của tổ chức”).
Theo hai nhà nghiên cứu trên, chúng ta có thể rút ra định nghĩ chung: Hành vi
tổ chức là môn khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống về các hành vi và thái độ
của con người trong một tổ chức và sự tương tác giữa hành vi của con người với tổ
chức.
Sự nổi trội của hai định nghĩa trên là sự nhìn nhận OB như là:
1. Một cách tư duy
2. Một sự giao thoa của nhiều ngành học thuật
3. Có một cái nhìn về chủ nghĩa nhân văn riêng biệt
4. Định hướng thi hành
5. Nhìn nhận môi trường bên ngoài là quan trọng
6. Sử dụng phương pháp khoa học
7. Có sự định hướng
II.
TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ CỦA CÁC HỌC THUYẾT VỀ HÀNH VI TỔ
CHỨC
1.
Các lý luận sơ khai
Những thảo luận của Adam Smith trong cuốn Wealth of Nations (tạm dịch:Tài
nguyên quốc gia) xuất bản năm 1776 đề cập tới những lợi ích mà tổ chức và cộng
đồng gặt hái được từ sự phân chia lao động. Luận đề chính của tác phẩm được căn
cứ vào niềm tin rằng "mỗi con người đều chính thức bị thúc đẩy bởi tư lợi" mà điển
hình là lòng ham muốn tài sản. Các động lực ích kỷ là căn cốt của các hành động của
con người và tác giả đã tin tưởng rằng tính ích kỷ cá nhân đã dẫn tới sự an lạc xã hội
rằng nếu mỗi người cố gắng làm lợi cho chính mình một cách đều đặn, không ngừng,
thì sẽ dẫn tới sự thịnh vượng của quốc gia. Adam Smith còn cho rằng sự phân công
lao động và tích lũy tư bản đã dẫn tới nền kỹ nghệ mới. "Một bàn tay vô hình" dẫn dắt
con người trong khi làm việc có lợi cho mình thì đồng thời đã đóng góp lợi ích cho
4
tập thể. Theo ông, phân chia lao động sẽ làm tăng khả năng sản xuất thông qua việc
nâng cao kĩ năng và thế mạnh của người lao động, tiết kiệm thời gian.
Bên cạnh Adam Smith, còn phải kể đến sự đóng góp của nhà toán học người
Anh Charles Babbage trong việc phát triển lý thuyết phân chia lao động với tác
phẩm mang tiêu đề On the Economy of Machinery and Manufactures (tạm dịch: Cơ
sở Kinh tế của Máy móc thiết bị và Sản xuất) vào năm 1832. Charles là người đầu
tiên đề xuất phương pháp tiếp cận có khoa học trong quản lý, ông rất quan tâm tới các
mối quan hệ giữa người quản lý và công nhân, và là một người góp phần tích cực đưa
quản lý trở thành một bộ môn khoa học độc lập. Ông cũng đã bổ sung thêm vào
những lợi ích thu được từ phân chia lao động mà Smith đã đưa ra trước đó:
1.
2.
3.
4.
Tiết kiệm thời gian đào tạo công việc
Giảm lãng phí nguyên vật liệu trong quá trình đào tạo sản xuất
Tăng trình độ chuyên môn
Lưu ý cân xứng giữa kĩ năng làm việc, khả năng tự nhiên và công việc cụ
thể
Theo các nhà khoa học này, lợi ích của phân chia lao động nổi bật ở những tổ
chức coi trọng tối đa việc nâng cao sản xuất và giảm thiểu lãng phí tài nguyên cũng
như thời gian. Rất ít tổ chức không xem xét việc hướng đến yếu tố con người ở nơi
làm việc.
2.
Các học thuyết cổ điển
Thời kì kéo dài từ năm 1900 đến khoảng giữa thập niên 1930 là khoảng thời
gian mà những học thuyết khái quát đầu tiên về quản lý bắt đầu hình thành với những
người đóng góp quan trọng của Frederick Taylor, Henri Fayol, Max Weber, Mary
parker Follet và Chester Barnard.
a. Frederick Taylor:
Taylor được coi như là cha đẻ của lý thuyết "Quản lý theo khoa học". Lý
thuyết Quản lý theo khoa học dựa trên sự điều hành chặt chẽ đối với nhân công của
người quản lý. Tầm quan trọng của lý thuyết này là tìm thấy cách phân công công
việc tốt nhất. Ông nhấn mạnh vào việc lựa chọn đúng người cho từng công việc,
huấn luyện họ thực hiện công việc đó một cách chính xác nhất, khen thưởng để
khuyến khích họ.
5
-
Những nguyên tắc khoa học về quản lý của Frederick Taylor bao gồm:
Phân chia trách nhiệm về công việc từ công nhân đến nhà quản lý. Nhà quản lý
là người lên kế hoạch và thiết kế công việc, công nhân chỉ là người thi hành
-
các nhiệm vụ;
Sử dụng những phương pháp khoa học để quyết định cách làm việc hiệu quả
nhất, phân chia công việc cho công nhân một cách phù hợp, chỉ rõ cụ thể cách
-
hoàn thành công việc;
Chọn người giỏi nhất để thực hiện công việc theo kế hoạch;
Huấn luyện nhân viên làm việc một cách hiệu quả;
Giám sát công nhân nhằm đảm bảo quy trình làm việc thích hợp và từ đó sẽ đạt
được kết quả tương ứng.
