Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
MỤC LỤC
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
Mục
Tên đề mục
Trang
I.
Đặt vấn đề
2
II.
Mục đích nghiên cứu
3
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Mục
Tên đề mục
Trang
I.
Cơ sở lí luận của vấn đề
3
II.
Thực trạng của vấn đề
4
III.
Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
8
IV.
Tính mới của giải pháp
20
V.
Hiệu quả của sáng kiến.
21
Phần thứ ba: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Mục
Tên đề mục
Trang
I.
Kết luận
23
II.
Kiến nghị
24
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 1
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
Phần thứ nhất: MỞ
ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Trong công cuộc đổi mới giáo dục bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành theo ba
hướng: Đổi mới sách giáo khoa ở tất cả các cấp học phổ thông, đổi mới phương pháp
dạy học, đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh. Đi đôi với việc đổi mới SGK, đổi
mới chương trình là đổi mới phương pháp dạy học, được tiến hành với phần đông giáo
viên đang trực tiếp giảng dạy trên lớp hiện nay. Nhiều giáo viên đã thực hiện áp dụng
phương pháp mới nhưng chưa hiệu quả, chưa tích cực hóa và khơi dậy được năng lực
học tập thực sự của tất cả các đối tượng học sinh. Hầu hết các giáo viên chỉ mới quan
tâm đến đối tượng học sinh có lực học trung bình, nắm được kiến thức cơ bản trong tài
liệu hướng dẫn, còn đối tượng học sinh khá giỏi có năng lực tư duy sáng tạo và học
sinh có lực học yếu kém còn chưa được quan tâm, bồi dưỡng đúng mức trong giờ học,
chưa khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của từng cá nhân học
sinh. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, việc bồi dưỡng học sinh giỏi là
vấn đề rất cần thiết và cần được thực hiện ngay ở trong những tiết học đại trà nhằm
phát hiện và bồi dưỡng, ươm mầm những tài năng cho đất nước trong tương lai.
Không những đảm bảo chất lượng phổ cập đại trà mà đồng thời chú trọng phát hiện và
bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về Tiếng Việt, Toán và các môn học khác.
Từ trước đến nay, đổi mới phương pháp dạy học chưa được chú trọng đúng
mức, hầu hết các giáo viên chỉ dừng ở mức độ trang bị kiến thức cơ bản cho đối tượng
học sinh có lực học loại trung bình đại trà trong lớp, chưa thực sự quan tâm bồi dưỡng
đến đối tượng học sinh khá giỏi. Bởi lẽ họ chưa mạnh dạn, sợ cháy thời gian, không đủ
thời gian… ngại đầu tư thời gian nghiên cứu bài. Có những giáo viên mặc dù đã dạy
theo Mô hình trường học mới nhưng vẫn còn dạy theo cách như đã từng dạy từ mấy
chục năm qua, phương pháp đàm thoại là chủ yếu. Ngược lại, một số giáo viên lại chỉ
chú ý đến đối tượng học sinh khá giỏi song chưa thực sự quan tâm đến sự tiếp thu kiến
thức của đối tượng học sinh trung bình và yếu trong lớp, làm cho những học sinh này
không hiểu bài và có tư tưởng sợ học, giáo viên không bồi dưỡng lấp lỗ hổng kiến thức
cho các em ngay trong giờ học chính khóa. Bên cạnh đó là một số phương pháp dạy
học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, giảng giải, vấn đáp…còn nhiều mặt hạn
chế, chưa khắc phục được nhược điểm này. Vậy câu hỏi đặt ra là cần phải dạy học như
thế nào để trong một tiết dạy đảm bảo: bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho đối tượng
học sinh khá giỏi, trang bị kiến thức cơ bản cho học sinh trung bình và bồi dưỡng lấp
chỗ hổng cho học sinh yếu kém ? Theo tôi, hoàn toàn có thể áp dụng được trong các
tiết học Tiếng Việt hoặc các môn khác cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp
bằng những hình thức học tập, hệ thống câu hỏi, hệ thống bài tập thích hợp, bằng
những biện pháp phân hóa nội tại hợp lý, phù hợp với thực trạng học sinh trong lớp.
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 2
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
Qua khảo sát xét thấy tính khả thi và hiệu quả của đề tài rất cao nên trong năm học
này, tôi đã mạnh dạn áp dụng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp ba của trường
tiểu học Lý Tự Trọng. Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài:
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN.
Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết, cùng với quá trình tích hợp là phân
hóa. Phân hóa là phải dạy học sao cho phù hợp với từng người, từng nhóm khác nhau.
Mỗi người có một năng lực riêng, phù hợp với sở thích riêng, sở trường riêng, điều
kiện riêng.
II. Mục đích nghiên cứu
Áp dụng phương pháp dạy học phân hóa vào môn Tiếng Việt ở lớp Ba để vừa
bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho học sinh khá giỏi, vừa trang bị kiến thức cơ bản cho
học sinh trung bình, vừa bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém. Qua đó nâng
cao hiệu quả việc dạy học ở tất cả các môn học khác.
Nghiên cứu lí luận và thực tiễn dạy học phân hoá. Các hình thức dạy học phân
hóa. Tại sao phải thực hiện dạy học phân hoá trong giờ Tiếng Việt. Mối quan hệ giữa
phương pháp dạy học phân hoá với các phương pháp dạy học khác. Áp dụng dạy học
phân hoá vào môn Tiếng Việt cho học sinh như thế nào ? Xác định hệ thống phân hóa
các phân môn trong môn Tiếng Việt lớp Ba. Nghiên cứu những sai lầm thường gặp và
biện pháp khắc phục cho học sinh trong dạy học môn Tiếng Việt.
Thử nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề tài.
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận của vấn đề
Xu hướng dạy học phân hóa ở nhiều nước được thực hiện bằng cách định
hướng hoặc phân luồng cho học sinh ngay từ cấp tiểu học ở các môn học tự chọn. Các
định hướng này tạo cho HS các cơ hội lựa chọn cho mình hướng học lên phù hợp với
năng lực, sở thích, nguyện vọng và các điều kiện riêng của mỗi HS. Xuất phát từ chức
năng giáo dục, xét đến cùng là chức năng phát triển của mỗi cá nhân học sinh và trên
cơ sở đó tạo ra động lực thúc đẩy phát triển. Theo đó, cá nhân chỉ có thể có sự phát
triển tối đa khi nhà giáo dục và hệ thống giáo dục đáp ứng những khả năng, những nhu
cầu, nguyện vọng bằng một chương trình nội dung và cách thức phù hợp.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII đã nêu: “Đổi mới mạnh mẽ
phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành
nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy - học”.“Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất
quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ
chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện nền giáo dục nước
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 3
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và trên thế giới; khắc phục cách đổi
mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền
giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho
mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trên thực tế một bộ phận giáo viên vẫn bằng
kinh nghiệm của mình khi giảng dạy trên lớp đã có ý thức chuẩn bị công phu bài
giảng, tìm hiểu trình độ nhận thức chung của lớp, phát hiện những HS khá giỏi, những
HS còn yếu kém trong học tập, trên cơ sở đó xây dựng nội dung dạy học phù hợp.
Dạy học phân hóa xuất phát từ yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả mục đích
dạy học, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của từng
cá nhân. Việc kết hợp giữa giáo dục diện "đại trà" với giáo dục diện "mũi nhọn", giữa
phổ cập với nâng cao trong dạy học Tiếng Việt cần được tiến hành theo các tư tưởng
sau: Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền tảng. Người giáo
viên phải biết lấy trình độ phát triển chung và điều kiện chung của lớp làm nền tảng thì
mới có điểm xuất phát chắc chắn. Nội dung và phương pháp dạy học trước hết phải
thiết thực, phù hợp với trình độ và điều kiện chung đó. Phải tinh giảm nội dung, lược
bỏ những nội dung chưa sát thực, chưa phù hợp với yêu cầu thật cơ bản. Sử dụng
những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu kém lên trình độ trên trung bình.
Giúp các em đạt được chuẩn tối thiểu để có thể hòa nhập vào học tập đồng loạt theo
trình độ chung.
