MỤC LỤC
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
Nội dung
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
9
nghiệm
2.3. Một số biện pháp thực hiện trong quá trình dạy các yếu tố hình
học
Trang
1
1
1
2
2
2
2
3
4
10 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
15
11 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
16
12 3.1. Kết luận
16
13 3.2. Kiến nghị
17
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Tiểu học là bậc học nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách
con người, là nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ
thống giáo dục quốc dân. Đây là bậc học cung cấp những kiến thức cơ bản ban
đầu về tự nhiên - xã hội - con người; về văn hoá - văn học Việt Nam và thế giới;
0
trang bị các phương pháp, kĩ năng về hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn; bồi dưỡng và phát huy những thói quen, tư tưởng, tình cảm, những đức tính
tốt đẹp của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
hội nhập với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy chất
lượng giáo dục là vấn đề quan trọng hàng đầu để giúp con người phát triển một
cách toàn diện.
Trong hệ thống giáo dục Quốc dân thì giáo dục Tiểu học giữ một vị trí hết
sức quan trọng. Nó đặt cơ sở vững chắc cho toàn hệ thống giáo dục. Trong đó
môn Toán giữ một vai trò vô cùng quan trọng vì nó giúp cho học sinh phát triển
tư duy trừu tượng, tư duy logic và các kĩ năng tính toán cần thiết và thiết thực
cho đời sống hàng ngày của trẻ. Các kiến thức được truyền thụ rất toàn diện và
phong phú, nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu rất cơ bản, tạo
cho các em tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với xã hội để
có khả năng học tiếp lên Trung học cơ sở. Môn Toán ở Tiểu học là môn học
chiếm thời lượng lớn chỉ sau môn Tiếng Việt đủ cho thấy tầm quan trọng của nó,
nó là hành trang để các em bước vào cuộc sống.
Trong dạy học toán ở bậc Tiểu học, phần dạy yếu tố hình học là một mạch
kiến thức vô cùng quan trọng, nó giúp cho học sinh giải quyết được các bài toán
thực tế trong cuộc sống.
Vì vậy, khi “dạy yếu tố hình học” trong toán học chúng ta cần phải dạy như
thế nào để đạt được hiệu quả tối ưu nhất? Đây chính là vấn đề vô cùng cấp thiết
và không hề đơn giản chút nào. Có lẽ đây không chỉ là những trăn trở, suy nghĩ
của riêng bản thân tôi, mà chắc chắn sẽ còn là của nhiều bạn đồng nghiệp khác
đang mang trên mình trách nhiệm to lớn của một người Thầy. Vì thế tôi đã đi
sâu tìm hiểu ''Một số biện pháp dạy yếu tố hình học cho học sinh lớp 3A
Trường Tiểu học Lương Sơn 2, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh hóa. ''
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của những tiết học toán có nội dung hình học
trong chương trình Tiểu học mới.
1.2. Mục đích nghiªn cøu:
Nghiên cứu để làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy yếu tố hình
học ở lớp 3 hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp sư phạm nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả dạy yếu tố hình học ở lớp 3.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là nội dung, chương trình, phương pháp và thực
tiễn của việc dạy yếu tố hình học ở lớp 3 hiện nay.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu lí luận.
1
- Điều tra – quan sát.
- Tổng kết kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta đã biết, học sinh Tiểu học các em ở độ tuổi đầu bậc tiểu
học nhận thức cảm tính của các em phát triển mạnh, các em nhận thức các sự
vật, hiện tượng chỉ dựa vào cảm giác, nó chỉ phản ánh cái bên ngoài, cái không
bản chất của sự vật, hiện tượng. Chính vì vậy ở tiểu học môn Toán là một trong
những môn học có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình, nó giúp học
sinh phát triển trí tưởng tượng, tư duy lô gíc, bồi dưỡng những thao tác trí tuệ
cần thiết để nhận biết thế giới hiện thực, khách quan. Nếu như không có toán
học thì con người sẽ như bị u mờ, không biết suy nghĩ để giải quyết một tình
huống, một vấn đề cụ thể trong đời sống hiện thực hàng ngày, không biết tính
toán dù chỉ là một phép tính đơn thuần nhất. Do vậy, toán học giúp con người
phát triển trí thông minh, tư duy độc lập, linh hoạt và sáng tạo trong cách nghĩ,
cách làm. Trong đó “ yếu hình tố học” có thể nói là một bộ phận gắn kết mật
thiết với các mạch kiến thức của toán học để tạo thành một môn toán thống nhất.
Kiến thức hình học cùng với yếu tố đại số, đo lường và giải toán đã góp phần
làm phát triển toàn diện năng lực học toán của người học sinh.
“Yếu tố hình học” không chỉ là tiền đề để học tốt các môn học khác mà
còn là bàn đạp vững chắc cho nhiều ngành nghề khác nhau trong cuộc sống thực
tiễn, góp phần giúp học sinh phát triển trí tưởng tượng, năng lực tư duy, sáng
tạo, kĩ năng phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá, suy luận lô gíc
và rèn luyện tính cẩn thận, chính xác, sáng tạo.“Yếu tố hình học” còn cung cấp
cho học sinh những hiểu biết cần thiết về hình dạng, vị trí, kích thước... của các
vật với những tình huống toán học trong cuộc sống hằng ngày của các em. Cùng
với tri thức toán học “yếu tố hình học” còn rèn cho học sinh kĩ năng tính toán,
vẽ hình, đo đạc, ước lượng, sử dụng dụng cụ toán học. Đặc biệt là kĩ năng "Toán
học hoá" tình huống thực tế (đây là yếu tố rất cần thiết cho người lao động xã
hội mới).
Để đạt được các mục tiêu trên đòi hỏi ở mỗi giáo viên – học sinh phải có
một kế hoạch khoa học có định hướng cho việc dạy- học, đồng thời nó đòi hỏi ở
giáo viên – học sinh tính kiên trì trong quá trình thực nghiệm.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thực trạng:
Trong cuộc sống của xã hội loài người, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế xã hội đòi hỏi mỗi con người cần phải có đủ đức, đủ tài, đủ năng lực trí
tuệ góp phần làm giàu cho đất nước. Vì vậy, kiến thức toán học nói chung và
2
yếu tố hình học nói riêng là một công cụ quan trọng không thể thiếu đối với mỗi
con người chúng ta.