Những yếu tố cơ bản trong lý thuyết của Frederick Taylor bao gồm:
-
Người lao động được xác định rõ trách nhiệm/thẩm quyền một cách chính
-
thức;
Địa vị được đặt theo thứ bậc và quản lý theo chiều dọc (cấp dưới thuộc sự quản
-
lý của cấp cao hơn);
Lựa chọn kỹ năng kỹ thuật, chuyên môn hay kinh nghiệm;
Hoạt động và quyết định được ghi lại cho phép ghi nhớ và thực hiện liên tục;
Quản lý có sự khác nhau dưới góc độ quyền sở hữu và cơ cấu tổ chức;
Quản lý dựa trên nguyên tắc/chuỗi thủ tục cho phép dự đoán chắc chắn/xác
thực hành vi.
Cách tiếp cận khoa học của ông đòi hỏi phải có sự quan sát và sự đo lường chi
tiết đối với công việc thường lệ nhất, nhằm tìm được cách làm việc tối ưu nhất. Kết
quả đạt được khi áp dụng lý thuyết của ông khá ấn tượng, năng suất đã tăng một cách
đáng kể. Frederick Taylor đã đặt nền móng cho kỹ thuật sản xuất hàng loạt, kỹ
thuật này đã ảnh hưởng đến tư tưởng quan lý trong suốt nửa đầu thế kỷ XX. Ông là
người đầu tiên nỗ lực phân tích một cách hệ thống hành vi làm việc của con người, là
người mở đường cho quản lý học hiện đại vì ngoài khía cạnh kĩ thuật, ông đã chú ý
đến nhiều khía cạnh khác của hoạt động quản lý.
b. Henri Fayol:
Qua tác phẩm chủ yếu “Quản lý công nghiệp và tổng quát” (Administration
industrielle et générale) xuất bản năm 1949, Henri Fayol (người Pháp, 1841 – 1925)
đã tiếp cận vấn đề quản lý ở tầm rộng hơn và xem xét dưới góc độ tổ chức – hành
6
chính. Tư tưởng chủ yếu của thuyết Fayol là nhìn vấn đề quản lý ở cả tổng thể tổ
chức quản lý xí nghiệp, xem xét hoạt động quản lý từ trên xuống, tập trung vào bộ
máy lãnh đạo cao với các chức năng cơ bản của nhà quản lý. Ông cho rằng thành
công của quản lý không chỉ nhờ những phẩm chất của các nhà quản lý, mà chủ yếu
nhờ các nguyên tắc chỉ đạo hành động của họ và những phương pháp mà họ sử dụng.
Với các nhà quản lý cấp cao phải có khả năng bao quát, còn đối với cấp dưới thì khả
năng chuyên môn là quan trọng nhất. Tư tưởng quản lý đó phù hợp với hệ thống kinh
doanh hiện đại, và từ những nguyên lý đó (trong công nghiệp) có thể vận dụng cho
việc quản lý các loại tổ chức thuộc lĩnh vực khác.
Fayol là người đầu tiên nêu một cách rõ ràng các yếu tố của quá trình quản lý,
cũng là năm chức năng cần thiết của một nhà quản lý, bao gồm: lên kế hoạch, tổ chức,
chỉ huy, điều phối và kiểm soát. Rất nhiều nhà quản lý vào thời kì đó cũng như ngày
nay đã liệt kê ra những chức năng này như là yếu tố cốt lõi của các hoạt động. Ông
phân chia toàn bộ các hoạt động của xí nghiệp thành 6 nhóm công việc chính gồm:
-
Kỹ thuật (khai thác, chế tạo, chế biến);
Thương mại (mua bán, trao đổi);
Tài chính (huy động vốn, sử dụng vốn);
An ninh (bảo vệ tài sản và nhân viên);
Kế toán (kiểm kê tài sản, theo dõi công nợ, hạch toán giá thành, thống kê);
Quản lý - điều hành (kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp, kiểm tra);
Fayol cũng đề ra 14 nguyên tắc về quản lý để vận dụng linh hoạt:
-
Phân công lao động phù hợp, rõ ràng, tạo được sự liên kết;
-
Xác định quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng, đúng mức;
-
Duy trì tốt kỷ luật trong đội ngũ, đảm bảo sự quy củ và tinh thần phục vụ;
-
Đảm bảo sự thống nhất chỉ huy, chấp hành mệnh lệnh từ một trung tâm;
-
Chỉ đạo nhất quán (theo một kế hoạch, một đầu mối);
-
Xử lý hài hòa lợi ích, đảm bảo lợi ích chung cao nhất;
-
Trả công thỏa đáng, công bằng, sòng phẳng;
-
Tập trung quyền lực trong hệ thống tổ chức quản lý;
-
Xác định rõ và ổn định hệ thống cấp bậc với chức trách rõ ràng;
7
-
Đảm bảo trật tự trong hệ thống với vị trí xác định;
-
Thực hiện công bằng trong quan hệ đối xử;
-
Ổn định đội ngũ nhân sự và được bổ sung kịp thời;
-
Khuyến khích tính sáng tạo, chủ động của mọi người;
-
Xây dựng bầu không khí tập thể đồng thuận, đoàn kết nội bộ.