II. Thực trạng của vấn đề
Mỗi học sinh là một cá nhân có tiềm năng riêng, sở trường riêng, tình cảm và
động lực học tập khác nhau mà trong các tiết dạy giáo viên chỉ áp dụng một cách dạy
chung cho cùng một đối tượng học sinh thì chính người giáo đã bỏ lỡ mất nhiều cơ hội
cho những học sinh khác. Chính vì thế trong các tiết học giáo viên biết áp dụng tốt các
biện pháp phân hóa đồng thời có nhiệm vụ rõ ràng, phù hợp với từng đối tượng hoặc
nhóm đối tượng học sinh sẽ giúp các em phát triển tối đa năng lực cá nhân của bản
thân. Dạy học phân hóa tốt sẽ đáp ứng và phát huy được nguyện vọng, sở trường và
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của các cá nhân khác nhau. Dạy học phân hóa trong
giờ Tiếng Việt càng giúp học sinh có nhiều cơ hội để phát triển. Mỗi cá nhân dù ở bất
kì nhóm đối tượng nào đều có cơ hội để phát huy hết sở trường của bản thân. Tạo ra
động lực học tập cho các em, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tối đa tư chất và
năng lực của học sinh năng khiếu. Loại trừ được tình trạng quá tải đối với học sinh yếu
kém. Giúp học sinh nắm được một cách chính xác,vững chắc có hệ thống những kiến
thức và kỹ năng môn Tiếng Việt. Có năng lực vận dụng những tri thức đó vào các tình
huống khác nhau trong cuộc sống. Phát triển những năng lực phẩm chất trí tuệ, giúp
cho học sinh biến những phẩm chất thu nhận được thành phẩm chất của bản thân
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 4
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
mình, thành công cụ để nhận thức và hành động đúng đắn trong các lĩnh vực hoạt động
học tập các môn học khác, trong cuộc sống thường ngày. Giáo dục cho học sinh về tư
tưởng, đạo đức, lối sống, thẩm mỹ của người công dân yêu nước trung thực và giản dị.
Phát triển ở mỗi học sinh khả năng học tập, đồng thời phát hiện và bồi dưỡng sớm cho
học sinh có năng khiếu về môn Tiếng Việt, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước
một cách chân thành qua môn Tiếng Việt. Giáo dục phẩm chất đạo đức thẩm mỹ đúng
đắn phù hợp với con người Việt Nam trong thời đại hiện nay.
Trong các phương pháp giảng dạy Tiếng Việt thì phương pháp dạy học phân
hóa là một phương pháp khá hiệu quả. Trong giờ học Tiếng Việt, việc bảo đảm thực
hiện tốt các mục đích dạy học đối với tất cả các đối tượng học sinh, khuyến khích phát
triển tối đa và tối ưu những khả năng của cá nhân là yêu cầu vô cùng quan trọng mà
dạy học phân hóa đã đạt được. Dạy học phân hóa phát huy tốt khả năng cá thể hóa hoạt
động của học sinh, đưa học sinh trở thành chủ thể của quá trình nhận thức, tiếp thu
kiến thức một cách chủ động, sáng tạo, phù hợp với năng lực nhận thức của bản thân.
Bên cạnh đó giáo viên có cơ hội hiểu và nắm được mức độ nhận thức của từng cá thể
học sinh để đề ra những biện pháp tác động, uốn nắn kịp thời và có đánh giá một cách
chính xác, khách quan. Dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt gây được hứng thú
học tập cho mọi đối tượng học sinh, xóa bỏ mặc cảm tự ti của đối tượng học sinh có
nhịp độ nhận thức thấp cùng tham gia tìm hiểu nội dung, yêu cầu của bài. Kích thích,
gây hứng thú học tập cho các đối tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả năng, trí tuệ
của mình. Không gây cảm giác nhàm chán cho học sinh khá giỏi. Dạy học phân hóa
trong giờ dạy Tiếng Việt dễ dàng thực hiện, không gây khó khăn, trở ngại cho giáo
viên trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành giảng dạy. Không nhất thiết đòi hỏi cần có
các phương tiện thiết bị hiện đại kèm theo, phù hợp với thực trạng điều kiện vật chất
của nhà trường. Dạy phân hóa trong môn Tiếng Việt theo Mô hình trường học mới xóa
bỏ mặc cảm, khoảng cách giữa học sinh yếu kém với học sinh khá giỏi, đưa các em sít
lại gần nhau hơn qua sự tác động tình cảm trong các giờ học Tiếng Việt. Tạo điều kiện
cho đối tượng học sinh yếu kém học hỏi, thảo luận với học sinh khá giỏi. Các em có cơ
hội giúp đỡ nhau cùng phát triển, tiếp thu một cách nhanh chóng kiến thức của giờ
học.
Đại đa số bộ phận giáo viên đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi mới
dạy học và dạy học theo quan điểm “ Dạy học phân hóa” là tất yếu khách quan, phù
hợp với xu thế chung của thế giới. Việc quản lý chương trình dạy học ở trường được
thực hiện nghiêm túc, có các biện pháp kiểm tra thường xuyên. Hầu hết các giáo viên
đều thực hiện đúng tiến độ, bám sát phân phối chương trình và thực hiện lên kế hoạch
bài dạy đều đặn. Ngay từ đầu năm học chuyên môn đã đề ra kế hoạch dạy học phù hợp
với thực tế của nhà trường, có những quyết định đúng, kịp thời, tổ chức thực hiện kế
hoạch tương đối hợp lý, khoa học. Chú ý coi trọng việc phân công giảng dạy cho giáo
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 5
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
viên trên cơ sở năng lực, hoàn cảnh, nguyện vọng, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của
nhà trường. Hàng năm đều tổ chức bồi dưỡng cho GV về chuyên môn, nghiệp vụ như
việc thực hiện chương trình, tiêu chuẩn đánh giá giờ lên lớp, đổi mới phương pháp dạy
học… Việc dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm bài giảng, đánh giá kết quả bài giảng
theo quan điểm phân hóa đã được tổ chức. Tổ chuyên môn đã phát huy hết vai trò
trong việc quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên. Dự giờ, thống nhất nội dung bài
giảng theo quan điểm phân hóa, góp ý rút kinh nghiệm giờ dạy. Duy trì chế độ kiểm
tra, thanh tra chuyên môn, phối hợp với các tổ chức như công đoàn, đội để kiểm tra
đánh giá việc thực hiện nề nếp dạy và học ở các lớp. Xây dựng tiêu chí thi đua ngay từ
đầu năm học. Nhà trường, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường, Ban đại diện cha
mẹ học sinh đã tích cực phối hợp với nhau tạo sự gắn kết trong công tác giáo dục. Hầu
hết trước khi bước vào đầu năm học mới, đội ngũ GV đều được tập huấn bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ trong đó chú trọng vào đổi mới phương pháp dạy học, trang bị
cho GV một số kỹ thuật dạy học tích cực đáp ứng yêu cầu dạy học theo quan điểm dạy
học phân hóa.
Thế nhưng trên thực tế dạy học, đại đa số giáo viên chỉ áp dụng hình thức ,
phương thức tổ chức ở các tiết dạy chỉ cho cùng một đối tượng học sinh mà thôi. Vì
nhiều khi áp dụng phương pháp dạy học phân hóa nhược điểm cơ bản của đại đa số
giáo viên là trước khi lên lớp phải chuẩn bị bài soạn, hệ thống bài tập phân hóa, đầu tư
mất nhiều thời gian công sức. Tổ chức lớp học hiện nay hầu hết đều có số học sinh
đông, bàn ghế chưa phù hợp với Mô hình dạy học mới, chênh lệch nhiều về trình độ có
thể gây khó khăn cho các giáo viên mới, giáo viên dạy thay có thể chưa kịp nắm được
trình độ nhận thức của từng học sinh. Nề nếp, thói quen học tập ở một số lớp không ổn
định khi không có giáo viên chủ nhiệm nên phần nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng
những tiết học khác. Nhiều khi ở các tiết dạy tăng cường giáo viên chưa thật sự mạnh
dạn, linh hoạt trong việc xây dựng nội dung. Các nội dung trong tiết dạy còn cơ cấu
cứng ở môn tự chọn, năng khiếu nên việc điều chỉnh thời lượng khó thực hiện được.
