LUẬN VĂN:
Thực thi chính sách tiền tệ tại
CHDCND Lào
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lạm phát là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Trong thời đại ngày nay, lạm
phát là vấn đề trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh tế- xã hội ở các quốc
gia. Với tư cách là tổng hoà của các chính sách kinh tế- xã hội vĩ mô, lạm phát đã có
những tác động trực tiếp hay gián tiếp, nhanh hay chậm tích cực hoặc tiêu cực, ở mức độ
này hay mức độ khác.... đến toàn bộ các lĩnh vực và khía cạnh hoạt động của Chính phủ,
doanh nghiệp, cá nhân, đến các quan hệ kinh tế đối ngoại và đối nội của quốc gia, và tác
động đến tình hình kinh tế khu vực và thế giới với mức độ tuỳ theo vị thế kinh tế chính trị
mà nước đó đã đảm nhận trong khu vực và thế giới. Thực tiễn cho thấy lạm phát thế giới
luôn biến động không ngừng cùng với nhiều đặc tính mới mẻ.
Trong những năm gần đây, một số ngân hàng Trung ương các nước đã quyết định
chuyển hướng chính sách tiền tệ sang thực hiện chính sách lượng hoá mục tiêu lạm phát.
Kết quả nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, những quốc gia áp dụng chính sách mục
tiêu lạm phát đã rất thành công trong việc duy trì tỷ lệ lạm phát thấp trong dài hạn, kinh
tế tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu thực nghiệm cũng chỉ ra những lợi ích tiếp
theo từ việc thực thi chính sách mục tiêu lạm phát, bao gồm: làm tăng rõ ràng, minh bạch
công khai của chính sách tiền tệ; làm tăng trách nhiệm của NHTW; giúp công chúng hiểu
được chính sách tiền tệ một cách đơn giản, dễ dàng và hiệu quả; cải thiện được môi
trường tăng trưởng kinh tế ổn định; và nâng cấp phúc lợi xã hội.
Để đạt được các mục tiêu ổn định giá cả lâu dài, cho đến nay các NHTW đã sử
dụng các chính sách tiền tệ khác nhau như: Chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá cố định,
chính sách tiền tệ dựa vào khối lượng tiền cung ứng; Chính sách tiền tệ dựa vào GDP
danh nghĩa, và hiện nay, chính sách tiền tệ có xu hướng dựa vào lượng hoá mục tiêu lạm
phát.
Việc thiết lập chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát (NHTW sẽ điều
tiết nền kinh tế sao cho lạm phát chỉ ở mức độ nào đấy và từ đó sẽ lan toả đến mục tiêu
khác như tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm) điều này có nghĩa là lạm phát là
yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thiết lập chính sách tiền tệ.
Từ sau khi nền kinh tế Lào chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô
của Nhà nước mà hoạt động của hệ thống ngân hàng nhà nước được coi là khâu “ đột phá
khẩu”, thì hệ thống NHNN Lào đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực thi mục
tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ, kiềm chế kiểm soát lạm phát (năm 1998 tỷ lệ lạm phát
là 90%, năm 1999: 128,38%, 2000: 23%, năm 2001: 7,81%, năm2004: 10,46 và đến
tháng 6/2005 là 5,53%). Đi đôi với những thành công đã nói trên, hoạt động kiềm chế,
kiểm soát lạm phát còn một số hạn chế về mặt chủ quan và mặt khách quan. Hiện tượng
lạm phát diễn ra rất phức tạp trong năm 2002 tăng lên 10,63% và đến năm 2003 lại tăng
lên 15,49% và cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của Lào, đặc biệt trong lĩnh
vực tài chính tiền tệ.
Là một chính sách mới, nên chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát đang được
các nhà quản lý ngân hàng, các nhà kinh tế nghiên cứu, đánh giá và rút ra bài học kinh
nghiệm thông qua thực tế của các nước đang áp dụng chính sách này.
ở CHDCND Lào hiện nay vấn đề này còn khá mới mẻ và phức tạp, chính vì vậy
tôi đã lựa chọn đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, nền kinh tế không chỉ chịu ảnh
hưởng của các yêu tố bên trong mà còn chịu tác động mạnh mẽ bởi những yêu tố bên
ngoài. Đến nay, trên thế giới đã rất nhiều lý thuyết, nhiều cuốn sách, nhiều bài báo và rất
nhiều cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế đã nghiên cứu vấn đề này.
Một số công trình đã nghiên cứu về chính sách mục tiêu lạm phát đối với các quốc
gia:
1. Kinh tế học, sách tham khảo tập II của Paul a Samuelson Wiliamd. Nordhalls.
2. Lý thuyết lạm phát giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam, sách tham khảo của PTS.
Nguyễn Minh Phong NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
3. Giải pháp hoàn thiện sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ Việt Nam hiện nay,
Luận văn thạc sỹ kinh tế của Hoàng Thị Kim Thanh
4. Nhìn nhận lạm phát ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hoá, Tạp chí
Ngân hàng số 8/2004.
5. Chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát một cách tiếp cận trong việc điều hành
Chính sách tiền tệ của Việt Nam. Th.S. Đỗ Thị Đức Minh – Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam.