Với nội dung nói trên, thuyết quản lý tổng hợp của Fayol có ưu điểm nổi bật là
tạo được kỷ cương trong tổ chức. Song nó chưa chú trọng đầy đủ các mặt tâm lý và
môi trường lao động, đồng thời chưa đề cập đến mối quan hệ với bên ngoài doanh
nghiệp (với khách hàng, với thị trường, với đối thủ cạnh tranh và với Nhà nước).
Cùng với thuyết Taylor, thuyết này đã đề ra được hàng loạt vấn đề quan trọng
của quản lý (như chức năng, nguyên tắc, phương pháp), vừa chú trọng việc hợp lý hóa
lao động vừa quan tâm cao đến hiệu lực quản lý, điều hành.
c. Max Weber:
Max đã phát triển lý thuyết dựa trên quan hệ quyền lực, ông là người tiên
phong trong việc nhìn công việc quản lý và hành vi tổ chức từ góc nhìn kết cấu.
Lý thuyết của ông cũng được biết đến như là lý thuyết quan liêu trong quản lý. Ông
đã miêu tả các dạng tổ chức lý tưởng và gọi nó là bộ máy quan liêu. Khái niệm
“thể chế quan liêu” đây không phải là khái niệm quan liêu theo nghĩa xấu như
nền kinh tế chính trị quan liêu, chủ nghĩa quan liêu, cũng không có nghĩa là thoát ly
thực tế, chủ nghĩa giấy tờ, hiệu suất thấp… mà nó có nghĩa rằng tổ chức này tiến hành
công việc quản lý thông qua chức vụ hoặc chức vị. Thể chế quản lý Hành chính trong
lý tưởng nói đây không phải là thể chế quan lý tốt nhất hoặc phù hợp với nhu cầu nào
đó mà là một hình thức tổ chức thuần túy, không có ví dụ thực tế trong hiện thực, để
phân biệt nó với các tổ chức mang các hình thái đặc thù khác nhau tồn tại trong thực
tế, Weber đã từ những tổ chức mang hình thái đặc thù khác nhau tồn tại trong thực tế
đó để rút ra 1 hình thái thuần túy nhằm thuận tiện cho sự phân tích về mặt lý luận.
Weber cho rằng thể chế quan liêu là 1 tổ chức xã hội chặt chẽ hợp lý giống như 1 cỗ
máy. Nó có những hoạt động chuyên nghiệp thành thạo, có quy định rõ ràng về quyền
8
hạn, trách nhiệm, có quy chế thực hiện nghiêm khắc và quan hệ phục tùng theo cấp
bậc, do đó trở thành một hệ thống kĩ thuật quản lý thể chế quan liêu được thể hiện.
Những đặc điểm của mẫu hình quan liêu lý tưởng của Max bao gồm:
-
Phân công lao động hợp lý và rõ ràng dẫn đến chuyên môn hóa cao, tinh thông
-
nghề nghiệp;
Sắp xếp các vị trí trong tổ chức theo một hệ thống thứ bậc về quyền lực, trong
đó mỗi cấp dưới chịu sự kiểm soát của cấp quản lý cao hơn; mỗi chức vụ khác
-
nhau có phạm vi thẩm quyền xác định;
Có một hệ thống nội quy, thủ tục chính thức được viết bằng văn bản, chi phối
-
các quyết định và hành động;
Lựa chọn người một cách nghiêm ngặt, định hướng cho họ phát triển, đề bạt
theo thành tích và thâm niên.
Các đặc trưng của bộ máy quan liêu giúp cho tổ chức có thể kiểm soát và điều
phối hành động của các thành viên. Đây là yếu tố then chốt để tạo ra hiệu quả và năng
suất vượt trội của tổ chức quan liêu so với bất kỳ một loại tổ chức xã hội nào khác.
Tuy nhiên, bộ máy quan liêu cũng tạo ra một sản phẩm đặc trưng gọi là "sự bị tha
hóa".
Nhìn chung, nhiều luận điểm cơ bản của các thuyết thuộc trường phái cổ điển
vẫn mang giá trị lâu dài, được các thuyết tiếp sau bổ sung và nâng cao về tính xã hội
và yếu tố con người cũng như về các mối quan hệ với bên ngoài tổ chức.
3.