Mặc dù giáo viên rất tâm huyết với nghề, rất yêu trẻ nhưng chưa thật sự gần gũi, thân
thiện, chưa thuyết phục học sinh bằng tình cảm, chưa tạo niềm tin cũng như hứng thú
trong học tập, nhu cầu học tập cho trẻ nhất là học sinh yếu. Việc tổ chức các hoạt động
sôi nổi trong các tiết học cho học sinh còn hạn chế nên học sinh không có hứng thú
học tập, không tập trung vào hoạt động học. Lớp nào cũng có đủ các đối tượng học
sinh (giỏi, khá, trung bình, yếu, cá biệt,..), sĩ số lớp đông nên khi thiết kế bài dạy giáo
viên mất nhiều thời gian, gặp khó khăn. Còn một bộ phận học sinh yếu, gia đình không
quan tâm, bất hòa nên các em chán học, ngại học, ỷ lại làm ảnh hưởng đến nề nếp và
không khí lớp học.
Mặc khác trong dạy học phân hóa giáo viên phải phân loại được từng đối tượng
HS để từ đó mới có kế hoạch dạy học cho phù hợp. Kế hoạch dạy học phải chi tiết, cụ
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 6
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
thể cho từng đối tượng HS, do đó GV cảm thấy vất vả hơn khi lập kế hoạch dạy học.
Nhiều giáo viên còn lúng túng, bối rối, chưa tự tin trong việc thiết kế các tiết dạy theo
kiểu phân hóa cho từng đối tượng HS. Nếu quan tâm nhiều đến HS yếu, không có thời
gian để định hướng cho HS giỏi, khá phát huy năng lực của bản thân; HS giỏi, khá dễ
bị nhàm chán. Việc sử dụng phương tiện dạy học còn hạn chế do trình độ sử dụng của
giáo viên chưa linh hoạt, tự tin.
Theo kết quả khảo sát của HS lớp 3B, trường TH Lý Tự Trọng năm học 2017 –
2018 và năm học 2018 - 2019 vào tháng 9 nêu lên thực trạng về các tiết học theo
phương pháp dạy học đại trà.
Lớp
TSHS
Năm học
3B
31
2017 - 2018
3B
33
2018 - 2019
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
0
22 em
9 em
0
71.0 %
29.0%
2 em
25 em
6 em
6.1%
75.8%
18.1%
Qua kết quả khảo sát, có thể khẳng định rằng thực trạng về việc dạy học cho
cùng một đối tượng HS không đạt hiệu quả cao. Theo kết quả trên, tỉ lệ HS trung bình
và yếu kém chiếm tỉ lệ khá cao. Bên cạnh đó, nhiều HS vẫn ngại học, không có động
lực và hứng thú học tập trong các tiết học. Nguyên nhân một phần là do các em chưa
có ý thức tự giác trong quá trình học tập, một phần khác là do các em có cùng một
nhiệm vụ học tập nên nhiều khi học sinh khá giỏi hoàn thành nhiệm vụ ttrước, nhanh,
không được giao nhiệm vụ tiếp theo nên các em thấy tiết học quá dễ dãi, nhàm chán.
Ngược lại những học sinh yếu kém thì cảm thấy áp lực với một số yêu cầu quá sức của
bản thân.. Do vậy, vai trò của người GV trong việc dạy học phân hóa cho phù hợp với
nhận thức của các đối tượng học sinh giúp các em đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng
của môn học và có khả năng phát triển năng lực sở trường của bản thân nhằm góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học là hết sức quan trọng.
Đại đa số bộ phận GV đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi mới dạy
học và dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa là tất yếu khách quan, phù hợp với
xu thế chung của thế giới. Song họ vẫn thực hiện dạy học theo quan điểm dạy học
phân hóa theo kinh nghiệm truyền thống. Nội dung chương trình một số phần của môn
học đôi chỗ chưa phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Phân phối chương trình
đôi chỗ còn chưa phù hợp (lượng kiến thức của một số bài chưa phù hợp). Nhiều giáo
viên chưa có thói quen phân hóa các đối tượng học sinh trong tiết dạy. Nội dung tiết
dạy thiết kế chưa phù hợp với tình hình thực tế và các đối tượng học sinh của lớp.
Thêm nữa họ chưa được bồi dưỡng qui trình dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 7
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
một cách có hệ thống, bài bản. Sự phối hợp giữa học sinh, gia đình và nhà trường
trong việc tìm hiểu năng lực và nguyện vọng cũng như quản lý học tập của học sinh
chưa được quan tâm đúng mức. Học sinh còn lúng túng chưa quen với phương pháp
học tập chủ động, tích cực. Một số nội dung của môn học còn tương đối khó so với
trình độ nhận thức của HS, điều này gây quá tải với HS, nhất là với những HS đồng
bào, HS yếu kém. Ngược lại nội dung học tập trong tài liệu học tập chưa được thiết kế
theo hướng dạy học phân hóa các đối tượng học sinh, chưa có nội dung dành cho học
sinh khá giỏi. Một số giáo viên còn hạn chế về năng lực thật sự. Chưa thực sự dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp
giáo dục, chưa nhận thức được đầy đủ vai trò, vị trí của mình trong giai đoạn mới. Môi
trường làm việc của giáo viên cũng như môi trường học tập của học sinh chưa đáp ứng
với mô hình dạy học mới. Một số GV chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng về chuẩn
kiến thức, kỹ năng đã quy định trong giảng dạy. Đời sống kinh tế của một số học sinh
còn khó khăn, chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của gia đình, gia đình chưa tạo
điều kiện thuận lợi nhất về thời gian cũng như đầu tư phương tiện học tập (đặc biệt là
học sinh sống xa gia đình, bố mẹ đi làm ăn xa) nên họ chưa dành nhiều thời gian cho
việc đáp ứng các hoạt động ứng dụng của con em tại gia đình, do đó ảnh hưởng đến
chất lượng dạy học.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Tôi hy vọng qua sáng kiến này giúp cho đồng nghiệp thấy được tầm quan trọng
của việc dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học. Có cái nhìn
sâu hơn về việc dạy học phân hóa cho học sinh. Hiểu được lợi ích to lớn mà học sinh
có được qua các giờ học phân hóa. Thay đổi suy nghĩ về cách tổ chức dạy học đồng
loạt cho cùng một đối tượng học sinh. Góp phần cung cấp, hỗ trợ thêm cho giáo viên
những phương pháp, kĩ năng, kĩ thuật dạy học phân hóa trong các tiết dạy. Giúp cho
đối tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả năng, trí tuệ của bản thân. Học sinh yếu
kém có cơ hội phấn đấu vươn lên trong học tập.
Dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học tập trung vào việc thiết kế giảng
dạy xuất phát từ tình hình thực tế của HS, dựa vào đặc điểm cá nhân, tâm lí, sinh lí,
nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện vọng, điều kiện hoàn cảnh... của các em mà tìm
cách dạy cho phù hợp.
Khi dạy học phân hóa tôi thường lấy trình độ phát triển chung của học sinh
trong lớp làm nền tảng, bổ sung một số nội dung và biện pháp phân hóa để giúp học
sinh khá giỏi đạt được những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đã đạt được những yêu cầu
cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu kém lên trình độ
chung. Áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tiên tiến trong Mô hình trường học
mới VNEN và các phương pháp dạy học tiên tiến khác là một điều kiện thuận lợi để
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 8
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
dạy phân hóa đối tượng học sinh như dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề,… đặc
biệt là phương pháp dạy học phân hóa ngay trong giờ học chính khóa, buổi học thứ hai
(các tiết dạy tăng cường) trong ngày sẽ giúp học sinh phát huy được hết khả năng của
mình, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo tùy theo mức độ nhận thức của
từng đối tượng học sinh. Đạt được như vậy mới thực sự là đổi mới phương pháp dạy
học, góp phần xây dựng đào tạo con người mới: chủ động, sáng tạo phù hợp với sự
phát triển khoa học kỹ thuật như hiện nay. Trong những năm học vừa qua, người giáo
viên dù đã vào nghề nhiều năm hoặc mới chập chững bước vào nghề đều gặp vướng
mắc nhất định, đặc biệt là khi dạy môn Tiếng Việt thường gặp nhiều khó khăn hơn bởi
bộ môn này chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các bộ môn khác và còn có nhiều phân môn
khác nhau.