Với nội dung của các công trình nghiên cứu nói trên thì lĩnh vực nghiên cứu và đối
tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề bức xúc đối với CHDCND Lào hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Dựa trên lý thuyết chung của các nhà kinh tế học, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng và những bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về vấn đề kiểm
soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Trên cơ sở đó, đối với CHDCND Lào
để làm rõ một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ
trong thời gian qua, rút ra được những nguyên nhân cơ bản của lạm phát, có được những
bài học kinh nghiệm để từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhất trong việc thực thi chính
sách tiền tệ tại CHDCND Lào góp phần ổn định chính sách tiền tệ và phát triển nền kinh
tế của đất nước một cách bền vững.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ các lý thuyết về lạm phát và chính sách tiền tệ.
- Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách này ở một số nước để rút ra bài học cho
CHDCND Lào.
- Phân tích thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của CHDCND Lào, từng giai
đoạn, đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện chính sách kiểm soát lạm phát.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề chung về CSTT với mục tiêu kiểm sóat lạm phát, tình hình thực hiện
của mục tiêu này ở một số nước và thực trạng điều hành CSTT của CHDCND Lào từ
1994-6/2005
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, và dựa
trên đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước làm cơ sở phương pháp luận. Các phương
pháp được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài bao gồm: phương pháp thống kê và miêu tả,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh...
6. Đóng góp của luận văn
- Phân tích thực trạng thực thi CSTT nhằm mục tiêu kiểm sóat lạm phát trong năm qua,
rút ra được thành công và hạn chế.
- Đưa ra các giải pháp chủ yếu, kiến nghị cụ thể có tính xây dựng nhằn năng cao hiệu
quả cao trong việc điều hành CSTT nói chung, mục tiêu kiểm sóat lạm phát nói riêng ở
CHDCND Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu
gồm 3 chương và 9 tiết.
Chương 1: Lạm phát và chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát
Chương 2: Điều hành chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát ở Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào
Chương 3: Định hướng và giải pháp trong thực hiện chính sách tiền tệ nhằm kiểm
soát lạm phát ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Chương 1
Lạm Phát và chính sách tiền tệ
với mục tiêu kiểm soát lạm phát
1.1. Những vấn đề cơ bản về lạm phát
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế đi liền với nền kinh tế thị trường. Có những nhà
kinh tế đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ này, nhưng nói chung, chưa có sự thống
nhất hoàn toàn.Trong khi đó lạm phát luôn diễn ra và tác động đến nhiều mặt đối với nền
kinh tế các nước phát triển và đang phát triển, các nước từ lâu đã theo mô hình của nền
kinh tế thị trường và cả các nước đang có quá trình chuyển đổi.Không chỉ dừng lại ở việc
không thống nhất được với nhau môt định nghĩa đúng về lạm phát mà còn không thống
nhất được với nhau những tác động do lạm phát mang lại.
Chính vì thế, cần thiết phải nhìn nhận vấn đề một cách có hệ thống hơn để từ đó có
những chính sách và giải pháp phù hợp ứng với những đổi thay đã và đang diễn ra trong
đời sống kinh tế
1.1.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà
kinh tế. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về lạm phát.
Karl Marx cho rằng “Lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần thiết”. Vào thập niên
1960,Milton Friedman khẳng định lại rằng: “Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện
tượng tiền tệ” [2, tr.800]. Theo thuyết trọng tiền (monetarism) – một trường phái lớn về
khoa kinh tế vĩ mô cho rằng, cần phải chú ý đến tổng mức chi tiêu của xã hội và việc
cung ứng tiền cho chi tiêu đó. Thuyết trọng tiền cho tiền tệ là trung tâm của nền kinh tế,
và việc cung tiền là nhân tố quyết định những sự vận động của tổng sản phẩm quốc dân
danh nghĩa trong ngắn hạn và nó là nhân tố quyết định đến giá cả trong dài hạn. Thực ra,
không nhất thiết bắt nguồn từ nguyên nhân là tiền tệ, tức là tăng lượng tiền cung ứng quá
mức đối với nền kinh tế. Nhiều cuộc lạm phát diễn ra lại bắt nguồn từ giá hoặc xuất phát
từ sự suy giảm trong tổng cung của chính nền kinh tế đó. R.Dornbusch và Fischer cho
rằng:
Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một thời gian
nhất định [48, tr.587-588].
Nhìn chung, có hai cách tiếp cận: Một là từ nguyên nhân, hai là từ những ảnh
hưởng của nó.
Theo cách tiếp cận thứ nhất thì “lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá ít hàng” hoặc
“lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất lao động”. Các định
nghĩa này thực chất chỉ là đưa ra các cách giải thích khác nhau về nguyên nhân của lạm
phát mà không phải là định nghĩa về lạm phát theo đúng nghĩa của nó.
Theo cách tiếp cận thứ hai thì lạm phát là mức giá cả chung tăng lên. Tuy nhiên, sự
tăng giá mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát còn bản chất của nó được thể
hiện ở tính chất của sự tăng giá là giá tăng cao kéo dài hay chỉ tạm thời?