Các học thuyết về quan hệ con người
Trong khi các nhà tư bản đầu thế kỉ XX đi theo những lý luận của Taylor, coi
trọng việc làm thế nào để nâng cao năng suất, thì vài năm sau, họ lại đặc biệt quan
tâm đến nhu cầu và động lực thúc đẩy của một nhân tố chính khác trong quá
trình làm việc- đó là người lao động. Nghiên cứu thực nghiệm ở một nhà máy điện
tại Chicago (Mỹ) năm 1942, người ta rút ra kết luận là việc tăng năng suất lao động
không chỉ phụ thuộc các điều kiện lao động và chế độ nghỉ ngơi... mà còn chịu sự chi
phối bởi những động cơ tâm lý đối với hành vi của con người và bầu không khí trong
tập thể lao động, với những quan hệ hợp tác - xung đột trong quá trình sản xuất. Tác
phong xử sự và sự quan tâm của người quản lý đến tình hình sức khoẻ, hoàn cảnh
9
riêng tư cùng những nhu cầu tinh thần của người lao động thường có ảnh hưởng lớn
đến thái độ và kết quả lao động.
a.
Mary Parker Follet
Một trong những người đi đầu về quan điểm “Con người mới thật sự là trung
tâm của thế giới” là Mary Parker Follet. Từ đây mở ra cách nhìn “mối tương quan
giữa người và người là nhân tố thúc đẩy lĩnh vực OB”. Follet cho rằng tổ chức nên
được xây dựng trên cơ sở nhóm hơn là làm việc riêng lẻ từng cá nhân. Nhà quản trị
cần biết cân đối và điều phối nguồn lực nhóm. Quan hệ giữa nhà quản trị và nhân viên
là sự cộng tác. Do đó nhà quản trị cần tin tưởng nhiều hơn vào khả năng chuyên môn
và trình độ của nhân viên hơn là cấp bậc bên ngoài của họ. Việc ra quyết định phải
dựa trên mối quan hệ, hoàn cảnh và cấp dưới cảm thấy dự phần trách nhiệm. Như vậy,
theo bà, một tổ chức có thể định ra tầm quan trọng của động cơ thúc đẩy và sự thống
nhất trong nhóm, điều này đòi hỏi rất nhiều trong hoàn cảnh tổ chức hiện đại ngày
nay.
b.
Chester Barnard
Một nhà lý luận có tầm ảnh hưởng lớn đến quan điểm này là Chester Barnard.
Barnard nhìn nhận tổ chức như một hệ thống xã hội, con người nên liên tục giao
tiếp, liên lạc với người khác. Barnard cho rằng thành công của tổ chức trong thời kì
hợp tác phát triển đến từ những yếu tố quyết định khác nhau như là, giữa nhân viên và
đối tượng khác như khách hàng, nhà đầu tư, nhà cung ứng và các tác nhân bên ngoài
khác. Nhân viên sẽ tuân thủ mệnh lệnh nếu họ hiểu được những điều cấp trên truyền
đạt và tin rằng đó là yêu cầu phù hợp với mục tiêu tổ chức, thấy được lợi ích thu được
và phù hợp với năng lực cũng như sự cố gắng của họ. Do đó, bất kể hệ thống sản xuất
xuất sắc tới đâu, Barnard nhấn mạnh sự cần thiết của hoạt động kết nối và phát
triển kĩ năng cùng động cơ thúc đẩy nhân viên giúp tổ chức hiệu quả và thành
công.
c.
Elton Mayo
Elton Mayo được biết là người đề ra Thuyết quan hệ con người, nghiên cứu
của ông bao gồm Những nghiên cứu Hawthorne và cuốn sách The Social problems of
10
an Industrialised Civilization (1933) (Tạm dịch là: Những vấn đề xã hội của nền văn
minh công nghiệp). Những nghiên cứu Hawthorne vào năm 1930 đã chỉ ra tầm quan
trọng của nhóm ảnh hưởng tới hành vi cá nhân khi làm việc.Tuy nhiên, không
phải Mayo là người đề ra các kinh nghiệm thực tiễn mà là hai người chủ của ông,
Roethlisberger và Dickinson. Điều này đã giúp ông có những suy luận chắc chắn về
cách quản trị hành vi. Ông đã thực hiện các cuộc khảo sát để thấy được cách cải thiện
sản xuất, ví dụ như thay đổi điều kiện ánh sáng ở nơi làm việc.Bất cứ nơi nào mà
những chỉ tiêu về hợp tác làm việc và sản lượng cao hơn thì chứng tỏ tầm quan trọng
được xem trọng. Điều kiện tự nhiên hay sự khích lệ tài chính chỉ có một chút giá trị
thúc đẩy động lực.Người ta sẽ xây dựng nhóm có thể được sử dụng cho lợi ích của tổ
chức.Ông kết luận rằng phong cách làm việc của con người phụ thuộc vào cả hai
thứ, trách nhiệm xã hội và nội dung công việc. Ông cho rằng một trạng thái căng
thẳng giữa “lý luận cảm xúc” nhân viên và “lý luận chi phí và hiệu quả” của nhà quản
trị có thể dẫn đến xung đột trong tổ chức.