Khác rất nhiều đối với quan điểm dạy học khác, điểm khá đặc thù của dạy học
phân hóa là nhằm phát hiện và bù đắp lỗ hổng kiến thức, tạo động lực thúc đẩy học
tập; biến niềm đam mê trong cuộc sống thành động lực trong học tập. Nói cách khác,
dạy học phân hóa là con đường ngắn nhất để đạt mục đích của dạy học đồng loạt. Đảm
bảo mọi đối tượng HS đều đạt được Chuẩn kiến thức, kỹ năng các môn học trong
chương trình. Có nội dung dành cho đối tượng HS giỏi, khá; HS trung bình, yếu. Dạy
học phân hóa theo Chuẩn kiến thức, kỹ năng giúp cho giáo viên biết được lượng kiến
thức mới và thực hành rèn kỹ năng qua mỗi bài học để xác định yêu cầu cần đạt cho
từng đối tượng HS. Đồng thời xác định được nội dung cần nâng cao cho đối tượng HS
giỏi, khá; nội dung cần truyền thụ cho HS trung bình, yếu. Yêu cầu cần đạt trong tài
liệu Chuẩn kiến thức, kỹ năng được trình bày ngắn gọn, cụ thể, dễ hiểu. Từ đó, giáo
viên xác định được những kiến thức trọng tâm cần truyền thụ, khắc sâu trong mỗi tiết
dạy, cho mỗi đối tượng HS. HS giỏi, khá được giáo viên căn cứ vào Chuẩn tối thiểu để
mở rộng việc cung cấp kiến thức, rèn luyện kĩ năng phát huy tính sáng tạo. Học sinh
trung bình, yếu có cơ hội tiếp cận kiến thức theo khả năng, tạo được sự hứng thú và
đam mê trong học tập, không thấy bị thua kém bạn bè.
Giải pháp 1. Các bước tổ chức dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa
+ Điều tra, khảo sát đối tượng HS trước khi lên lớp.
Sự giống và khác nhau về trình độ phát triển nhân cách của mỗi cá thể học sinh
đòi hỏi một quá trình dạy học thống nhất với những biện pháp phân hóa nội tại. Nhiệm
vụ của giáo viên là nghiên cứu tìm hiểu những mặt mạnh và yếu trong năng lực, trình
độ phát triển của học sinh để có biện pháp cụ thể tác động đến đối tượng. Có như vậy
mới giúp cho tất cả học sinh đều tiếp thu được những kiến thức và kỹ năng tối thiểu.
Đồng thời, phát hiện và đào tạo nhân tài ngay từ trong lớp học. Trong quá trình dạy
học, tôi thường xuyên theo dõi, tìm hiểu, kiểm tra để phân loại học sinh trong lớp,
thường tôi chia lớp theo 3 đối tượng học sinh: Học sinh có nhịp độ nhận thức nhanh
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 9
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
( khá giỏi), học sinh có nhịp độ nhận thức chậm ( yếu kém), và học sinh có nhịp độ
nhận thức trung bình. Qua đó, đề ra những yêu cầu khác nhau đối với từng đối tượng
học sinh: mức độ khó dễ các câu hỏi đàm thoại, mức độ yêu cầu đối với phương pháp
học tập được nghiên cứu, số lượng và yêu cầu của các hoạt động cho từng nhóm. Đối
với hai đối tượng khá giỏi và yếu kém tôi thấy thường có biểu hiện không nắm được
kiến thức và kỹ năng cơ bản, có những sai lầm nghiêm trọng, kết quả kiểm tra thường
dưới mức trung bình. Song tôi cố gắng tìm ra nguyên nhân học kém môn Tiếng Việt
của các em. Có em học kém vì năng lực đọc, viết yếu, vốn từ nghèo nàn, ..có em học
yếu vì nguyên nhân khác (gia đình khó khăn, không có điều kiện thời gian học tập, có
vướng mắc về tư tưởng nên chưa tập trung …), để từ đó có biện pháp giáo dục, giúp
đỡ như: xây dựng lòng tự tin ở bản thân, thường xuyên theo dõi, động viên kịp thời,
tranh thủ sự quan tâm của gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó tôi cũng nghiên cứu
những đặc điểm về tư duy, về phương pháp suy nghĩ của các em thường thể hiện ở 3
đặc điểm sau: nhiều "lỗ hổng" về tri thức, kỹ năng tiếp thu chậm, phương pháp học tập
chưa tốt. Tôi không đồng nhất các em học kém với nhau mà phân kiểu học của từng
học sinh kém Tiếng Việt để có phương pháp giúp đỡ. Ở đối tượng học sinh có thành
phần từ - logic nổi trội hơn thì tôi hình thành cho các em khái niệm từ lời nói, đi từ tư
duy đến hình tượng. Ở đối tựong học sinh có thành phần trực quan - hình tượng mạnh
hơn thì tôi dùng con đường khái quát hóa trên cơ sở trực quan, đi từ hình tượng đến tư
duy. Đối với học sinh khá giỏi có năng lực học tập môn Tiếng Việt các em thường có
khả năng học tốt môn Tiếng Việt thường có xu hướng thích đọc sách báo, đọc những
bài văn hay, dùng từ, dùng câu có hình ảnh, nói năng lưu loát nhưng thường coi nhẹ
các yêu cầu thông thường. Do đó các em không nắm chắc kiến thức cơ bản. Vì vậy,
điều quan trọng nhất là hình thành ở các em lòng ham thích, hứng thú, say mê học
Tiếng Việt, thường xuyên giáo dục đức tính kiên trì, tỉ mỉ, cẩn thận, khiêm tốn, sẵn
sàng giúp đỡ bạn cùng nhóm, cùng lớp tiến bộ. Trong giờ học, tôi suy nghĩ tìm tòi để
đề ra cho hoc sinh những câu hỏi đào sâu (chẳng hạn trả lời câu hỏi, yêu cầu trong tài
liệu bằng cách khác.
Ví dụ: Ở hoạt động thuộc về phân môn Tập đọc, trong khi các nhóm đều làm
việc chung một hoạt động là đọc và giải nghĩa các từ đã cho sẵn trong tài liệu thì nhóm
hoặc cá nhân trong các nhóm có nhịp độ làm việc nhanh, hoàn thành tốt yều cầu của
hoạt động đó thì tôi cho các em tìm thêm từ khó trong bài để giải nghĩa cho nhau nghe
hoặc tự chọn từ và đặt câu có hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa với một trong các từ đó,
phù hợp với nội dung kiến thức trong chuẩn kiến thức kĩ năng của thời điểm học tập
hoặc khai thác khía cạnh khác nhau của các họat động đơn giản. Với học sinh trung
bình tôi cho các em nắm thật chắc kiến thức cơ bản theo bài tập yêu cầu; làm đầy đủ
và đạt yêu cầu các hoạt động với sự gợi ý ở mức độ hạn chế của giáo viên, có thể học
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 10
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
sinh trung bình cũng có thể tiếp thu phần nào kiến thức nâng cao của học sinh khá
giỏi.)