Tóm lại, lạm phát là sự gia tăng phổ biến và với thời gian dài tổng mức giá cả được
đo bằng chỉ số giá của nhóm hàng hoá và dịch vụ cơ bản (rổ hàng hoá). Sự gia tăng liên
tục của giá cả làm suy yếu sức mua của đồng tiền và các tài sản tài chính khác có giá trị
cố định, gây ra những méo mó nghiêm trọng và tạo ra tình trạng không chắc chắn trong
môi trường kinh tế vĩ mô và vi mô.
1.1.2. Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
- Phân loại theo định lượng: Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo
năm, trong đó có (1) lạm phát một con số hay gọi là lạm phát vừa phải. Loại lạm phát này
xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10% trên 1 năm và nền kinh tế chấp
nhận được với mức lạm phát này.(2) Lạm phát hai con số thể hiện khi tỷ lệ tăng giá đã
tăng đến hai con số mỗi năm. Nếu ở mức thấp của loại lạm phát này (> 10% mỗi năm),
tác động tiêu cực của nó đến nền kinh tế không lớn. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức hai
con số cao lạm phát này gây tác hại nghiêm trọng trong nền kinh tế.(3) Lạm phát phi mã
và siêu lạm phát là loại lạm phát ba con số trở lên với tốc độ nhanh. Tác động tiêu cực
đến đời sống và tính ổn định của nền kinh tế.
- Phân loại theo định tính: Có (1) lạm phát cân bằng và không cân bằng (cân bằng ở
đây là cân bằng với thu nhập), trên thực tế, lạm phát không cân bằng hay xảy ra. (2) Lạm
phát thuần tuý là trường hợp đặc biệt khi giá cả hàng hoá tiêu dùng và hàng hoá sản xuất
đều tăng lên gần như cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian, lúc này nhu cầu cần
tiền thực tế tăng cùng chiều và khá tương đương với cung ứng tiền thực tế.(3) Lạm phát
bất thường xảy ra có tính đột biến, loại lạm phát này gây ra những cú sốc nền kinh tế và
sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền.(4) Lạm phát dự đoán trước là việc
người ta nhìn thấy trước về lạm phát và tin rằng nó sẽ xảy ra bởi các nguyên nhân của nó
đã lộ diện.
Ngoài ra, căn cứ vào mức độ biểu hiện giá cả trên thị trường có lạm phát ngầm, lạm
phát công khai; căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng về mặt không gian: có lạm phát quốc gia
và thế giới; căn cứ vào tính lịch sử, có lạm phát cổ điển gắn với xung đột chiến tranh và
lạm phát hiện đại gắn liên với hoà bình.
1.1.3. Đo lường lạm phát
Thông thường, lạm phát được tính toán gắn liền với tốc độ thay đổi của mức giá cả
một "rổ" hàng hoá và dịch vụ được lựa chọn nào đó, tuỳ thuộc đặc điểm và cách thức
riêng của mỗi nước cụ thể.
Để đo lường lạm phát, người ta phải so sánh giá cả giữa hai thời điểm khác nhau t0
và t1. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế có nhiều loại hàng hoá nên trong khoảng thời gian
t0 – t1 mỗi loại hàng hoá có mức tăng giá (Pt1 – Pt0) khác nhau. Do vậy, để tính được tỷ lệ
lạm phát chung cho nền kinh tế, người ta phải lấy chỉ số giá cả bình quân của cả nước
làm chuẩn, có ba loại chỉ số giá cả bình quân được sử dụng là:
Giá cả hàng tiêu dùng ( CPI- Consumer price index): Chỉ số CPI được sử dụng
rộng rãi nhất. CPI tính chi phí của một rổ hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường
các nhóm chính đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vật tư, y
tế.
Giá cả hàng sản xuất bình quân( PPI- Producer price index): Đây là chỉ số giá bán
buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định.
Chỉ số này rất có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế.
Giá cả bán lẻ bình quân(RPI-retail price index). Cuối cùng, lạm phát thường được
đo bằng chỉ số (%), tực là tỷ lệ lạm phát (%) giữa hai thời điểm t0 và t1 là bằng mức tăng
giá cả hàng hoá bình quân giữa hai thời điểm, chia cho giá ban đầu và nhân với tỷ lệ %:
Tỷ lệ lạm phát ( t0 và t1)
Pt1 Pt0
Pt0
=
1.1.4. Nguyên nhân của lạm phát
Lạm phát là kết quả của tổng hoà nhiều nguyên nhân kinh tế xã hội; mỗi loại lạm
phát có những nguyên nhân đặc trưng riêng của nó tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế- xã hội
và cách quản lý kinh tế của từng quốc gia. Tuy nhiên, dù đa dạng và khác nhau đến đâu
đều có thể quy tụ được những nguyên nhân của lạm phát:
* Cung tiền tệ và lạm phát:
Theo trường phái tiền tệ: M. Friedman cho rằng “ lạm phát bao giờ và ở đâu
cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Theo quan điểm của trường phái này khi cung tiền tệ
tăng lên, kéo dài sẽ làm cho giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát.
Chúng ta có thể sử dụng mô hình AD- AS để giải thích quan điểm của trường phái
tiền tệ.