* Tóm tắt những nhận định của Mayo:
Elton Mayo cho rằng đơn vị kinh doanh là một tổ chức xã hội.Bản thân nhân
viên không thể bị cô lập mà cần được xem như thành viên của một nhóm. Con người
có cả hai yếu tố tâm lý và xã hội cần được thỏa mãn. Động viên bằng tiền lương và
điều kiện làm việc tốt ít quan trọng với một cá nhân hơn là việc được trở thành một
phần của nhóm. Nhóm thoải mái và không chính thức tác động đến hành vi, thái độ
của các nhân viên trong nhóm, từ đó làm thay đổi năng suất lao động. Nhà quản trị
phải nhận ra những “nhu cầu xã hội” này và thoả mãn cho họ để đảm bảo rằng nhân
viên cộng tác với tổ chức chính thức hơn là làm việc tương phản với nó.
Một nhân vật góp phần vào việc cách mạng hoá suy nghĩ trong môi trường
làm việc là Dale Carnegie.Cuốn sách của ông “How to win Friends and Influence
peole” Đắc nhân tâm) là một điển hình hướng dẫn cho chuyên gia quản trị ngày nay.
Chủ đề chính của ông xoay quanh phương pháp thành công thông qua hợp tác
giữa con người. Ông khuyên:
11
Làm người khác cảm thấy quan trọng nhờ vẻ ngoài chân thành những nổ
lực của họ;
Tìm cách gây ấn tượng tốt;
Làm người khác đồng tình với mình bằng cách cứ để người đó nói, có sự
đồng cảm và không bao giờ nói họ sai;
Thay đổi người khác bằng cách tán dương điểm tốt của họ và cho họ cơ hội
d.
để giữ lấy thể diện.
Abraham Maslow
Người có công đóng góp tiếp theo có ảnh hưởng đến bộ mặt nhân bản của nhà
quản trị trong môi trường làm việc là Abraham Maslow. Maslow đưa ra Tháp nhu
cầu (nhu cầu vật chất - sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được
tôn trọng và nhu cầu tự hoàn thiện bản thân) và nói rõ mỗi tầng của tháp đều phải
được thoả mãn trước khi bước sang tầng tiếp theo, và khi một nhóm các nhu cầu được
thỏa mãn thì loại nhu cầu này không còn là động cơ thúc đẩy nữa. Con người cá nhân
hay con người trong tổ chức chủ yếu hành động theo nhu cầu.Chính sự thỏa mãn nhu
cầu làm họ hài lòng và khuyến khích họ hành động. Do đó, việc tác động vào nhu cầu
cá nhân sẽ thay đổi được hành vi của con người. Nói cách khác, người lãnh đạo hoặc
quản lý có thể điều khiển được hành vi của nhân viên bằng cách dùng các công cụ
hoặc biện pháp để tác động vào nhu cầu hoặc kỳ vọng của họ làm cho họ hăng hái và
chăm chỉ hơn với công việc được giao, phấn chấn hơn khi thực hiện nhiệm vụ và tận
tụy hơn với nhiệm vụ đảm nhận. Trong trường hợp ngược lại việc không giao việc
cho nhân viên là cách thức giảm dần nhiệt huyết của họ và cũng là cách thức để nhân
viên tự hiểu là mình cần tìm việc ở một nơi khác khi làm việc là một nhu cầu của
người đó. Nhu cầu tự thể hiện là tầng cuối cùng của giá trị tồn tại con người. Nhà
quản trị thừa nhận tháp nhu cầu này nỗ lực biến đổi tổ chức và hoạt động quản trị để
giảm thiểu rào cản từ nhu cầu tự thể hiện của nhân viên.
e.
Douglas McGregor
Ông cũng là một trong những nhà lý luận hoạt động tương quan giữa người với
người nổi tiếng. Ông đã trình bày hai nhóm giả định- thuyết X và thuyết Y về con
người tự nhiên.Thuyết X đặt ở cái nhìn tiêu cực của con người cho rằng phạm
12
trù này có ít tham vọng, không thích làm việc, muốn trốn tránh trách nhiệm và
cần được quản lý chặt chẽ ở môi trường làm việc. Mặt khác, phạm trù Y trình
bày cái nhìn lạc quan cho rằng con người cần tập luyện điều khiển bản thân,
đảm đương trách nhiệm và thừa nhận công việc như một hoạt động tự nhiên. Cá
nhân McGregor cho rằng Thuyết Y mô tả trạng thái tự nhiên tốt nhất của con người
khi làm việc và do đó hình thành nên thói quen quản trị cơ bản trong tổ chức. Nhà
quản trị nên để cấp dưới tự do để mở ra toàn bộ sự sáng tạo và sản xuất tiềm năng.
4.
Những nhà lý luận khoa học hành vi
Những nhà lý luận này tham gia vào nghiên cứu khách quan hành vi con người
trong tổ chức. Sau đây là một số tên tuổi nổi tiếng có đóng góp trong quá trình phát
triển OB.
a.