Biện pháp điều tra, phát hiện và phân loại đối tượng học sinh về khả năng lĩnh
hội kiến thức và trình độ phát triển thông qua quan sát, kiểm tra, tìm hiểu… có thể
được tiến hành ngay trong những tuần đầu năm học và trong suốt quá trình dạy học, tôi
thường xuyên theo dõi điều chỉnh lại nhân sự nhóm, chuyển lên nhóm trên hoặc xuống
nhóm dưới nếu có thành viên nào trong nhóm tỏ ra tiến bộ hay thụt lùi. Tuy nhiên, để
đảm bảo mục đích và hiệu quả sư phạm, có thể tùy thuộc vào đặc điểm và số lượng
học sinh trong lớp mà có thể phân thành nhiều nhóm (chẳng hạn phân thành 6 nhóm: 2
nhóm khá giỏi, 2 nhóm trung bình, 2 nhóm yếu kém) vừa khơi gợi niềm tin ở khả năng
mỗi cá nhân, tránh mặc cảm, tự ti, vừa tạo nhu cầu thi đua học tập giữa các nhóm.
Trong trường hợp chia nhóm theo kiểu này tôi thường hay áp dụng ở các tiết dạy tăng
cừờng ở buổi học thứ hai. Bình thường thì vẫn áp dụng kiểu chia nhóm ngẫu nhiên
hoặc nhóm đa trình độ để tạo điều kiện cho học sinh khá giỏi hỗ trợ học sinh yếu kém.
Hoặc để các em có cơ hội học hỏi lẫn nhau.
+ Lập kế hoạch dạy học, thiết kế tiết dạy từ việc phân tích nhu cầu của HS
Ở mỗi tiết dạy Tiếng Việt, tôi nghiên cứu nắm vững nội dung và yêu cầu của
bài học. Đây là vấn đề trước tiên và đặc biệt quan trọng của giáo viên trong việc thiết
kế bài học có chất lượng theo kiểu phân hóa. Có nắm vững nội dung kiến thức bài học
thì mới có thể hình thành các phương pháp dạy học để vận dụng vào từng tình huống
cụ thể cho hiệu quả, đạt được mục đích dạy học của mình. Tôi thực hiện cẩn thận và
xem xét nhiều khía cạnh khác nhau của các bài tập trong tài liệu hướng dẫn học tập và
những bài tập cho học sinh làm thêm. Khi thiết kế các pha dạy học đồng loạt tôi sử
dụng kết hợp phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, …với các câu hỏi
phân hóa. Khi đưa các yếu tố phát hiện và giải quyết vấn đề kết hợp cùng hệ thống câu
hỏi phân hóa vào bài học sẽ phát triển tư duy, tăng cường tính tự giác, chủ động, sáng
tạo cho các đối tượng học sinh. Những tri thức mới được kiến tạo nhờ quá trình phát
hiện và giải quyết vấn đề, học sinh được khám phá, phân tích vấn đề, để đề xuất và
thực hiện được phương pháp giải quyết. Tạo ra các tình huống có vấn đề là thành phần
quan trọng trong dạy học theo xu hướng tích cực hóa quá trình học tập của học sinh.
Tình huống có vấn đề là tình huống khó khăn đặt ra, để khắc phục nó phải tìm tòi suy
nghĩ, phải có tri thức mới, những biện pháp mới, những cách giải quyết thích hợp hay
có thể là tình huống có mâu thuẫn. Để phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học
sinh cần tạo ra các tình huống có vấn đề để học sinh khám phá ra tri thức mới. Có
nhiều biện pháp tạo ra tình huống. Khai thác phần hoạt động ứng dụng ở gia đình hoặc
khai thác phần kiến thức cơ bản, phần thực hành. Chọn một ứng dụng của kiến thức
mới. Tôi đặt vấn đề mới đòi hỏi học sinh nghiên cứu, đặt học sinh trước mâu thuẫn
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 11
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
chưa giải quyết được với kiến thức cũ. Chọn kiến thức mới giải quyết nhanh hơn. Gắn
cho các yêu cầu với nội dung thực tế tạo cho học sinh hứng thú thực hiện yêu cầu đó.
Ví dụ: Hoạt động ứng dụng ở bài 27 C yêu cầu tìm hiểu về con suối hoặc dòng
sông gần nơi em ở.
Có những học sinh nhà ở rất xa những con suối dòng sông đó. Thêm nữa để các
em tự tìm hiểu về sông suối trong thực tế sẽ không phù hợp vì sự an toàn của các em.
Lúc này HS cảm thấy rất bối rối, lúng túng để hoàn thành bài tập ứng dụng khi mình
không có điều kiện để đi đến tận nơi tìm hiểu về dòng sông hoặc con suối đó. Giáo
viên có thể gợi ý cho các em nhờ đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của người thân hoặc thực hiện
bằng cách tìm hiểu qua sách báo ở thư viện, qua truyền hình hoặc qua mạng Internet,
…Khi đó học sinh sẽ rất hứng thú và bản thân thấy mình là người có trách nhiệm các
em sẽ thấy vui hơn, có nhiều động lực mới để tiếp tục nhiệm vụ học tập.
Hoặc ở bài 4C tập 1A ở phần thực hành hoạt động 6: Kể một kỉ niệm đẹp nhất
về ông hoặc bà của mình. Khi quan sát các nhóm làm việc, tôi thấy có HS rất lúng
túng, sau 15 phút nhưng em vẫn chưa viết ra được một câu nào nhưng đó không phải
là đối tượng HS yếu kém. Sau khi tìm hiểu nguyên nhân tôi mới biết em không có ông
bà.
Tình huống có vấn đề được xuất hiện khi giáo viên đặt ra các tình huống phải
lựa chọn. Trong dạy học, phát hiện và giải quyết vấn đề giáo viên đưa học sinh vào
tình huống có vấn đề rồi giúp học sinh giải quyết vấn đề đặt ra bằng hệ thống câu hỏi
dẫn dắt. Bằng cách đó học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương
pháp đi tới tri thức đó, lại vừa phát triển tư duy sáng tạo và có tiềm năng vận dụng tri
thức vào những tình huống mới, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề xảy
ra. Làm cho hệ thống câu hỏi trở thành một quá trình dẫn dắt học sinh suy luận. Không
lặp lại các câu hỏi một cách đơn điệu nên hỏi cùng nội dung dưới nhiều hình thức khác
nhau. Có như vậy các em vừa nắm được bản chất vấn đề, vừa biết vận dụng kiến thức
vào những tình huống khác nhau. Hệ thống câu hỏi phân hóa song vẫn tác động đến
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 12
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
học sinh yếu kém cũng có thể trả lời được vì nó đã có quá trình dẫn dắt và học sinh
khá cũng phải theo dõi câu hỏi dễ dàng vì đằng sau nó là sự phát hiện mới.
Khi thiết kế các hoạt động phân hóa ý đồ phân hóa của tôi là để cho học sinh
khác nhau có thể tiến hành các hoạt động phù hợp với trình độ khác nhau của học sinh.
Tôi dựa vào đặc điểm và sự phân loại học sinh trong lớp để đề ra các yêu cầu thích
hợp. Có thể phân hóa về yêu cầu bằng cách cho sử dụng mạch hoạt động phân bậc,
giao cho học sinh giỏi những hoạt động có yêu cầu ở bậc cao hơn so với các đối tượng
học sinh khác. Đối với học sinh yếu kém, có thể giao các hoạt động có yêu cầu ở mức
thấp hơn. Cụ thể là khoảng cách giữa hai bậc liên tiếp không quá cao, quá xa. Nhiều
bậc học sinh yếu kém gộp lại thành một bậc của học sinh trung bình hoặc khá giỏi.
Hoặc ngay trong một hoạt động tôi cũng có thể tiến hành dạy phân hóa nếu như hoạt
động đó đảm bảo yêu cầu cho cả ba nhóm đối tượng học sinh vừa bồi dưỡng lấp lỗ
hổng cho học sinh yếu kém, vừa trang bị kiến thức chuẩn cho học sinh trung bình và
vừa có kiến thức nâng cao cho học sinh khá, giỏi.
Ví dụ: Với yêu cầu của những hoạt động thiên về phân môn Tập làm văn như:
Kể về một người hàng xóm mà em yêu quý nhất hoặc các yêu cầu tương tự của phân
môn tập làm văn.