AS3
P3
3
AS2
2
P
2
AS1
Hình 1.1: Mô hình AD, AS để giải thích quan điểm trường phái tiền tệ
Ban đầu, nền kinh tế ở điểm 1, với sản lượng tại mức tiềm năng và giá cả tại P1giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1. Nếu cung tiền tăng đều
đặn dần dần trong suốt cả năm, thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2. Trong
một thời gian rất ngắn, nền kinh tế có thể chuyển động sản lượng có thể tăng cao hơn
mức tiềm năng, nhưng kết quả giảm thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên sẽ làm
cho tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ nhanh chóng dịch chuyển vào trong và sự
dịch chuyển ấy sẽ dừng khi nào đạt đến AS2, sản lượng quay trở lại mức tiềm năng của
đường tổng cung dài hạn. Tại thời điểm cân bằng mới thì P2 cao hơn P1. Nếu cung tiền
tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo thì nền kinh tế lại chuyển động và lạm phát xuất
hiện. Tóm lại, trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát nhanh có thể do sự tăng cao của cung
tiền tệ thúc đẩy.
Theo trường phái của Keynes, việc tăng chi tiêu của Chính phủ hoặc cắt giảm thuế
cũng làm tăng tổng cầu, do đó đẩy giá cả lên cao. Nhưng những vấn đề của chính sách tài
khoá lại có giới hạn của nó, vì vậy việc tăng lên của tỷ lệ lạm phát trong trường hợp này
chỉ là tạm thời. Một phân tích khác của phía Keynes về tác động của những cú sốc tiêu
cực lên tổng cung cũng sẽ làm giá cả tăng lên. Nhưng, nếu cung tiền tệ không tiếp tục
tăng lên để tác động lên tổng cầu thì đến một lúc nào đó, tổng cung lại quay trở lại vị trí
ban đầu, do vậy sự tăng giá trong trường hợp này cũng chỉ là một hiện tượng nhất thời.
Với những phân tích như vậy, quan điểm của phía Keynes và phía tiền tệ tương đối
thống nhất nhau. Họ đều tin rằng: lạm phát cao chỉ xảy ra với một tỷ lệ tăng trưởng tiền
tệ cao.
* Công ăn việc làm cao và lạm phát.
Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà đa số Chính phủ các nước theo đuổi cũng
thường gây nên lạm phát đó là tạo việc làm cho người lao động. Trong đó có hai loại: lạm
phát chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo, được các nhà kinh tế học kết luận là kết quả của
chính sách này.
- Lạm phát do chi phí đẩy:
Ngay cả khi sản lượng chưa đạt được đến tiềm năng nhưng vẫn có khả năng xảy
ra lạm phát và trên thực tế đã xảy ra ở nhiều nước. Loại lạm phát này được gọi là lạm
phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp. Các cơn
sốc giá cả của thị trường đầu vào đặc biệt là vật tư thiết bị cơ bản( xăng, dầu, điện....) là
nguyên nhân chủ yếu khiến đường AS dịch chuyển lên trên. Tổng cầu không thay đổi
nhưng giá cả đã tăng và sản lượng lại giảm xuống.
- Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối về cung-cầu hàng hoá dịch vụ
trong đó cầu có khả năng thanh toán lớn hơn so với cung hàng hoá hoặc tốc độ gia tăng
tổng phương tiện thanh toán lớn hơn tốc độ gia tăng của sản xuất. Kết quả là trên thị
trường hàng hoá khan hiếm tương đối so với tiền, đồng thời do cả hai nhóm nguyên nhân
hàng và tiền. Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển, năng suất lao động thấp, năng lực sản
xuất đã hầu như đạt tới giá trị sản lượng tiềm năng trong điều kiện trình độ hiện tại nhưng
tiền vẫn được bơm ra quá sức hấp thụ thông qua các van: Chi ngân sách quá lớn so với
nguồn thu, mở quá rộng biên độ của hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá nhỏ, lãi
suất tái cấp vốn quá thấp, hệ thống thị trường vốn vừa thiếu, vừa không hoàn hảo trong
khi ngoại tệ tràn vào nhiều càng tạo thành những “ hợp lực” kích cầu lên cao hơn so với
cung...
* Lạm phát theo tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái liên quan chặt chẽ tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu. Tỷ giá giữa
tiền nội địa và tiền nước ngoài càng lên( tiền trong nước mất giá) thì hàng hoá càng lên
giá. Và đến lượt mình, giá hàng hoá kéo tỷ giá lên nhanh hơn, gây ra tình trạng lạm phát.
suy cho cùng, mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá có thể quy về sự gia tăng của cung
ứng tiền. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều đồng thuận với nhau rằng có yếu tố tâm lý trong
khuynh hướng kéo hàng hoá lên theo tỷ giá trong khi lạm phát đã hình thành và khuynh
hướng này rất phổ biến trong khu vực xuất nhập khẩu [27, tr.59].
* Thâm hụt ngân sách và lạm phát
Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ
và gây ra lạm phát cao.
Khi nhu cầu tiền của Chính phủ cho chi tiêu bị thiếu hụt, Chính phủ chủ trương phát
hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các chi phí bị thiếu hụt. Khi vốn đầu tư và
chi tiêu của Chính phủ được bù đắp bằng cách phát hành thêm tiền, kể cả việc tăng thuế,
thì nó sẽ đẩy nền kinh tế đi vào thế mất cân đối, vượt quá sản lượng tiềm năng của nó.