B.F.Skinner
Nghiên cứu của ông chủ yếu về điều kiện làm việc(theo phương pháp cổ điển
và phương pháp thưởng phạt) và hành vi biến đổi do ảnh hưởng của kế hoạch đào
tạo trong tổ chức cũng như hệ thống tiền thưởng, khích lệ. Ông cho rằng một cá
nhân sẽ có hành động tích cực trong công việc khi được khich lệ, khen thưởng và
ngược lại, họ sẽ có thái độ tiêu cực, chán nản trong công việc nếu bị không được
khích lệ và bị phạt.
b.
David McCelland
David C. McClelland, nhà tâm lý học người Mỹ, đã đề xuất Lý thuyết về nhu
cầu thúc đẩy làm việc vào năm 1961. Theo ông, trong quá trình làm việc các cá
nhân chịu tác động mạnh mẽ bởi ba nhân tố có ảnh hưởng, tác động với nhau.
Ba nhân tố hay còn được gọi là ba nhu cầu đó là: thành tích, quyền lực và liên
minh.
Nhu cầu thành tích (achievement motivation): Một người có nhu cầu thành
tích thường mong muốn hoàn thành những mục tiêu có tính thách thức bằng nỗ lực
của mình, thích thành công khi cạnh tranh và mong nhận được phản hồi về kết quả
công việc của mình một cách rõ ràng. Những người có nhu cầu thành tích cao có động
13
lực làm việc tốt hơn. Một số đặc tính chung phản ánh những người có nhu cầu thành
tích cao như:
-
Lòng mong muốn thực hiện các trách nhiệm cá nhân;
Xu hướng tự đặt ra các mục tiêu cao;
Nhu cầu cao về sự phản hồi cụ thể, ngay lập tức;
Nhanh chóng, sớm làm chủ công việc của họ.
Nhu cầu quyền lực (authority/power motivation): Những người có nhu cầu
quyền lực mong muốn tác động, ảnh hưởng và kiểm soát các nguồn lực, con người
nếu có lợi cho họ.
Nhu cầu liên minh (affiliation motivation): Những người có nhu cầu liên
minh mong muốn có mối quan hệ gần gũi và thân thiện với mọi người xung quanh.
Nhu cầu liên minh làm cho con người cố gắng vì tình bạn, thích hợp tác thay vì cạnh
tranh, mong muốn xây dựng các mối quan hệ dựa trên tinh thần hiểu biết lẫn nhau.
McClelland khuyến khích người lao động tham gia vào các hoạt động của tổ
chức, nhằm tạo dựng mối quan hệ với đồng nghiệp, tranh thủ sự động viên, hỗ trợ của
đồng nghiệp để thực hiện công việc ngày càng khó hơn với sự tham gia của nhiều
người thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Việc tham gia hoạt động của tổ chức cũng tạo
điều kiện để người lao động so sánh, đánh giá cá nhân, tạo động lực vươn lên do sự
thúc đẩy của nhu cầu về việc đạt thành tích cao hơn so với đồng nghiệp.
Lý thuyết của McClelland cho thấy để khuyến khích mọi người làm việc thì
người lãnh đạo phải hiểu được những người dưới quyền họ có loại nhu cầu nào mạnh,
yếu để có các biện pháp thoả mãn nhu cầu của người lao động mà vẫn đảm bảo được
mục tiêu của tổ chức.
c.
Fred Fiedler
Hoạt động trong lĩnh vực quản lý, Fred đã có nhiều đóng góp trong phát
triển hành vi tổ chức thành một qui tắc ứng xử. Nghiên cứu của ông trong lĩnh vực
này càng trở nên quan trọng khi nhấn mạnh đến khía cạnh tình huống của quản lý
và phát triển học thuyết toàn diện về hành vi quản lý.
Để xác định phong cách của một nhà lãnh đạo, Fiedler sử dụng thước đo đồng
nghiệp kém ưa thích nhất (the least-preferred coworker – LPC), một thước đo xác
14
định nhà lãnh đạo có động cơ gì: động cơ công việc (task motivation) hay động cơ
quan hệ (relationship motivation). Nghiên cứu của Fiedler cho thấy cảm nhận của mọi
người và mô tả của đồng nghiệp họ kém ưa thích nhất mang lại sự hiểu biết về các
mục tiêu căn bản và các ưu tiên của họ nhằm hoàn thành một công việc hay duy trì
các mối quan hệ (Bảng 3-1). Theo Fiedler, người có điểm LPC thấp - những người
xếp hạng thấp các đồng nghiệp họ kém ưa thích nhất (mô tả người đó kém năng lực,
không nhiệt tình, không đáng tin và hay sinh sự) – là những người có động cơ công
việc. Người có điểm LPC cao cho điểm đồng nghiệp họ kém ưa thích nhất tương đối
tích cực (mô tả người đó trung thành, chân thành, nồng nhiệt, và biết điều); họ có
động cơ quan hệ. Tập trung của người có động cơ công việc hướng vào nhiệm vụ và
sự quan tâm của người có động cơ quan hệ vào các mối quan hệ là rõ rệt nhất trong
những thời kỳ khủng hoảng khi họ chịu áp lực lớn.