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, việc “dạy học yếu tố hình học” và ứng
dụng giải các bài toán có nội dung hình học là một vấn đề tương đối khó. Qua
thăm dò, phỏng vấn giáo viên và học sinh về kết quả “dạy học các yếu tố hình
học” cho thấy càng lên lớp trên, khả năng tiếp thu và làm bài của học sinh càng
tỏ ra lúng túng, khó khăn. Nhiều học sinh lớp 4, 5 chưa nắm vững các công
thức, có em nhớ được công thức nhưng không biết từ công thức suy luận ra yêu
cầu thực tế của bài toán, khả năng tư duy của các em còn hạn chế, mặt khác do
các em còn ít được thực hành trong quá trình học nên rất vụng về, lúng túng,
thiếu tự tin khi thể hiện khả năng của mình, nhiều em khi học thường học theo
kiểu dập khuôn máy móc.
Một phần do các em chưa có ý thức tự giác và tích cực trong học tập, còn
ham chơi hơn ham học, không tập trung chú ý nên không nắm vững kiến thức cơ
bản trên lớp. Vì thế mà không làm được bài tập về nhà.
Một lỗi chung nữa do phần lớn học sinh chúng ta là không chịu đọc kĩ đề
bài, suy nghĩ trước khi đặt bút giải bất kì một bài toán nào dù dễ hay khó, mà chỉ
đọc đề một cách qua loa, thấy loáng thoáng một số yêu cầu, số liệu đã đặt bút
giải luôn.
- Về phía giáo viên:
Nhiều giáo viên không chịu nghiên cứu, tìm hiểu kĩ nội dung kiến thức
trong tiết dạy trước khi lên lớp mà chỉ xem qua trong sách giáo viên để soạn
giáo án một cách đối phó. Thông thường các giáo viên chỉ chuẩn bị đồ dùng dạy
học thật chu đáo, công phu ở các tiết thao giảng hoặc có người dự giờ. Còn các
tiết học hằng ngày trên lớp lại chưa có sự đầu tư chuẩn bị. Mặt khác có giáo
viên lại rất nhiệt tình với học sinh, chuẩn bị đồ dùng chu đáo cho từng tiết dạy
nhưng chưa biết phối hợp nhịp nhàng các phương pháp, cách tổ chức cho học
sinh hoạt động trong từng mảng kiến thức, dẫn đến tiết học rời rạc, không thu
hút được sự chú ý của học sinh, làm cho các em chán không muốn học.
Khi hướng dẫn luyện tập, đa số giáo viên còn thờ ơ với việc rèn cho học
sinh thói quen đọc và nghiên cứu kĩ đề bài, tóm tắt bài toán trước khi đặt bút
giải. đây là một bước rất quan trọng để giải một bài toán, bởi chúng ta có tóm tắt
được đề bài thì mới hiểu được yêu cầu của đề và tìm ra hướng giải, đặc biệt là
đối với các bài tập cần tóm tắt bằng hình vẽ, nếu không vẽ được hình thì khó có
thể giải được bài toán đúng.
- Về phía gia đình:
Do địa bàn ở đây là vùng nông thôn miền núi nên nền kinh tế còn nhiều
khó khăn. Đa số học sinh đến trường, gia đình chỉ quan tâm đưa đón các em khi
mới vào lớp 1, còn từ lớp 2, lớp 3 trở đi gia đình phó mặc cho nhà trường. Nhiều
gia đình bố mẹ không có khả năng kèm cặp, dạy dỗ con em mình học khi ở nhà,
để tự con học được đến đâu hay đến đấy.
3
Mặt khác, đối với chương trình lớp 3, nội dung yếu tố hình học được coi
như một bản lề khép lại giai đoạn 1 và là tiền đề mở ra một giai đoạn mới- giai
đoạn cuối của chương trình tiểu học. Nếu như chúng ta không biết phối hợp giữa
gia đình và nhà trường để giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản về hình học
ngay từ lớp 3, thì càng lên lớp trên các em càng tỏ ra lúng túng, khó khăn hơn
rất nhiều.
2.2.2 Kết quả của thực trạng trên:
Đầu năm học (tháng 9 năm 2016) tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng về
hình học của học sinh lớp 3A, kết quả thu được là:
Tổng số học sinh tham gia khảo sát: 18 em. Trong đó:
Tổng số
HS
Kiến thức
Kĩ năng
- Vẽ hình
18 em
- Ghi nhớ,
vận dụng công
thức
- Nhận dạng
hình
HTT
Hoàn thành
CHT
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2
11,2%
9
50%
7
38,8 %
1
5,6%
9
50%
8
44,4 %
1
5,6%
10
56%
7
38,4%
Trước thực trạng trên đây, để giúp học sinh nắm kiến thức về hình học tốt
hơn, tôi đã nhanh chóng bắt tay vào việc nghiên cứu, rút kinh nghiệm và mạnh
dạn cải tiến phương pháp giảng dạy “các yếu tố hình học” để vận dụng thực
hành ngay trên lớp 3A tôi chủ nhiệm. Đến nay, việc nghiên cứu đã mang lại
hiệu quả.
2.3. Một số biện pháp thực hiện trong quá trình dạy các yếu tố hình
học
2.3.1. Xác định vị trí, tầm quan trọng của một tiết hình học:
Để tiết học thực sự gây nhiều hứng thú học tập và phát huy tính tích cực
học tập của học sinh, giáo viên cần hiểu rõ được mỗi tiết hình học có nội dung
mang tính chất thực tế cao, học sinh khám phá kiến thức về nội dung này thông
qua con đường thực nghiệm. Nghĩa là các em được trực tiếp quan sát, đo đạc, so
sánh và phân tích để đi đến khái quát, tổng hợp ... Vì thế, mỗi tiết học hình có
tác dụng to lớn trong việc phát triển trí tuệ, bồi dưỡng những đức tính, phẩm
chất tốt đẹp của con người mới như: óc ghi nhớ, trí tưởng tượng, suy luận lô gíc,
tính cẩn thận, chắc chắn trong công việc.