Khi tổng cầu của nền kinh tế vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế, cầu tiền vượt
quá lượng cung hàng hoá dẫn đến lạm phát, giá cả hàng hoá tăng lên nhanh chóng.
Hàng hoá bị săn đuổi bởi lượng chi tiêu quá lớn. Như vậy, bản chất của lạm phát
đó do nguyên nhân cầu là do chi tiêu quá nhiều, trong lúc lượng cung hàng hoá bị hạn
chế.
Trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao, kéo dài sẽ là
nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát.
1.1.5. Các tác động của lạm phát
Lạm phát tác động trực tiếp đến nền kinh tế, làm thay đổi mức độ và hình thức sản
lượng, đồng thời tạo ra sự phân phối lại thu nhập và của cải xã hội. Hơn nữa, lạm phát tác
động đến nền kinh tế theo cả hai hướng tiêu cực và tích cực.
* Về mặt tích cực:
Với tốc độ lạm phát vừa phải ( thường là từ 2% đến dưới 5 %/năm ở những nước
phát triển và dưới 10%/năm ở những nước kém phát triển), với việc chỉ số hoá lạm phát
cùng các kỹ thuật thích ứng khác, người ta nhận thấy lạm phát có thể đem lại một số lợi
ích, lạm phát như dầu mỡ “bôi trơn” nền kinh tế. Trong điều kiện nào đó, có thể thông
qua lạm phát từ 2-4%/năm để bỏ ngỏ khả năng có những lãi suất thực âm, có tác dụng
kích thích tiêu dùng, vay nợ và đầu tư, do đó giảm bớt thất nghiệp, kích thích tăng trưởng
kinh tế. Ngoài ra, lạm phát cho phép Chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ
kích thích đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng và tài trợ
lạm phát. Giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã hội theo các định hướng mục
tiêu và trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc.
* Về mặt tiêu cực:
- Lạm phát làm thay đổi lãi suất nhưng lãi suất là một chỉ số làm thay đổi kinh tế vĩ
mô cơ bản tác động đến thu nhập, tiêu dùng và đầu tư. Do vậy, thông qua lãi suất, lạm
phát tác động đến nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế. Ví dụ: Đối với ngành ngân hàng,
để hoạt động vững vàng thì lãi suất thực tế phải ổn định mà lãi suất thực tế = lãi suất
danh nghĩa- tỷ lệ lạm phát. Để lãi suất thực tế không đổi, thì lãi suất danh nghĩa phải tăng
cùng tỷ lệ lạm phát. Khi hệ thống ngân hàng và tài chính tăng lãi suất danh nghĩa thì nền
kinh tế sẽ gặp khó khăn, thất nghiệp gia tăng, nhu cầu đầu tư giảm..v v
- Lạm phát làm giảm thu nhập thực tế: Trong trưòng hợp thu nhập danh nghĩa
không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế.
- Lạm phát làm cho giá trị của tiền tệ không còn ổn định và không giữ được chức
năng thước đo giá trị. Xã hội gặp khó khăn trong việc tính toán tính hiệu quả, điều chỉnh
các hoạt động kinh doanh của mình.
- Lạm phát khiến cho việc phân phối thu nhập không bình đẳng: Trong quan hệ kinh
tế giữa người đi vay và người cho vay, khi lạm phát tăng cao, người cho vay chịu thiệt và
người đi vay sẽ được lợi, đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người
đi vay và người cho vay. Ngoài ra, một số người nắm giữ các hàng hoá có giá cả tăng đột
biến sẽ giàu lên, còn những người có hàng hoá mà giá không tăng hoặc tăng ít hoặc
người giữ tiền sẽ bị nghèo đi.
- Lạm phát tăng nguy cơ phá sản do vỡ nợ và làm tăng chi phí dịch vụ nợ nước
ngoài tính bằng ngoại tệ của cả các doanh nghiệp lẫn Chính phủ, do lạm phát thường kéo
theo việc điều chỉnh nâng tỷ giá và lãi suất đồng bản tệ với tư cách là các giải pháp nhằm
thích nghi và kiềm chế lạm phát( đồng thời, có trường hợp chính sự điều chỉnh phá giá
bản tệ là nguồn gốc trực tiếp làm gia tăng lạm phát do áp lực chi phí đẩy đối với hàng
hoá, vật tư nhập ngoại và tăng cầu đối với sản phẩm nội địa, sự tương tác qua lại giữa
chúng nếu vượt khả năng kiểm soát của Chính phủ, sẽ tạo ra vòng xoáy bất tận: phá giálạm phát- phá giá... tàn phá nền kinh tế và đời sống kinh tế- xã hội của quốc gia).
- Lạm phát còn làm cho môi trường kinh doanh trong nước xấu đi, khiến dòng đầu
tư nước ngoài vào chậm, thậm chí suy giảm, đi đôi với sự ra đi của dòng vốn trong nước.
Lạm phát kéo theo giá cả hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, hạn chế việc nhập những
hàng hoá, vật tư cần thiết. Lạm phát cao luôn gắn với thâm hụt tài chính và làm thâm hụt
đó trở nên nặng nề hơn, nhất là thâm hụt ngân sách.