Để cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp cùng thực hiện một yêu cầu, tạm
thời chia lớp thành hai cấp độ: hứng thú mạnh và hứng thú trung bình. Đối với nhóm
hứng thú trung bình, tôi chỉ hướng dẫn học sinh kể theo 4 gợi ý như yêu cầu của hoạt
động. Theo dõi giúp đỡ các em cách dùng từ đặt câu đúng ngữ pháp, đúng chính tả.
Đối với nhóm hứng thú mạnh đặt thêm một số câu hỏi phụ để các em hình dung ra một
người hàng xóm đã để lại trong tâm trí các em rất nhiều ấn tượng và tự kể lại không
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 13
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
theo gợi ý trong hoạt động về người đó, đồng thời khuyến khích các em sáng tạo trong
cách dùng từ đặt câu, đặt câu có hình ảnh nên sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa
trong đoạn văn, đưa cảm xúc thật sự của mình vào trong đoạn viết khi kể về người
hàng xóm đó. Để từ đó các em có thể nói được càng nhiều chi tiết về người đang kể
càng tốt. Tuy nhiên với nhóm hứng thú trung bình giáo viên cũng có thể định hướng,
khuyến khích thêm cho các em, để các em cũng viết được đoạn văn rõ ý, dùng từ đặt
câu đúng ngữ pháp, câu văn rõ ràng, sáng sủa và cũng có được những cảm xúc thực sự
khi nói về người hàng xóm đó.
+ Kết hợp nhiều phương tiện dạy học, lựa chọn những hình thức tổ chức
dạy học phù hợp với mục tiêu bài học.
Xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình học tập khi thực hiện các pha phân
hóa: môi trường, phương tiện, điều kiện dạy học …Trong mỗi tiết học Tiếng Việt, tôi
thường sử dụng phương tiện dạy học và đồ dùng học tập khác nhau như: phiếu học tập,
bảng nhóm, các thẻ từ, thẻ câu, những bông hoa được cắt bằng giấy màu xốp hoặc các
lá cờ be bé xinh xinh để làm phần thưởng kích thích cho học sinh hứng thú học tập khi
nhóm có kết quả hoạt động tốt, khi các em tham gia các trò chơi tìm từ, tìm nhân vật bí
ẩn,…đây là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giờ học nên trong các tiết dạy
tôi thực sự quan tâm và chú trọng.
Thông thường trong các giờ học, tôi tổ chức cho học sinh học tập trong lớp học
song một số tiết học có liên quan nhiều đến thiên nhiên để thay đổi không khí, làm mới
môi trường học tập, một số tiết học tôi thiết kế cho học sinh từng nhóm học ở không
gian rộng hơn. Để đảm bảo cho các tiết học theo kiểu này có hiệu quả tôi thường chú ý
đến điều kiện sân bãi, môi trường xung quanh, điều kiện thời tiết … các yếu tố đó có
ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tâm lý, tinh thần học tập của học sinh nên tôi đề ra các
phương án khác nhau để đảm bảo chất lượng giờ học.
Phương tiện dạy học góp phần chứa đựng và truyền tải thông tin, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động học tập nên là một yếu tố quan trọng không thể
thiếu được trong đổi mới phương pháp dạy học theo xu hướng tích cực hóa hoạt động
của học sinh. Mỗi giờ học tôi sử dụng các phương tiện dạy học khác nhau tùy thuộc
vào các chức năng của từng loại phương tiện như: kiến tạo tri thức, rèn luyện kỹ năng,
kích thích hứng thú học tập, tổ chức điều khiển quá trình học tập … Tôi phối hợp sử
dụng các phương tiện dạy học khác nhau trong từng tình huống cụ thể để lấy điểm
mạnh của phương tiện này bổ sung điểm yếu của phương tiện khác, nhằm phát huy tối
đa sức mạnh tổng hợp của hệ thống phương tiện dạy học trong mỗi giờ học. Phiếu học
tập, trò chơi học tập, câu đố vui, … là những phương tiện thể hiện rõ tính ưu việt khi
tổ chức các pha phân hóa trong giờ học nên tôi cố gắng sử dụng hợp lý, vì chúng vừa
góp phần tổ chức điều khiển quá trình học tập đến từng cá thể học sinh, phát huy khả
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 14
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
năng của mình, kích thích hứng thú học tập, vừa góp phần hợp lý hóa công việc của
giáo viên và học sinh, trong đó các yếu tố thời gian, khối lượng công việc được đảm
bảo.
+ Kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ của HS trong suốt quá trình giảng dạy.
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả của từng nhóm, từng cá nhân học sinh trong
suốt quá trình giảng dạy là một căn cứ để tôi biết được mức độ tiến bộ ở từng nhóm,
từng đối tượng học sinh. Từ đó có những biện pháp khích lệ kịp thời, giúp học sinh
phát huy tốt hơn nữa ở các tiết học tiếp theo. Đồng thời cũng làm nguồn động lực giúp
học sinh hứng thú hơn trong học tập.
Bám sát theo từng hoạt động của tất cả các nhóm đối tượng học sinh, tôi sử
dụng các kĩ thuật đánh giá kết quả học tập của học sinh trong Mô hình VNEN như:
quan sát, kiểm tra nhanh, kiểm tra miệng, kiểm tra thực hành, phỏng vấn nhanh, đánh
giá sản phẩm của nhóm,…để đánh giá sự tiến bộ của học sinh hoặc những điểm học
sinh cần cố gắng để có kế hoạch động viên, giúp đỡ học sinh kịp thời, đồng thời giúp
tôi điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động dạy học và kịp
thời phát hiện những cố gắng để động viên, khuyến khích, ghi nhận sự tiến bộ hàng
ngày của từng học sinh, giúp học sinh cảm thấy tự tin và vui thích với các hoạt
động học tập. Đồng thời giúp học sinh biết tự đánh giá, rút kinh nghiệm, tự điều chỉnh
bài làm, hoạt động của mình, bồi dưỡng hứng thú học tập và rèn luyện để học sinh
ngày càng tiến bộ hơn. Góp phần làm giảm áp lực cho học sinh khi đến trường.
Khuyến khích các em tự học, sáng tạo. Quan điểm của tôi trong dạy học phân hóa là
luôn cố gắng tạo mối quan hệ dân chủ giữa cô và trò, giữa trò và trò để giúp HS cởi
mở, tự tin hơn.
Giải pháp 2. Quy trình tổ chức các pha phân hóa trong giờ dạy
+ Tổ chức các pha dạy học đồng loạt: Kết hợp và sử dụng các phương pháp
dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, tình huống … nhằm mục đích giúp học sinh
tiếp thu tốt các kiến thức. Các phương pháp này có ưu điểm rất lớn là tạo ra tình huống
gợi vấn đề, điều khiển học sinh hoạt động tự đánh giá, tích cực chủ động và sáng tạo.
Để thu hút tất cả các đối tượng học sinh trong lớp tham gia tìm hiểu nội dung bài học.
Tôi giao nhiệm vụ phù hợp với khả năng từng nhóm đối tượng học sinh, nêu những
câu hỏi khó hơn cho các em có nhận thức khá giỏi, khuyến khích các em học sinh yếu
kém bằng những câu hỏi ít đòi hỏi tư duy hơn, kèm theo những câu hỏi gợi ý hoặc câu
hỏi chẻ nhỏ.
Ví dụ: Ở bài 25 C hoạt động 3 B về phân môn Luyện từ và câu, trong một nhóm
đa trình độ của lớp. Học sinh trung bình chỉ làm việc theo yêu cầu của tài liệu: Sau khi
đọc đoạn thơ ( TL trang 98) Tìm các từ ngữ miêu tả các sự vật, con vật ? Cách gọi và
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 15
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
tả các sự vật, con vật có gì hay ? Tôi tạm hạ thấp yêu cầu với HS yếu kém, các em chỉ
cần trả lời được câu hỏi thứ nhất dưới sự hỗ trợ của giáo viên hoặc bạn khá giỏi cùng
nhóm nếu cần: Tìm các từ ngữ miêu tả các sự vật, con vật ? Nâng cao yêu cầu đối với
HS khá giỏi: Sau khi các em đã hoàn thành yêu cầu trong tài liệu yêu cầu các em chỉ ra
thêm cho các bạn trong nhóm biết cách miêu tả, cách gọi các sự vật, con vật như thế có
tác dụng gì ?; và thảo luận thêm về các cách nhân hóa trong đoạn thơ. Sau khi theo
dõi thấy học sinh đã hoàn thành yêu cầu nâng cao thứ nhất hoặc nếu còn thời gian.