2.3.2. Tìm hiểu kĩ nội dung tiết học:
4
Trong mỗi tiết hình học thường gồm có hai phần: Một phần hình thành
kiến thức mới và một phần là bài tập vận dụng, củng cố, mở rộng kiến thức vừa
học. Vì vậy, trước khi lập kế hoạch cho bài dạy chúng ta cần phải nghiên cứu kĩ
nội dung bài, tìm hiểu những kiến thức có liên quan đến kiến thức mới, xác định
rõ điểm trọng tâm của bài, đồng thời cũng cần phải dự kiến các tình huống có
thể xảy ra như: Học sinh chưa nắm vững đặc điểm của hình, còn lúng túng trong
cách lập luận hoặc có thể có học sinh sẽ đưa ra những ý nghĩ, những câu hỏi hóc
búa đòi hỏi giáo viên phải suy nghĩ cặn kẽ để đưa ra cách giải quyết sao cho
khoa học mà học sinh dễ hiểu, nhằm tránh sự lúng túng trong khi lên lớp. Cũng
từ đó xác định mục tiêu, phương pháp, đồ dùng dạy học, hệ thống câu hỏi khai
thác ở học sinh từ kiến thức cũ đã có, đi đến kiến thức mới một cách lô gíc và
hợp lí nhất, làm cho tiết học được tự nhiên mà học sinh ngày càng ham thích học
toán hơn.
2.3.3. Xác định mục tiêu cần đạt:
Một việc làm vô cùng quan trọng trước khi tiến hành cho một tiết dạy đó
là giáo viên cần xác định rõ mục tiêu, sau bài học đó học sinh sẽ nắm được
những kiến thức gì, hình thành và phát triển ở học sinh những kĩ năng nào; xác
định mức giới hạn của bài, để truyền đạt kiến thức sao cho vừa sức đối với học
sinh nhưng phát huy được vốn tích cực của các em, mà tránh được sự quá tải,
nặng nề trong tiết học. Thực tế, phần nhiều giáo viên khi soạn bài chỉ xem qua
loa phần mục tiêu trong sách giáo viên. Vì thế, họ không nắm chắc được mục
tiêu của tiết học nên rất lúng túng khi thực hiện bài dạy. Ngược lại, một số giáo
viên do quá say mê đi sâu khai thác, truyền thụ kiến thức cho học sinh mỗi lúc
một mở rộng thêm, dần dần vô tình đã làm cho học sinh quá tầm suy nghĩ mà trở
nên chán nản, không nắm được bài, làm cho tiết học không mang lại kết quả
cao. Chính vì lẽ đó mà giáo viên cần phải có khả năng tự xác định mục tiêu, nội
dung và giới hạn kiến thức của tiết học thì mới có thể chủ động, tự nhiên trong
quá trình dạy học.
2.3.4. Chuẩn bị đồ dùng cho mỗi tiết học:
Với đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học thì tư duy trừu tượng của
các em chưa phát triển, mà tư duy cụ thể chiếm ưu thế hơn. Vì vậy, ở mỗi tiết
học hình giáo viên đều phải chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo, bởi đồ dùng dạy
học vừa là phương tiện truyền tải thông tin, vừa là nội dung của quá trình truyền
thụ kiến thức, rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh và điều khiển hoạt động
nhận thức cho các em từ trực quan đến tư duy trừu tượng.
Khi sử dụng đồ dùng dạy học, giáo viên cần chú ý mấy điểm sau:
+ Đồ dùng dạy học phải đảm bảo tính khoa học, chính xác, đủ kích thước
để học sinh dưới lớp có thể quan sát rõ.
+ Giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học phải đúng lúc, đúng mức độ, tránh
sử dụng một cách tuỳ tiện, vì như thế sẽ tạo điều kiện cho học sinh ngại suy
5
nghĩ, ngại sử dụng trí tưởng tượng và làm việc một cách máy móc, thiếu linh
hoạt.
Đồ dùng dạy học của tiết hình học thường là các hình vẽ, mô hình, tranh
ảnh, thước đo và các đồ vật thật học sinh quan sát ngoài thực tế. Tuỳ theo từng
nội dung bài học mà giáo viên chọn đồ dùng sao cho đảm bảo tính sư phạm, tính
thẩm mĩ, tránh sự lạm dụng, nhàm chán.
2.3.5. Xác định phương pháp dạy học:
Tuỳ theo từng nội dung bài học, từng mảng kiến thức trong từng hoạt
động mà ta xác định phương pháp dạy học sao cho phù hợp để học sinh nắm bắt
kiến thức một cách chắc chắn, lô gíc nhưng lớp học vẫn nhẹ nhàng, không căng
thẳng. Điều cơ bản là giáo viên phải biết phối hợp nhịp nhàng các phương pháp
cho từng hoạt động, thể hiện rõ việc làm của thầy và trò trong việc hướng dẫn
học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới, sao cho mỗi học sinh đều được hoạt động,
được tự mình tham gia đo, vẽ, cắt ghép, nhận dạng, tính toán...tạo dựng ra các
biểu tượng hình học một cách chủ động, tích cực và tự tin.
2.3.6. Một số biện pháp dạy học cụ thể cho từng dạng bài:
Các dạng bài trong nội dung yếu tố hình học lớp 3 gồm:
+ Dạng bài nhận dạng hình.
+Dạng bài tính chu vi.
+ Dạng bài tính diện tích.
2.3.6.1. Đối với dạng bài nhận dạng hình: (gồm các nội dung: góc
vuông, góc không vuông, hình vuông, hình chữ nhật, điểm ở giữa, trung điểm
của đoạn thẳng, hình tròn). Giáo viên cần tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan để giúp học sinh có khái
niệm về hình.
Bước 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý giúp học sinh thực hành trên đồ dùng
trực quan để nhận ra đặc điểm về hình.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh vẽ hình.