1.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát
ở bất cứ một quốc gia nào có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, để đạt
được các mục tiêu phát triển kinh tế vĩ mô đều phải sử dụng các công cụ chính sách kinh
tế vĩ mô như chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại và
chính sách tiền tệ; thông qua việc sử dụng, điều hành các công cụ này để tác động đến
các mục tiêu như tăng trưởng, lạm phát, dấu cách việc làm... Làm như vậy, CSTT đóng
vai trò là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ
mô cũng như trong quá trình điều hành vĩ mô của Nhà nước.
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTW,
thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền
cung ứng( hoặc lãi suất) căn cứ vào nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế, nhằm đạt được các
mục tiêu về giá cả, công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế trong một thời kỳ nhất định.
Đối với những nước mà NHTW trực thuộc Chính phủ thì CSTT mà NHTW thực
hiện là CSTT quốc gia. Tuỳ vào tình hình kinh tế- xã hội trong khoảng thời gian CSTT
quốc gia được hoạch định theo chính sách tiền tệ mở rộng hay chính sách tiền tệ thắt
chặt.
1.2.1. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể các chính sách kinh tế nhưng
CSTT cũng có mục tiêu, có tính chất riêng khi hướng tới mục tiêu chung. Tuỳ từng quốc
gia và từng giai đoạn khác nhau, CSTT có thể có mục tiêu khác nhau. Mặc dù mục tiêu
cụ thể của CSTT của các nước có khác nhau nhưng cơ bản giống nhau ở chỗ đều hướng
tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền, tạo việc làm cho người lao
động.
1.2.1.1 Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để sao cho khi sử dụng các
công cụ điều tiết sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu trung gian. Trong đó tiêu chuẩn được lựa
chọn phải đảm bảo: (1) Tính định lượng( thấy rõ được mức độ và tính nhạy cảm trong tác
động của môi trường hoạt động tới mục tiêu cuối cùng); (2) Tính nhạy cảm với biến động
của CSTT( Mục tiêu hoạt động chịu ảnh hưởng đầu tiên về những thay đổi trong CSTT
và nó phản ánh lập tức kết quả mà thay đổi đó đem lại; (3) Có mối quan hệ chặt chẽ và ổn
định bởi mục tiêu trung gian được coi như mục tiêu của mục tiêu hoạt động, vì thế mục
tiêu hoạt động phải có ảnh hưởng nhanh nhạy và hiệu quả đến mục tiêu trung gian.
Căn cứ vào tiêu chuẩn trên các chỉ tiêu thường được lựa chọn làm mục tiêu hoạt
động của NHTW bao gồm: lãi suất liên ngân hàng, dự trữ không vay, dự trữ đi vay.
1.2.1.2. Mục tiêu trung gian
Mục tiêu trung gian thực chất chỉ là phương tiện giúp cho NHTW đạt được các mục
tiêu cuối cùng.
Mục tiêu trung gian của CSTT bao gồm: Mức cung tiền tệ (M1, M2, M3), lãi suất thị
trường ngắn hạn, trung và dài hạn, tỷ giá, khối lượng tín dụng.Tuy nhiên, hiện nay các
nước thường sử dụng mức cung tiền tệ hay lãi suất thị trường làm mục tiêu trung gian của
CSTT. Trong đó, tiêu chuẩn được lựa chọn làm mục tiêu trung gian phải đảm bảo.(1) Có
thể đo lường được một cách chính xác và nhanh chóng; bởi vì, các chỉ tiêu này chỉ có ích
khi nó phản ánh được tình trạng của chính sách tiền tệ nhanh hơn mục tiêu cuối cùng.
NHTW có thể dựa vào các dấu hiệu này để điều chỉnh hướng tác động khi cần thiết. Hiển
nhiên NHTW không thể đưa ra tỷ lệ tăng trưởng M2 nếu nó không biết hiện M2 đang tăng
trưởng với tốc độ nào. Mặt khác, tính chất này cũng chỉ cho NHTW biết nên chọn chỉ
tiêu cụ thể nào trong tổng lượng tiền cung ứng.(2) Có thể kiểm soát được: Khi NHTW có
kỹ năng kiểm soát mục tiêu trung gian nó có thể điều chỉnh mục tiêu đó cho phù hợp với
định hướng của CSTT.(3) Có mối liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng: Đây là tiêu
chuẩn quan trọng nhất của mục tiêu trung gian, khả năng có thể đo lường chính xác hoặc
khả năng kiểm soát của NHTW sẽ trở nên vô nghĩa nếu các chỉ tiêu được lựa chọn không
ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng và giá cả.
Việc lựa chọn lãi suất hay lượng tiền cung ứng làm mục tiêu trung gian của CSTT
tuỳ thuộc vào mức độ biến động tương đối của nhu cầu tiền tệ so với nhu cầu hàng hoá
được phản ánh thông qua sự biến động tương đối của đường IS so với LM trong mô hình
IS- LM. Khi đường IS biến động mạnh hơn đường LM thì tổng lượng tiền cung ứng thích
hợp với vai trò này hơn và khi đường LM biến động mạnh hơn đường IS thì việc lựa
chọn lãi suất làm mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ thích hợp hơn.