+ Điều khiển các pha phân hóa: Trong việc điều khiển học sinh hoạt động
trong các pha phân hóa, tôi định ra các yêu cầu khác nhau về mức độ yêu cầu, mức độ
hoạt động độc lập của học sinh, hướng dẫn nhiều hơn cho đối tượng học sinh này, ít
hoặc không gợi ý học sinh khác, tùy theo khả năng và trình độ của học sinh. Tôi sử
dụng phiếu học tập hoặc hình thức khác để việc dạy học phân hóa được hiệu quả hơn
khi tổ chức điều khiển quá trình tạo kiến thức mới, hoặc các hoạt động thực hành theo
kiểu phân hóa các đối tượng HS, tôi tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Tổ chức, giao nhiệm vụ cho các nhóm đối tượng học sinh khá, giỏi,
trung bình, yếu kém theo 3 mức độ khác nhau tùy theo khả năng, trình độ nhận thức
của từng nhóm ( các hoạt động phân hóa mà giáo viên đã chuẩn bị từ trước như đã nói
ở trên) và đặt ra yêu cầu một cách rõ ràng cho từng nhóm đối tượng học sinh.
Bước 2: Từng cá nhân học sinh hoặc nhóm thực hiện yêu cầu của hoạt động
độc lập (dưới sự quan sát, hướng dẫn gợi mở của giáo viên hoặc của bạn cùng nhóm
khi có khó khăn). Định ra các yêu cầu khác nhau về mức độ hoạt động độc lập của mỗi
học sinh hoặc nhóm, hướng dẫn nhiều hơn cho học sinh này ít hoặc khơi gợi ý cho học
sinh khác, tùy theo khả năng và trình độ của học sinh.
Bước 3: Các nhóm hoặc cá nhân báo cáo kết quả sau khi đã hoàn thành yêu cầu
của hoạt động.
Bước 4: Giáo viên điều khiển học sinh trong nhóm, trong lớp tham gia thảo
luận giao lưu, đóng góp ý kiến bổ sung trong nhóm hoặc khi các nhóm khác có cùng
tiến độ báo cáo hoạt động giống nhau. Tuy nhiên giáo viên có thể khuyến khích học
sinh tham gia công việc của nhóm kế tiếp nếu đã hoàn thành công việc của nhóm
mình.
Bước 5: Giáo viên tổng kết, chốt lại kết quả đúng. ( theo từng nhóm hoặc chỉ áp
dụng khi các nhóm có cùng một tiến độ làm việc). Giao thêm yêu cầu nâng cao cho
nhóm hoặc học sinh khá giỏi. Tăng cường giúp đỡ HS yếu kém ( GV hoặc HS khá
giỏi) nếu các em chưa hoàn thành yêu cầu của hoạt động. Cụ thể tôi sử dụng các biện
pháp phân hóa sau:
Giải pháp 3. Những biện pháp dạy học phân hóa
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 16
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
+ Đối xử cá biệt ngay trong những pha dạy học đồng loạt: Theo tư tưởng chỉ
đạo, trong dạy học tôi lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp học làm nền
tảng, do đó những pha cơ bản là những pha dạy học đồng loạt. Trong lớp học có nhóm
học sinh khá giỏi, có nhóm học sinh yếu kém nên khi thiết kế bài giảng, tôi thường
dành thời gian để thiết kế về nội dung và nhiệm vụ cho từng đối tượng học sinh. Cụ
thể, đối với nhóm học sinh khá giỏi, tôi giao cho các em những nhiệm vụ có tính tìm
tòi, phát hiện, đối với nhóm học sinh yếu kém thì tôi giúp đỡ chỉ bảo cụ thể, đặt câu
hỏi mang tính chất trực quan hoặc có tác dụng rèn một kỹ năng nào đó. Tránh tư tưởng
đồng nhất trình độ dẫn đến đồng nhất nội dung học tập cho mọi đối tượng học sinh.
+ Tổ chức những pha phân hóa: Trong lớp học tôi luôn phân ra ba nhóm đối
tượng khác nhau: nhóm học sinh yếu kém, nhóm có học lực trung bình và nhóm học
sinh khá giỏi. Trong quá trình dạy học, vào những thời điểm thích hợp có thể thực hiện
những pha phân hóa tạm thời, tổ chức cho học sinh hoạt động một cách phân hóa. Biện
pháp này được sử dụng khi trình độ học sinh có sự sai khác lớn, có nguy cơ yêu cầu
quá cao hoặc quá thấp nếu cứ dạy học đồng loạt. Trong những pha này, tôi giao cho
học sinh những nhiệm vụ phân hóa thể hiện qua các hoạt động phân hóa, từ đó điều
khiển học sinh thực hành những hoạt động này theo từng nhóm và tạo điều kiện giao
lưu gây tác động qua lại cho các nhóm học tập. Thiết kế hoạt động phân hóa là để cho
các đối tượng học sinh khác nhau có thể tiến hành các yêu cầu khác nhau với trình độ
khác nhau, có thể phân hóa về yêu cầu bằng cách sử dụng mạch hoạt động phân bậc,
giao cho học sinh giỏi những hoạt động ở bậc cao hơn so với các đối tượng học sinh
khác. Hoặc ngay trong một hoạt động, có thể tiến hành dạy học phân hóa nếu hoạt
động đó bảo đảm yêu cầu cho cả 3 nhóm đối tượng học sinh: Bồi dưỡng lấp lỗ hổng
cho học sinh yếu kém, trang bị kiến thức chuẩn cho học sinh trung bình và nâng cao
kiến thức cho học sinh khá, giỏi. Để có được hoạt động đảm bảo yêu cầu trên, giáo
viên phải nắm chắc kiến thức trọng tâm của từng hoạt động và đầu tư nghiên cứu cho
tiết dạy. Để có được kiến thức rèn luyện một kỹ năng nào đó, đối tương học sinh yếu
kém cần thiết hoạt động cùng loại hơn đối tượng học sinh khác. Những học sinh đã
hoàn thành tốt yêu cầu của hoạt động sẽ nhận thêm những yêu cầu khác để đào sâu và
nâng cao. Khi điều khiển phân hóa tôi định ra yêu cầu khác nhau về mức độ yêu cầu,
mức độ hoạt động độc lập của học sinh. Hướng dẫn nhiều hơn cho đối tượng này, ít
hoặc không gợi ý cho học sinh khác, tùy theo khả năng và trình độ của học sinh.
Ví dụ: Ở phân môn Tập viết HS yếu kém tôi dành nhiều thời gian giải nghĩa
cho các em từ và câu ứng dụng; luyện cho các em viết đúng quy trình các chữ cái viết
hoa, hoàn thành từ ứng dụng và biết cách trình bày, viết đúng chính tả khi viết câu ứng
dụng. HS trung bình hoàn thành bài viết theo yêu cầu của hoạt động. Tăng cường vai
trò của các nhóm trưởng khá giỏi, HS có năng khiếu viết chữ đẹp để hỗ trợ các em khi
cần thiết. Tuy nhiên có sự giám sát chặt chẽ của giáo viên. Đối với HS khá giỏi động
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 17
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
viên các em tìm hiểu sâu hơn về nghĩa của các từ và câu ứng dụng trong phân môn
Tập viết. Các em sẽ thấy mình được mở rộng kiến thức, biết được nhiều địa danh trên
mọi miền của đất nước, cảm nhận được nét đẹp và sự tinh túy qua các câu ca dao, tục
ngữ. Đặc biệt động viên các em tích cực rèn nhiều kiểu chữ hoa sáng tao.