Bước 4: Giáo viên đưa ra một số mô hình hình học khác nhau, đặt ở các
vị trí khác nhau để học sinh nhận dạng hình mới học. Khi học sinh đưa ra nhận
xét về hình, giáo viên nên đặt câu hỏi yêu cầu học sinh giải thích'' vì sao?'' bởi từ
câu hỏi này đã nhắc nhở các em trở lại các căn cứ cơ sở về đặc điểm của hình
vừa học để trả lời.
Bước 5: Giúp học sinh liên hệ với các hình ảnh xung quanh lớp học và
ngoài thực tế về các vật có dạng hình vừa học.
Bước 6: Hướng dẫn học sinh làm bài tập.
Bước 7: Củng cố, dặn dò học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài ''hình vuông'':
6
Giáo viên cho học sinh quan sát hình vuông và giới thiệu ''đây là hình
vuông''.
Hỏi: Hình vuông gồm có mấy góc? Mấy cạnh? (4góc, 4cạnh)
-Yêu cầu học sinh dùng ê ke để kiểm tra các góc của hình vuông và trả lời câu
hỏi:
''các góc của hình vuông như thế nào?'' (đều là góc vuông).
-Yêu cầu học sinh lên đo 4 cạnh của hình vuông rồi trả lời câu hỏi:''em có nhận
xét gì về 4 cạnh của hình vuông?'' (4cạnh đều bằng nhau).
? Vậy hình vuông có đặc điểm gì? (có 4 góc vuông và 4 cạnh bằng nhau).
- Giáo viên rút ra kết luận về hình vuông và yêu cầu nhiều học sinh nhắc lại.
Hướng dẫn học sinh dùng thước và ê ke để vẽ hình vuông.
- Giáo viên đưa ra một số hình tứ giác ( Bằng giấy bìa cứng đã cắt sẵn) yêu cầu
học sinh nhận biết hình nào là hình vuông? Hình nào không phải là hình vuông?
Giải thích vì sao?
-Yêu cầu học sinh liên hệ các đồ vật xung quanh có dạng hình vuông.
-Hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên theo dõi, giúp đỡ học sinh vẽ hình
chính xác.
- Cuối cùng, giáo viên cho học sinh nhắc lại đặc điểm của hình vuông.
Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập giáo viên cần chú ý những điểm sau:
1.1. Đối với các bài tập dạng vẽ hình, cần rèn luyện cho học sinh thói quen
vẽ hình thật chính xác, điều này sẽ giúp các em nắm vững hơn về đặc điểm của
hình và nhận dạng hình đúng. Hơn nữa sau này gặp các bài toán có nội dung
phải tóm tắt bằng hình vẽ nếu các em vẽ hình chính xác thì sẽ suy luận tìm ra
cách giải một cách dễ dàng hơn.
1.2. Đối với bài tập có dạng đếm hình, cần hướng dẫn học sinh đánh số
vào từng hình riêng lẻ rồi lần lượt ghép các hình riêng lẻ đó lại theo một trình tự
nhất định và đếm tất cả các trường hợp có thể. Ví dụ: Hướng dẫn học sinh tìm số
hình tam giác trong hình bên:
- Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự vào từng hình riêng lẻ.
- Đếm lần lượt các tam giác tạo bởi một hình là (3 tam giác
các tam giác tạo bởi 2 hình là (2 tam giác); tam giác tạo 3 hình (có một tam
giác)..
Vậy số hình tam giác có tất cả là: 3 + 2 + 1 = 6 tam giác.
7
Ngoài cách đánh số, có những bài có số lượng hình nhiều hơn dành cho học
sinh có năng khiếu cần hướng dẫn bằng cách xác định hình qua đoạn thẳng và
các điểm nối trên đoạn thẳng. VD: Hướng dẫn học sinh
đếm số hình chữ nhật trong hình bên:
B
A
-Ta xét các hình chữ nhật tạo bởi 2 cạnh M
AB và MN và các đoạn thẳng nối các điểm
trên 2 cạnh AB, DC ta đếm được 10 hình P
chữ nhật.
D
N
Q
C
-Tương tự đếm các hình chữ nhật tạo bởi 2 cạnh MN và PQ, PQ và CD đều có
10 hình chữ nhật.
-Tiếp tục xét các hình chữ nhật tạo bởi 2 cạnh AB và PQ và các đoạn thẳng nối
các điểm trên 2 cạnh AB, DC ta đếm được 10 hình chữ nhật.
-Tương tự ta tính được số hình chữ nhật tạo bởi 2 cạnh MN và DC, AB và DC
đều có 10 hình.
Vậy số hình chữ nhật đếm được trong hình bên là:
10 + 10 + 10 + 10 + 10 + 10 = 60 (hình)
1.3. Đối với các bài tập dạng vẽ đoạn thẳng vào hình cho trước để được một số
hình theo yêu cầu, giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát kĩ hình, đếm số
hình đã có sẵn rồi xác định vị trí của đoạn thẳng trên hình để được số hình theo
yêu cầu. VD:Vẽ thêm đoạn thẳng vào hình dưới đây để có 9 hình chữ nhật:
Ta thấy trong hình đã có sẵn 3 hình chữ nhật. Trong đó
có 2 hình đơn và 1 hình đôi, cần xác định vị trí của đoạn
thẳng sao cho đoạn thẳng này cắt hình chữ nhật lớn làm
4 hình đơn và 4 hình đôi để khi kết hợp với một hình
lớn ta được 9 hình. Vậy có thể đặt đoạn thẳng ở các vị trí là:
2.3.6.2. Dạng bài tính chu vi: (gồm các nội dung: Chu vi hình chữ nhật,
chu vi hình vuông):
- Đối với dạng bài này giáo viên cần nắm được chu vi của một hình chính là số
đo xung quanh của hình đó. Vì vậy cần tiến hành theo các bước sau:
- Đầu tiên giáo viên giúp học sinh nhớ lại khái niệm về chu vi (tức là số đo xung
quanh), sau đó khai thác ở học sinh kiến thức cũ đã học để đi đến kiến thức mới
8
qua đồ dùng trực quan và xây dựng thành quy tắc, từ đó hướng dẫn học sinh vận
dụng vào làm các ví dụ cụ thể qua các bài tập cho thành thạo, nhuần nhuyễn.