Ngoài hai mục tiêu nói trên còn có một số các chỉ tiêu khác thể hiện vai trò mục tiêu
trung gian như tổng khối lượng tín dụng, tỷ giá. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của các chỉ
tiêu này là mối quan hệ của chúng với các mục tiêu cuối cùng rất phức tạp và không rõ
ràng. Vì thế, ít khi nó được sử dụng làm mục tiêu độc lập, mà thường có thể được sử
dụng cùng với các mục tiêu khác như tổng lượng tiền cung ứng hoặc lãi suất.
1.2.1.3. Mục tiêu cuối cùng
Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước: Sự điều
chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm đạt mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ; từ đó
góp phần tăng trưởng kinh tế; tạo việc làm.Tuỳ thuộc vào điều kiện, tình hình kinh tế ở
mỗi nước trong từng thời kỳ mà NHTW đưa ra số lượng các mục tiêu khác nhau cho
CSTT.
+ ổn định sức mua tiền tệ: ổn định sức mua tiền tệ, thể hiện qua việc kiểm soát lạm
phát và ổn định tỷ giá hối đoái.
* ổn định giá trị đối nội của đồng tiền: Các nhà kinh tế đã cho rằng, lạm phát là căn
bệnh kinh niên của nền sản xuất hàng hoá, nhất là đối với nền kinh tế thị trường, vì vậy
kiểm soát và duy trì một mức giá cả ổn định và lạm phát ở mức có thể chấp nhận được là
một mục tiêu được đặt ra của CSTT.
Khi lạm phát gia tăng sẽ tác động đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế- xã hội,
làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, ảnh hưởng đến phân phối lại, tác động tới tâm lý đầu cơ
cất trữ, bất động sản, vàng bạc, ngoại tệ, các tài sản có giá trị cao... gây ra tình trạng khan
hiếm hàng hoá giả tạo; giảm sức mua thực tế của đồng tiền. Từ đó, đời sống của người
lao động sẽ khó khăn; gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống tài chính, trong đó ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng.
*ổn định giá trị đối ngoại của tiền tệ: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát
triển ở mức độ cao, một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì không chỉ có các yếu tố
trong nước mà còn lệ thuộc vào xu thế phát triển của nền kinh tế quốc tế. Do vậy, xu
hướng phát triển nền kinh tế mở đã mang tính phổ biến trong thời đại ngày nay; khi đó hệ
thống tài chính tiền tệ của mỗi nước hội nhập vào tài chính quốc tế với tốc độ cao. Tác
động của hệ thống tài chính quốc gia vượt ra khỏi ranh giới quốc gia để tác động đến hoạt
động của các nền kinh tế khác. Sự tác động này nhiều hay ít phụ thuộc vào nền kinh tế
nước đó “mở” nhiều hay ít. Một sự biến động của tỷ giá sẽ tác động đến hoạt động kinh
tế trong nước, thể hiện trực tiếp và mạnh mẽ ở hoạt động xuất khẩu.
Như vậy, việc ổn định tỷ giá hối đoái là một mục tiêu quan trọng của CSTT, vì khi
có thay đổi của tỷ giá hối đoái tuỳ theo mức độ, có thể làm gia tăng hay giảm lạm phát
của nền kinh tế nước đó.
Việc ổn định thị trường hối đoái có nghĩa là ổn định giá trị đồng tiền nội địa so với
các đồng ngoại tệ sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp và cá nhân trong
hoạt động xuất nhập khẩu; tạo điều kiện cho nền kinh tế đất nước phát triển; thúc đẩy quá
trình hội nhập của nền kinh tế quốc tế của nước đó.
+ Góp phần tăng trưởng kinh tế: ở bất cứ quốc gia nào, phát triển đất nước đều cần
có một mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Một trong những yếu tố quan trọng đến
tăng trưởng kinh tế là do thay đổi khối lượng tiền trong lưu thông vì:
* Khi khối lượng tiền tăng, lãi suất thường giảm xuống, do vậy kích thích đầu tư,
mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng GDP. Mặt khác, tăng khối lượng tiền tệ sẽ làm tăng
tổng cầu, sức mua hàng hoá trên thị trường tăng lên, hàng tồn đọng sẽ giảm đi, dẫn đến
các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả là GDP tăng lên.
* Khi khối lượng tiền tệ giảm xuống, lãi suất có xu hướng tăng lên, vốn đầu tư có
“giá” cao hơn, đầu tư giảm xuống dẫn đến giảm GDP. Mặt khác, giảm khối lượng tiền tệ,
sẽ làm giảm tổng cầu, sức mua sẽ giảm, làm tăng lượng hàng hoá tồn đọng của các doanh
nghiệp, do đó các doanh nghiệp không có cơ hội mở rộng sản xuất, và khi đó GDP giảm
xuống.
Việc tăng giá hay giảm bớt khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân ở mỗi thời
kỳ, cần được sử dụng các công cụ CSTT phù hợp (hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc, lãi
suất....) với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể trên cơ sở vận dụng tối ưu các qui luật
phát triển kinh tế vào việc xây dựng các chính sách kinh tế; trong đó có CSTT.