Bảng 3-1 Khác biệt giữa Người có động cơ công việc và Người có động cơ
quan hệ
Có Động cơ Công việc (LPC thấp)
Có được tự trọng từ việc hoàn thành
Có Động cơ Quan hệ (LPC cao)
Có được tự trọng từ các mối quan hệ với
nhiệm vụ
người khác
Tập trung vào công việc trước hết
Tập trung vào con người trước hết
Khắc nghiệt với nhân viên thất bại
Thích làm vui lòng người khác
Xem năng lực của đồng nghiệp là tố
Xem sự trung thành của đồng nghiệp là tố
chất chủ yếu
chất chủ yếu
Thích chi tiết
Chán ghét chi tiết
d.
Fredrick Herzberg
Ông chủ yếu quan tâm đến câu trả lời cho: Cá nhân mong muốn gì từ công
việc của mình? Năm 1966, ông đã phát triển một danh sách các nhân tố dựa trên
Tháp nhu cầu của Maslow. Các nhu cầu mà Herzberg đưa ra chỉ liên quan đến công
việc, chính xác là những gì mà cá nhân muốn có, khác với Tháp nhu cầu của Maslow
khi phản ánh tất cả các nhu cầu của cuộc sống cá nhân.Ông cho rằng không phải nhu
15
cầu nào cũng đóng vai trò là động cơ thúc đẩy. Những nhu cầu khi được thoả mãn chỉ
tạo ra cảm giác hài lòng không phải là động cơ mà chỉ là những yếu tố duy trì hay
Hygience factors); chỉ những nhu cầu nào khi được đáp ứng tạo ra cảm giác thoả mãn
mới là động cơ thúc đẩy (motivation).
*Những yếu tố duy trì gồm:
- Công ty
-
Chính sách và cách quản lý của công ty
-
Nhà quản lý trực tiếp
-
Điều kiện làm việc
-
Các mối quan hệ liên cá nhân
-
Lương
-
Chức vụ
-
Sự an toàn.
*Những yếu tố (nhu cầu) là động cơ thúc đẩy, theo F. Herzberg bao gồm:
-
Sự thành đạt
-
Sự công nhận, thừa nhận
- Sự thăng tiến
- Tính hấp dẫn của công việc.
Ông đúc kết được từ những nghiên cứu của mình là con người thích nhận công
việc mà học có thể được công nhận, thăng tiến, có trách nhiệm và phát triển được hơn.
Chỉ khi cung cấp một điều kiện làm việc tốt mới thúc đẩy được con người làm việc.
Điều này đã đóng góp đáng kể cho OB khi giúp mở rộng ngành nghề và chất lượng
môi trường làm việc trong tổ chức hiện đại.
5.
Hành vi tổ chức hiện đại
Sau một loạt những học thuyết cũng như những mô hình phát triển OB ra đời,
càng ngày người ta nhận ra không có thuyết nào thực sự có thể cải thiện tốt chức năng
và hiệu quả tổ chức. Vì vậy những cách tiếp cận cũ ấy được cho rằng chỉ mang tính
tạm thời và ngẫu nhiên. Những thuyết mới sau đó nỗ lực được dồn vào phát triển
những thuyết đang tồn tại, làm rõ những giả định trước cũng như những biến ngẫu
16
nhiên quan trọng. Mối quan tâm ngày nay là tìm hiểu nhân tố tình huống và chúng
ảnh hưởng thế nào đến hành vi cá nhân trong từng hoàn cảnh tổ chức cụ thể.
Ở đây chúng tôi chỉ xin đưa ra một vài thuyết cùng mô hình để chúng ta có thể
hiểu một vài điểm ở giai đoạn này.
a.
Alan Barnard cho rằng thành công của tổ chức liên quan đến khả năng của
nhà lãnh đạo tạo ra một môi trường gắn kết. Ông đề xuất quyền của nhà quản lý có
nguồn gốc từ chấp nhận của cấp dưới thay vì cơ cấu quyền lực do cấp trên đưa ra.
ð Chứa các yếu tố của cả phương pháp tiếp cận cổ điển và tân cổ điển.
b.
Phát triển cấu trúc quan liêu của Weber:
Cấu trúc phân cấp liên bang của Drucker 1974: một công ty được tổ chức
thành các đơn vị độc lập hoạt động đồng thời. Mỗi đơn vị này có quản lý
riêng, tự điều hành hoạt động kinh doanh => các tập đoàn đa quốc gia đa dạng
vào nhiều lĩnh vực khác nhau giảm rủi ro.
Cơ cấu tổ chức quản lý dự án (Kast và Rosenzweig 1985 – Pháp ): cung
cấp tích hợp hiệu quả các nguồn tài nguyên của tổ chức đối với việc hoàn
thành một dự án cụ thể.
Cơ cấu tổ chức ma trận phát triển từ hình thức quản lý dự án của
Kolodny 1979: sự phối hợp của cấu trúc quan liêu truyền thống và cơ cấu
c.
tổ chức quản lý dự án.
Thuyết ngẫu nhiên (Contingency theory): cho rằng không có cách nào tốt
nhất để tổ chức, lãnh đạo công ty hay ra quyết định. Thay vào đó, kết quả tốt nhất ấy
phụ thuộc vào tình hình bên trong và ngoài tổ chức.