- Khi học sinh đã vận dụng giải các bài tập một cách thuần thục, giáo viên cần
giúp học sinh dựa vào quy tắc để suy luận ra cách tính ngược quy tắc rồi mới
củng cố lại bài.
Ví dụ: Dạy bài chu vi hình chữ nhật:
- Giáo viên cho học sinh nhắc lại cách tính chu vi hình tứ giác (đã học ở lớp 2).
- Yêu cầu học sinh tính chu vi hình tứ giác có kích thước cho sẵn ở các cạnh.
-Từ đó liên hệ sang bài toán tính chu vi hình chữ nhật ABCD có chiều dài 4 dm,
rộng 3dm.
- Giáo viên cho học sinh quan sát hình vẽ rồi gọi học sinh lên bảng làm.
Học sinh tính chu vi hình chữ nhật là : 4 + 3 + 4 + 3 = 14 (dm)
(1)
- Từ đây bằng câu hỏi gợi mở giúp học sinh nhận ra (4 + 3) được lấy 2 lần và
yêu cầu học sinh chuyển phép tính trên thành phép nhân: (4+3) x 2 = 14 (dm)
(2)
- Yêu cầu học sinh nhìn vào biểu thức (2) nhận ra 3 là số đo chiều rộng , 4 là số
đo chiều dài của hình chữ nhật.Từ đó giúp học sinh nhận ra cách tính chu vi
hình chữ nhật và học thuộc quy tắc.
- Giáo viên lưu ý nhấn mạnh các số đo chiều dài và chiều rộng phải cùng một
đơn vị đo.
- Hướng dẫn học sinh làm bài tập vận dụng.
Khi học sinh đã nắm được quy tắc và vận dụng làm tốt các bài tập, giáo viên
cần đưa ra các câu hỏi giúp học sinh suy luận:
Hỏi:+ Muốn tính chu vi hình chữ nhật ta lấy chiều dài cộng chiều rộng rồi nhân
với 2. Vậy muốn tính nửa chu vi hình chữ nhật ta làm thế nào?
+ Giáo viên chỉ vào chiều dài và chiều rộng của hình chữ nhật và hỏi: Tổng số
đo chiều dài và chiều rộng của hình chữ nhật là gì? (là nửa chu vi).
+ Khi biết chu vi và chiều dài muốn tính chiều rộng hình chữ nhật ta làm thế
nào? (Lấy chu vi chia cho 2 rồi trừ đi chiều dài).
+ Khi biết chu vi và chiều rộng, muốn tìm chiều dài hình chữ nhật ta làm thế
nào? (Lấy chu vi chia cho 2 rồi trừ đi chiều rộng).
- Cuối cùng giáo viên củng cố lại cách tính chu vi hình chữ nhật.
2.3.6.3. Dạng bài tính diện tích (gồm các nội dung: Diện tích hình vuông,
diện tích hình chữ nhật):
Trước hết giáo viên cần phải giúp học sinh nắm được khái niệm cơ bản về
diện tích chính là bề mặt của hình, từ đó làm rõ nguồn gốc thực tế của diện tích
bằng cách cho học sinh quan sát hình vẽ, tự xếp hình để đi đến cách tính diện
tích của hình.
Khi dạy dạng bài này ta cần thực hiện qua các bước đó là:
9
Bước 1: Ôn lại về diện tích.
Bước 2: Xác định diện tích hình chữ nhật.
Bước 3: Hướng dẫn tính diện tích hình chữ nhật.
Bước 4: Xây dựng quy tắc tính diện tích hình chữ nhật.
Bước 5: Hướng dẫn thực hành.
Bước 6: Giúp học sinh suy luận ngược quy tắc.
Bước 7: Củng cố dặn dò.
Ví dụ: Dạy bài "Diện tích hình chữ nhật":
Giáo viên cho học sinh quan sát hình chữ nhật có chiều dài 3cm, rộng 2cm và
hình vuông đơn vị 1cm2 (lưu ý: giáo viên cần phóng to hình lên để học sinh quan
sát rõ).
Giáo viên chia hình chữ nhật thành 6 ô vuông có cạnh 1cm
-Yêu cầu học sinh so sánh kích thước của các ô vuông vừa chia với ô vuông
đơn vị.
Hỏi: + Hình chữ nhật này có mấy ô vuông? (6 ô vuông)
+ Vậy diện tích hình chữ nhật này là mấy ô vuông? (6 ô vuông)
Giáo viên lệnh cho học sinh:
+Lấy trong bộ đồ dùng học tập của mình một hình chữ nhật và một số ô vuông
đơn vị (lưu ý: ô vuông đơn vị là 1cm2)
+Xếp các ô vuông đơn vị phủ kín hình chữ nhật (12ô)
+Đếm số ô vuông đơn vị để nêu diện tích hình chữ nhật (12ô - Tức là 12cm2).
- Yêu cầu học sinh: * Tính số ô vuông theo cột:
4 x 3 = 12(ô vuông)
(1)
*Tính số ô vuông theo hàng:
3 x 4 = 12(ô vuông)
(2)
+Vậy diện tích hình chữ nhật là bao nhiêu cm2? (12 cm2).
-Yêu cầu học sinh nhìn vào hình và cho biết:
+Số đo chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật? (dài 4cm, rộng 3cm).
+Em có nhận xét gì về các thừa số trong biểu thức (1) và (2) so với chiều dài,
chiều rộng của hình chữ nhật? (chiều dài, chiều rộng chính là các thừa số của hai
biểu thức trên).
+Vậy muốn tính diện tích hình chữ nhật ta làm thế nào? (lấy chiều dài nhân với
chiều rộng hoặc lấy chiều rộng nhân với chiều dài).
- Giáo viên lưu ý cho học sinh các số đo chiều dài và chiều rộng phải cùng một
đơn vị đo.