Chính nhờ sự phân hóa mà tôi thấy rõ được tiến bộ của từng học sinh để tự điều
chỉnh cách dạy của mình cho phù hợp. Đồng thời cần quan tâm cá biệt động viên học
sinh có phần thiếu tự tin, lưu ý học sinh đọc viết yếu, giao tiếp rụt rè, uốn nắn kịp thời
những học sinh có nhịp độ nhận thức nhanh nhưng kết quả không cao do vội vàng, chủ
quan, thiếu sự suy nghĩ chín chắn, lôi kéo những học sinh có nhịp độ nhận thức chậm
theo kịp tiến trình bài học. Chú trọng sự tác động qua lại giữa những học sinh trong
quá trình dạy học, đặc biệt là khi thực hành cần phát huy những tác dụng qua lại giữa
những học sinh trong cùng một nhóm hoặc với nhóm khác, bằng các hình thức học tập
khuyến khích sự giao lưu, thảo luận trong nhóm, thảo luận theo cặp, …Với hình thức
này, có thể tận dụng chỗ mạnh của một số học sinh khác trong cùng nhóm. Tác dụng
điều chỉnh này có ưu điểm lớn so với tác dụng của giáo viên là có tính thuyết phục,
nêu gương, không có tính chất áp đặt… Ngoài việc tổ chức dạy phân hóa trong giờ
chính khóa, tôi thường xuyên tổ chức dạy phân hóa trong giờ ngoại khóa ở các tiết
hoạt động tập thể vào đầu tuần và cuối tuần hoặc dạy phân hóa ở buổi học thứ hai.
+ Tổ chức dạy phân hóa theo nhóm cùng trình độ ở buổi thứ hai
Việc thực hiện dạy học phân hóa ngay trong giờ chính khóa là một biện pháp
được coi là hữu hiệu nhất. Tuy nhiên ở những lớp có sĩ số đông giáo viên có thể tách
riêng những nhóm học sinh có nhịp độ nhận thức như nhau gọi là nhóm cùng trình độ
để hoặc là bồi dưỡng học sinh giỏi, hoặc là phụ đạo học sinh yếu kém ở những buổi
học thứ hai là hiệu quả nhất.
Bồi dưỡng học sinh giỏi là việc làm rất quan trọng và cần thiết, cần được thực
hiện ngay trong những tiết học đồng loạt, bằng những biện pháp phân hóa nội tại thích
hợp. Nhưng để bồi dưỡng và mở rộng kiến thức cho các em ở mức sâu hơn, thuận tiện
hơn tôi tận dụng buổi thứ hai để tách riêng nhóm hoc sinh khá giỏi để bồi dưỡng.
Những học sinh cùng một lớp hoặc cùng một khối, có năng lực về Tiếng Việt, yêu
thích nghiên cứu môn Tiếng Việt. Mục đích bồi dưỡng nhóm học sinh giỏi Tiếng Việt
là để nâng cao hứng thú học tập môn Tiếng Việt, đào sâu và mở rộng tri thức, làm nổi
bật vai trò của môn Tiếng Việt trong đời sống, bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt cho học
sinh.
Trong lớp những học sinh đọc còn yếu, tốc độ đọc viết chưa đạt yêu cầu so với
chuẩn kiến thức kĩ năng. Viết còn sai nhiều lỗi chính tả. Chưa viết trọn vẹn được một
đoạn văn theo yêu cầu. Còn lẫn lộn các mẫu câu đã được học. Việc lĩnh hội tri thức,
rèn luyện kỹ năng đối với những học sinh này đòi hỏi nhiều thời gian và công sức hơn
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 18
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
đối với học sinh khác. Song song với việc giảng dạy trên lớp, tôi tách riêng đối với
nhóm học sinh yếu kém để phụ đạo. Nội dung giúp đỡ học sinh yếu kém nhằm vào
những phương hướng như đảm bảo trình độ xuất phát của học sinh, trang bị cho các
em những tiền đề cần thiết để đảm bảo trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp. Lấp
lỗ hổng về kiến thức kỹ năng, đây là một điểm yếu rõ nét và phổ biến của học sinh yếu
kém. Thông qua những giờ học tôi tập cho học sinh có ý thức phát hiện ra lỗ hổng kiến
thức của mình và biết tra cứu tài liệu, sách vở để tự lấp lỗ hổng đó. Tôi đấu tranh kiên
trì với thói xấu của học sinh chưa tìm hiểu kĩ yêu cầu đã vội vàng đưa ra kết luận.
+ Tổ chức những pha phân hóa trong các tiết sinh hoạt theo chủ điểm
Mục đích của các buổi sinh hoạt chủ điểm là gây hứng thú cho học sinh tập bổ
sung, đào sâu mở rộng kiến thức nội khóa, tạo điều kiện gắn kết học sinh với đời sống,
lý thuyết với thực hành; có nhiều sân chơi để trải nghiệm kiến thức. Rèn luyện cách
thức làm việc tập thể, phân hóa phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu. Khi sinh hoạt chủ
điểm sẽ ôn luyện và bổ sung kiến thức cho những tiết học chính khóa nhưng không bị
hạn chế bởi chương trình và cách thức dạy học trong giờ chính khoá. Thực hiện tốt
nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà
trường gắn liền với lao động xã hội. Việc dạy học ngoại khóa nên có tính chất quần
chúng để học sinh thấy rõ vai trò, trách nhiệm của mình với tập thể.
Ví du: Trong tiết sinh hoạt câu lạc bộ của mỗi tháng, tôi tổ chức cho học sinh sinh hoạt
từng nhóm theo sở thích. Nhóm thích hội họa, nhóm mê múa hát, nhóm thích đọc thơ,
nhóm giải toán vui tài năng, nhóm giỏi Tiếng Anh. Sau thời gian giao lưu thảo luận
chuẩn bị nội dung để biểu diễn trong nhóm về cùng một chủ đề là mừng ngày 20 / 11
Ngày Nhà giáo Việt Nam, ( các chủ đề khác cũng có thể thực hiện tương tự) các nhóm
sẽ tạo thành vòng tròn để giao lưu trong cùng một nhóm lớn. Lúc này tôi khuyến khích
các nhóm trổ tài theo khả năng và sở thích của từng nhóm trước cả lớp thông qua các
kiến thức về môn Tiếng Việt như: Vào thế kỉ 18, có một người thầy vừa là nhà trí thức,
vừa là thầy thuốc, nhà thơ, tác giả tác phẩm “Lục Vân Tiên”? Ông là ai? ( Dành cho
HS khá giỏi); Bài hát của nhạc sĩ Vũ Hoàng về thầy cô (gợi ý bắt đầu bài: Khi thầy…)
Đáp án: Bụi phấn ( Dành cho HS yêu thích âm nhạc; HS trung bình; yếu); Con số nào
được tượng trưng cho ngày 20-11, theo phong trào dạy tốt, học tốt ? Đáp án: Số 10;
Bác Hồ gửi bức thư cuối cùng cho ngành giáo dục vào ngày, tháng, năm nào? Đáp
án: 15/10/1968. Trường Đại học đầu tiên của nước ta mang tên gì? Đáp án: Văn Miếu
Quốc Tử Giám; .....bằng hình thức hái hoa dâng chủ hoặc bóp bóng và còn nhiều cách
khác nữa. Trong những tiết sinh hoạt chủ điểm như thế này, tôi thường chuẩn bị chùm
câu hỏi phân hóa. Mục đích là để huy động được sự tham gia của hầu như tất cả các
đối tượng học sinh trong lớp. Sau những lần như thế để kích thích sự hứng thú của
học sinh, tôi thường động viên các em bằng những tràng pháo tay giòn vang hoặc là 5
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 19
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
bông hoa, 5 ngôi sao, 5 con vật gấp bằng giấy cho những nhóm xuất sắc. Chính vì thế
các em rất hào hứng, năng nổ, tích cực chuẩn bị nội dung để giành giải thưởng mà các
em yêu thích.
IV. Tính mới của giải pháp
Việc áp dụng dạy học phân hoá trong dạy học các phân môn của môn Tiếng
Việt như đã trình bày góp phần đổi mới phương pháp dạy học, tác động tốt đến mọi
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền
–
Trường TH Lý Tự Trọng
Trang 20
- Xem thêm -