Gareth Morgan trong cuốn Images of Organization của mình đã mô tả những ý
chính:
Tổ chức là hệ thống mở cần quản lý tốt để đáp ứng và cân bằng nhu cầu nội bộ
và thích ứng với hoàn cảnh môi trường.
Không có cách nào là tốt nhất để tổ chức. Hình thức thích hợp phụ thuộc vào
loại công việc hoặc môi trường liên quan.
Việc quản lý cần được quan tâm trên hết
Các loại hoặc nhóm nhỏ khác nhau của tổ chức cần thiết trong các môi trường
khác nhau.
17
d.
Thuyết ERG của Clayton Alderfer hay còn gọi là thuyết Nhu cầu, tồn tại,
quan hệ, phát triển ( Existence, Relatedness and Growth ) bổ sung cho tháp nhu
cầu của Maslow
Thuyết ERG nhận ra 3 kiểu nhu cầu chính của con người:
Nhu cầu tồn tại (Existence needs): Ước muốn khỏe mạnh về thân xác và tinh
thần, được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu căn bản để sinh tồn như các nhu cầu
sinh lý, ăn, mặc, ở, đi lại, học hành... và nhu cầu an toàn.
Nhu cầu giao tiếp (Relatedness needs): Ước muốn thỏa mãn trong quan hệ với
mọi người. Mỗi người đều có những ham muốn thiết lập và duy trì các mối
quan hệ cá nhân khác nhau. Ước tính một người thường bỏ ra khoảng phân nửa
quỹ thời gian để giao tiếp với các quan hệ mà họ hướng tới.
Nhu cầu phát triển (Growth needs): Ước muốn tăng trưởng và phát triển cá
nhân trong cả cuộc sống và công việc. Các công việc, chuyên môn và cao hơn
nữa là sự nghiệp riêng sẽ đảm bảo đáp ứng đáng kể sự thoả mãn của nhu cầu
phát triển.
Tại cùng một thời điểm có thể có nhiều nhu cầu ảnh hưởng đến sự động
viên. Khi một nhu cầu cao hơn không thể được thỏa mãn (frustration) thì một nhu cầu
ở bậc thấp hơn sẽ tăng cao (regression).
Thuyết ERG giải thích được tại sao các nhân viên hay tìm kiếm mức lương cao
hơn và điều kiện làm việc tốt hơn ngay cả khi những điều kiện này là tốt và đạt các
tiêu chuẩn của thị trường lao động. Khi các nhân viên chưa cảm thấy thỏa mãn với
nhu cầu giao tiếp và nhu cầu phát triển hiện tại, họ sẽ tìm cách được thỏa mãn.
e.
Thuyết kỳ vọng của Victor Vroom 1964 sau đó có vài học giả bổ sung trong
đó có Porter và Lawler 1968 được xây dựng theo công thức:
Hấp lực x Mong đợi x Phương tiện = Sự động viên
Hấp lực (phần thưởng) = sức hấp dẫn cho một mục tiêu nào đó (Phần thưởng
cho tôi là gì?)
18
Mong đợi (thực hiện công việc) = niềm tin của nhân viên rằng nếu nỗ lực làm
việc thì nhiệm vụ sẽ được hoàn thành (Tôi phải làm việc khó khăn, vất vả như
thế nào để đạt mục tiêu?)
Phương tiện (niềm tin) = niềm tin của nhân viên rằng họ sẽ nhận được đền đáp
khi hoàn thành nhiệm vụ (Liệu người ta có biết đến và đánh giá những nỗ lực
của tôi?)
Thành quả của ba yếu tố này là sự động viên, là động lực để một nhân
viên hoàn thành những công việc được giao.
Chu trình của Thuyết kỳ vọng có 3 bước:
Nỗ lực => Hoàn thành => Kết quả
Để đạt kết quả tốt nhất có thể dùng các loại biện pháp sau:
Tăng kỳ vọng từ nỗ lực đến hoàn thành công việc
o Chọn nhân viên phù hợp với công việc.
o Đào tạo nhân viên tốt.
o "Phân vai" rõ trong công việc.
o Cung cấp đủ các nguồn lực cần thiết.
o Kèm cặp, giám sát và tích cực thu thập thông tin phản hồi.
Tăng kỳ vọng từ hoàn thành công việc tới hiệu quả
o Đo lường quá trình làm việc một cách chính xác.
o Mô tả các kết quả làm việc tốt và không tốt.
o Giải thích và áp dụng cơ chế đãi ngộ theo kết quả công việc
Tăng mức độ thỏa mãn
o Đảm bảo là các phần thưởng có giá trị (vật chất & tinh thần)
o Cá biệt hóa phần thưởng.
o Tối thiểu hóa sự khác biệt trong mức độ thỏa mãn các kết quả.
f.
Thuyết Z của William Ouchi: cho rằng không có người nào thuộc dạng X
và Y. Ông quan tâm đến thái độ lao động con người và điều này phụ thuộc vào
19
- Xem thêm -