-Yêu cầu nhiều học sinh nhắc lại quy tắc và học thuộc quy tắc tại lớp.
10
-Hướng dẫn học sinh làm bài tập. Bước này cần để các em tự hoạt động. Giáo
viên chỉ theo dõi, giúp đỡ những em chưa hiểu bằng các câu hỏi gợi mở để các
em hiểu và tự làm bài, tránh áp đặt, làm thay cho học sinh.
- Sau khi học sinh đã vận dụng làm tốt các bài tập, giáo viên cần yêu cầu học
sinh dựa vào quy tắc nêu cách tính chiều dài hình chữ nhật khi biết diện tích và
chiều rộng; tính chiều rộng khi biết diện tích và chiều dài.
- Cuối cùng giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại cách tính diện tích; tính chiều
dài; tính chiều rộng của hình chữ nhật.
2.3.6.4. Minh họa bằng một tiết dạy cụ thể:
Trên đây là một số ý kiến chủ quan của bản thân nhằm nâng cao chất lượng
dạy học yếu tố hình học ở lớp 3, tôi đã vận dụng vào giảng dạy trực tiếp ngay
trên lớp 3A mà tôi chủ nhiệm, kết quả học tập của học sinh có tiến bộ rõ rệt. Sau
đây tôi xin trình bày một giáo án minh hoạ:
Toán
Tiết 96: Điểm ở giữa - trung điểm của đoạn thẳng
Tìm hiểu kiến thức sẵn có ở HS: Trong cuộc sống hằng ngày, học sinh thường
đã gặp và sử dụng các từ "ở giữa", chẳng hạn như bạn này ''ngồi giữa"hai bạn
kia hay em ''đứng giữa" bố và mẹ...Vì vậy khi dạy bài này giáo viên cần khai
thác kinh nghiệm sẵn có ở học sinh, hỗ trợ giúp các em tự khám phá, chiếm lĩnh
kiến thức mới.
I. Mục tiêu: Giúp học sinh:
- Hiểu thế nào là điểm ở giữa hai điểm.
- Hiểu thế nào là trung điểm của một đoạn thẳng.
- Có kĩ năng nhận biết được điểm ở giữa hai điểm, trung điểm của một đoạn
thẳng.
II. Chuẩn bị:
1. Chuẩn bị của giáo viên:
O
B
- Một băng giấy vẽ hình ảnh điểm O ở giữa hai điểm A và B. A
-Một băng giấy vẽ hình ảnh điểm M là trung điểm của đoạn thẳng AB.
A
M
B
-Một băng giấy ghi khái niệm điểm ở giữa (SGK).
-Một băng giấy ghi điều kiện để M là trung điểm của đoạn thẳng (SGK).
-Một băng giấy ghi câu kết luận ''M được gọi là trung điểm của đoạn thẳng AB''.
-Một tờ giấy khổ to vẽ hình và các câu hỏi a), b) của bài tập 3 trong vở bài tập.
2. Chuẩn bị của học sinh:
- Bảng con, phấn, thước kẻ có vạch chia cm.
11
-Vở bài tập.
III. Phương pháp dạy học:
- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp luyện tập thực hành.
IV. Các hoạt động dạy học chủ yếu:
1. Giới thiệu bài:
Giáo viên đưa ra tình huống ''bàn bạn Nam có 3 bạn: Hùng, Nam và Lan, các
em quan sát và cho cô biết: Bạn Nam ngồi ở vị trí nào so với hai bạn Hùng và
Lan?'' (ở giữa hai bạn).
- Giáo viên tiếp: Tính từ ngoài vào trong ta thấy bạn Hùng đến bạn Nam rồi đến
bạn Lan, còn tính từ trong ra ngoài thì đầu tiên là bạn Lan, đến bạn Nam rồi đến
bạn Hùng. Vậy ta nói: Bạn Nam ''ngồi giữa'' hai bạn Hùng và Lan. Nhưng trong
toán học, điểm này ở giữa hai điểm kia được hiểu như thế nào? Tiết học hôm
nay ''điểm ở giữa - Trung điểm của đoạn thẳng'' sẽ giúp các em hiểu được điều
đó.
2. Dạy học bài mới:
Hoạt động 1: Giới thiệu điểm ở giữa.
- Giáo viên yêu cầu học sinh lấy bảng
-Học sinh thực hiện lần lượt theo
con và nêu các lệnh:
từng lệnh của giáo viên.
+Kẻ đường thẳng.
+Vẽ hai điểm A,B trên đường thẳng.
+Vẽ điểm O ở giữa hai điểm A,B
A
O
B
- Giáo viên sửa lỗi cho những em làm còn
lúng túng.
- Giáo viên treo băng giấy vẽ hình ảnh
-Học sinh quan sát băng giấy trả
điểm O ở giữa hai điểm A,B yêu cầu học
lời câu hỏi.
sinh nhận xét:
+Nêu thứ tự của các điểm tính từ trái sang
A đến O đến B.
phải
+Nêu thứ tự của các điểm tính từ phải sang
trái ?
- B đến O rồi đến A.
+ Vậy điểm O ở vị trí nào so với 2 điểm A
- O là điểm ở giữa 2 điểm A,B.
và B?
+ 3 điểm A,O,B có thẳng hàng không?
- 3 điểm A,O,B thẳng hàng.
- GV treo băng giấy ghi kết luận về điểm
12
ở giữa (như SGK) lên bảng.
- GV nêu ví dụ để HS xác định điểm ở giữa
Trong các hình dưới đây:
M
N
P I
(Hình a)
O
P
- Nhiều HS đọc câu kết luận. Cả
lớp đọc đồng thanh.
K
N
(Hình b)
- Học sinh xác định: N là điểm ở
giữa hai điểm M và P.
Q
- Hình (b) và hình (c) không có
điểm ở giữa.
(Hình c)
+ N là điểm ở giữa hai điểm M,P vì sao?
+ở hình b),K không phải là điểm ở giữa 2
điểm I và N vì sao?
+Hình c), P không phải là điểm ở giữa 2 điểm
O và Q vì sao?
- Giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại kết luận
Hoạt động 2: Giới thiệu trung điểm của đoạn
thẳng.
- Giáo viên yêu cầu HS làm bảng con theo
lượt lần lượt các lệnh:
+Kẻ đoạn thẳng PQ có độ dài 12cm.
+Vẽ điểm M ở giữa 2 điểm P,Q sao cho:
PM = 6cm.
- GV giúp đỡ học sinh còn lúng túng.
- Yêu cầu học sinh đo độ dài đoạn thẳng PM.
? So sánh độ dài đoạn PM và độ dài đoạn MQ?
+Vậy điểm M có cách đều 2 điểm P và Q
không?
- GV treo băng giấy vẽ hình ảnh điểm M là
Trung điểm của đoạn thẳng AB và yêu cầu HS
nhận xét:
-Vì 3 điểm M,N,P thẳng hàng.
-Vì 3 điểm I,K,N không thẳng
hàng.
-Vì 3 điểm O,P,Q không thẳng
hàng.
- 2, 3 học sinh nhắc lại kết luận.
- HS làm bảng con theo lần
lượt từng lệnh của GV.
-Học sinh vẽ hình.
P
M
Q
-HS đo và nêu PM = 6cm
-Đều bằng nhau và bằng 6cm
- Điểm M cách đều 2 điểm P,Q
-HS quan sát băng giấy trên
bảng và nhận xét.
A
M
B
+ Điểm M nằm ở vị trí nào so với 2 điểm A,B? - Điểm M nằm ở giữa A,B
+ Đo độ dài 2 đoạn thẳng AM và MB rồi so
Sánh.
- Đoạn thẳng AM bằng đoạn thẳng MB và
13
bằng 5dm.
- GV kết luận: M là điểm ở giữa 2 điểm A và B,
đoạn thẳng AM bằng đoạn thẳng MB. Ta nói M
là trung điểm của đoạn thẳng AB.
? Vậy để M là trung điểm của đoạn thẳng AB - M là điểm ở giữa 2 điểm A và
cần thoả mãn điều kiện nào?
B.
- GV dán băng giấy ghi 2 điều kiện để M là
- Độ dài đoạn thẳng MA bằng
trung điểm của đoạn thẳng AB và băng giấy
độ dài đoạn thẳng MB
ghi kết luận (SGK) lên bảng.
-Học sinh quan sát và đọc cá
nhân, đọc đồng thanh.
- GV đưa ra các ví dụ yêu cầu HS xác định trung
điểm của đoạn thẳng:
C
E
D
(Hình a)
M
P
N
I
H
K
(Hình b)
(Hình c)
+Vì sao em biết H là trung điểm của đoạn
thẳng IK?
+Vì sao P không phải là trung điểm của đoạn
thẳng MN?
+Vì sao E không phải là trung điểm của đoạn
thẳng CD?
Hoạt động 3: Hướng dẫn thực hành.
Bài 1: Yêu cầu HS làm cá nhân.
- GV theo dõi, giúp đỡ HSCHT.
- GV nhận xét, chốt lại ý đúng.
- Củng cố lại kiến thức về điểm ở giữa.
Bài 2, bài 3:
-Yêu cầu HS trao đổi theo nhóm .
-HS nêu chỉ có ở hình (c) điểm
H là trung điểm của đoạn
thẳng IK.
-Vì H là điểm ở giữa 2 điểm I,
K.
Và đoạn thẳng IH bằng đoạn
thẳng HK.
-Vì đoạn thẳng MP không
bằng đoạn thẳng PN.
-Vì E không phải là điểm ở
giữa điểm C, D.
HS làm bài tập trong vở bài
tập.
-HS tự làm bài rồi nêu miệng
kết quả.
-HS khác nhận xét.
-HS hai bàn một nhóm trao
14
đổi với nhau.
- GV vẽ hình bài tập 2 và dán băng giấy của bài
tập 3 lên bảng.
-Yêu cầu đại diện từng nhóm trình bày kết quả -Đại diện mỗi nhóm trình bày
và giải thích cách làm.
kết quả, nhóm khác nhận xét.
- GV nhận xét, kết luận ý đúng.
- Củng cố lại kiến thức về trung điểm của đoạn
thẳng.
Bài 4:
Yêu cầu HS làm bài cá nhân.
-HS làm bài cá nhân, kiểm tra
kết quả lẫn nhau.
- GV củng cố cho HS cách vẽ hình theo mẫu.
- GV chấm một số vở của học sinh.
3. Củng cố dặn dò:
-Yêu cầu HS nhắc lại thế nào là điểm ở giữa,
- 1, 2 HS nhắc lại.
thế nào là trung điểm của đoạn thẳng.
- GV nhận xét giờ học, dặn HS về nhà làm bài
tập trong SGK và chuẩn bị bài sau.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Tôi đã áp dụng cách làm này vào tất cả các tiết học toán có nội dung hình
học và thấy được chất lượng học tập của học sinh ngày càng tiến bộ. Các em có
hứng thú và tích cực tham gia các hoạt động học tập trong mỗi tiết học, đặc biệt
là các em đều ham thích học toán. Tình trạng học sinh vẽ hình sai hoặc chưa
nắm được kiến thức cơ bản về hình đã giảm rõ rệt, giáo viên cảm thấy tiết học
thật sự nhẹ nhàng, tự nhiên. Học sinh tiếp thu bài dễ dàng, gây được hứng thú
học tập cho các em.
Chất lượng kiến thức hình học của học sinh lớp 3A được đánh giá cụ
thể là:
Tổng số
HS
18 em
Kiến thức
Kĩ năng
HTT
Hoàn thành
CHT
SL
TL
SL
TL
SL
TL
- Vẽ hình
9
50%
9
50%
0
0%
- Ghi nhớ,
vận dụng công
thức
7
38,9%
11
61,1%
0
0%
15
- Nhận dạng
hình
4
22,4%
13
72%
1
5,6%
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn và bằng thực tế đã một
số năm kinh nghiệm qua việc trực tiếp giảng dạy lớp 3 với sự giúp đỡ của Ban
giám hiệu, đồng nghiệp và các em học sinh lớp 3A Trường Tiểu học Lương Sơn
2 huyện Thường Xuân, nên đề tài nghiên cứu của tôi đã thu được một số kết quả
đáng khích lệ sau:
- Phân tích được cơ sở tâm lí học của học sinh Tiểu học trong quá trình
nhận thức.
- Thống kê được các dạng toán về hình học trong nội dung chương trình
lớp 3.
- Phân tích và chỉ ra được các bước quan trọng trong quá trình hướng dẫn
học sinh vẽ hình, ghi nhớ, vận dụng công thức, nhận dạng hình.
- Phân tích và nêu một số ví dụ cụ thể cho việc thực hiện từng bước trong
quá trình hướng dẫn học sinh vẽ hình, ghi nhớ, vận dụng công thức, nhận dạng
hình.
- Đặc biệt là đã nêu lên được một số biện pháp cụ thể trong việc hướng
dẫn học sinh học yếu tố hình học.
Để đạt được kết quả cao trong việc học yếu tố hình học đòi hỏi người học
sinh tính tích cực, độc lập sáng tạo trong suy nghĩ, khả năng thực hành. Vì vậy
giáo viên phải là người nắm được đặc điểm tâm lí, kết quả học tập của học sinh.
Từ đó phân loại đối tượng. Lên kế hoạch, lựa chọn phương pháp dạy học phù
hợp, khuyến khích động viện học sinh kịp thời. Tổ chức cho học sinh học nhóm
kèm cặp lẫn nhau. Giáo viên thường xuyên kiểm tra đánh giá kết quả và sửa
chữa những thiếu sót của học sinh. Phối hợp với phụ huynh tạo điều kiện và có
kế hoạch cho học sinh học ở nhà. Để làm được việc này giáo viên cần tôn trọng
học sinh, nhiệt tình trong giảng dạy, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
Bằng kinh nghiệm nhỏ trên tôi nhận thấy học sinh có rất nhiều tiến bộ
trong việc vẽ hình, ghi nhớ, vận dụng công thức, nhận dạng hình. Tạo được
niềm say mê học tập ở học sinh. Cuốn hút các em thêm yêu thích môn toán, với
mong muốn được khám phá bầu trời trí thức của khoa học tự nhiên.
Việc nắm vững các dạng bài trong học yếu tố hình học sẽ giúp các em có
được kĩ năng tính toán, vẽ hình, đo đạc, ước lượng, sử dụng dụng cụ toán học
trong thực tế. Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã áp dụng và nó đã mang lại
nhiều hiệu quả. Tôi tin rằng sáng kiến này sẽ giúp cho nhiều giáo viên có được
cách hướng dẫn học sinh, để các em học yếu tố hình học tốt hơn, từ đó giúp
16
nâng cao chất lượng môn toán nói riêng và chất lượng giáo dục học sinh nói
chung.
3.2. Kiến nghị:
Để dạy tốt“ yếu tố hình học ở lớp 3” tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
+ Về phía giáo viên:
- Trước khi tiến hành bài dạy, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài, tìm ra
mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức cũ đã học có liên quan, để khai
thác kiến thức, kĩ năng sẵn có ở học sinh từ kiến thức cũ đi đến khám phá, chiếm
lĩnh kiến thức mới.
- Giáo viên phải luôn luôn gương mẫu trong khi nói, viết, vẽ hình hay sử dụng
đồ dùng dạy học. Bởi nó là hình ảnh trực quan thiết thực nhất đối với học sinh.
- Trong quá trình dạy học giáo viên cần khuyến khích học sinh dựa vào khái
niệm để làm căn cứ, cơ sở cho lời nhận xét của mình; dựa vào quy tắc để lật lại
vấn đề tính xuôi, tính ngược quy tắc nhưng chú ý phải đảm bảo tính vừa sức đối
với học sinh.
- Khi hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành cần để các em làm việc theo khả
năng của mình, không nên bắt các em phải chờ đợi nhau. Đặc biệt đối với những
học sinh yếu kém giáo viên cần hướng dẫn các em lần lượt từng bước để các em
nhận ra cách làm, tuyệt đối không được làm thay học sinh.
- Trong mọi tình huống xảy ra ở tiết học giáo viên cần chú ý luôn tạo cho lớp
học không khí tự nhiên, thoải mái không áp đặt để kích thích sự hào hứng, say
mê học tập của học sinh.
+ Về phía nhà trường:
- Cần đầu tư mua sắm bổ sung thêm các thiết bị, đồ dùng dạy học để phục vụ
cho việc giảng dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh đạt kết quả.
- Nhà trường cần tổ chức các buổi hội thảo về việc sử dụng đồ dùng dạy học
hàng năm để giáo viên rút kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau trong quá trình làm và
sử dụng đồ dùng dạy học ở các tiết học.
- Cần thống nhất cách sử dụng đồ dùng dạy học trong từng môn, từng tiết học
sao cho hợp lí.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã - đang và tiếp tục thực hiện để dạy tốt
“yếu tố hình học ở lớp 3”. Do điều kiện khả năng và thời gian có hạn nên đề tài
chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp
ý kiến của Hội đồng Khoa học các cấp và tất cả các đồng nghiệp để đề tài được
hoàn chỉnh hơn, góp phần làm tốt công tác giáo dục thế hệ trẻ trong xã hội mới.
17
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 1 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)
NGƯỜI THỰC HIỆN
Trịnh Thị Minh
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Trung Hiệu, Đỗ Đình Hoan, Vũ Dương Thụy, Vũ Quốc Chung - Phương
Pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học.
2. Đỗ Trung Hiệu, Vũ Dương Thụy – Các phương pháp giải Toán ở Tiểu học –
NXBGD 2000.
3. SGK và SGV lớp 3 (Sách năm 2000) NXBGD Hà Nội.
4. Hồ Ngọc Đại, Tâm lí học sư phạm và trẻ em, NXBĐHQG Hà Nội.
19
- Xem thêm -