+ Góp phần tạo công ăn việc làm: CSTT phải xác lập mục tiêu: Tạo việc làm, giảm
thất nghiệp. Bởi vì, mọi của cải trong xã hội do lao động của con người tạo ra, trong điều
kiện sản xuất hàng hoá thì thất nghiệp tràn lan. Do vậy, CSTT phải quan tâm đến khả
năng tạo việc làm, giảm áp lực xã hội của thất nghiệp. Tạo việc làm có ý nghĩa rất quan
trọng là do:
- Thất nghiệp gây ra nghèo khó cho người lao động, từ đó gây ra những tệ nạn xã
hội.
- Chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh khả năng sử dụng hiệu
quả nguồn lực xã hội.
- Các khoản trợ cấp thất nghiệp tăng lên làm thay đổi cơ cấu NS và là một trong
những nguyên nhân gây thâm hụt NSNN.
* Mối quan hệ giữa các mục tiêu:
Trong dài hạn các mục tiêu CSTT có liên quan chặt chẽ với nhau hỗ trợ và thúc đẩy
lẫn nhau. Vì vậy, khi thực thi CSTT không thể tuyệt đối hoá một mục tiêu nào, không thể
giải quyết các mục tiêu một cách độc lập trên tầm vĩ mô. Tuy trong ngắn hạn có thể xảy
ra sự xung đột, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các mục tiêu.
- Việc giảm tỷ lệ thất nghiệp đồng nghĩa với việc thực hiện một chính sách tiền tệ
thắt chặt, lãi suất tăng lên làm giảm các nhân tố cấu thành tổng cầu, dẫn đến tổng cầu của
nền kinh tế giảm xuống. Thất nghiệp có xu hướng tăng lên. Mặt khác, việc duy trì một tỷ
lệ thất nghiệp thấp hơn thường kéo theo chính sách tiền tệ mở rộng và sự tăng giá.
- Mục tiêu công ăn việc làm mâu thuẫn với mục tiêu ổn định giá cả còn thể hiện
thông qua sự phản ứng của NHTW đối với các cú sốc cung nhằm đảm bảo mức cầu tiền
thực tế, kết quả là giá cả tăng lên.
- Mâu thuẫn này còn được thể hiện thông qua định hướng điều chỉnh tỷ giá; Bằng
việc hạ giá đồng bản tệ, các ngành công nghiệp xuất khẩu có khả năng mở rộng quy mô
sản xuất. Tỷ lệ thất nghiệp vì thế giảm thấp kèm theo sự tăng lên của mức giá chung.
Như vậy, việc duy trì một mức tỷ giá ổn định và thích hợp sẽ làm giảm tỷ lệ công ăn việc
làm, trong khi một mức tỷ giá cao hơn sẽ góp phần giảm tỷ lệ lạm phát.
Thất nghiệp và tăng trưởng không có sự mâu thuẫn cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Công ăn việc làm cao sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại. Tuy nhiên, mối quan hệ
giữa sự tăng trưởng và ổn định giá cả lại tương đối phức tạp; chúng mâu thuẫn nhau
trong ngắn hạn nhưng lại bổ sung cho nhau trong dài hạn.
Như vậy, trong ngắn hạn, NHTW không thể đạt được tất cả các mục tiêu trên. Phần
lớn NHTW các nước coi sự ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của chính sách
tiền tệ, nhưng trong ngắn hạn đôi khi họ phải tạm thời từ bỏ mục tiêu chủ yếu để khắc
phục tình trạng thất nghiệp cao đột ngột hoặc các ảnh hưởng của các cú sốc cung đối với
sản lượng. NHTW theo đuổi một mục tiêu về dài hạn và đa mục tiêu trong ngắn hạn.
+ Góp phần ổn định lãi suất: là một mục tiêu cơ bản của CSTT, vì những biến động
của lãi suất sẽ làm cho kinh tế bấp bênh không ổn định. Lãi suất lên xuống bất thường
làm cho giá cả các loại hàng hoá cũng lên xuống bất thường. Thị trường tài chính tiền tệ,
thị trường hàng hoá và dịch vụ không ổn định và luôn biến động theo chiều hướng không
lường trước được, gây khó khăn cho việc lập các kế hoạch chi tiêu và đầu tư trong tương
lai của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Lãi suất cao có thể tương ứng với một nền kinh tế
đang tăng trưởng và phát triển mạnh nhưng không đồng nghĩa với một nền kinh tế phát
triển bền vững, đặc biệt khi lãi suất quá cao sẽ gây ra tình trạng siêu lạm phát. Ngược lại,
lãi suất quá thấp biểu hiện một nền kinh tế trì trệ, tốc độ tăng trưởng kinh tế thậm chí ở
mức âm, tương ứng với tình trạng giảm phát. Như vậy, hậu quả của tình trạng lãi suất quá
cao hay quá thấp, lên xuống thất thường là một nền kinh tế bất ổn. Đồng thời những biến
động về lãi suất sẽ gây mất lòng tin trong công chúng về khả năng kiểm soát hữu hiệu
những công cụ và khả năng đạt được mục tiêu CSTT của Chính phủ và NHTW.
Trên đây là một số mục tiêu vĩ mô chung mà các quốc gia trên thế giới đang theo
đuổi, tuy nhiên, một số nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc
điểm phát triển kinh tế đặc thù của mỗi quốc gia.
1.2.2. Công cụ điều hành và sự lựa chọn các giải pháp chính sách tiền tệ
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra của CSTT, NHTW sử dụng một hệ thống công
cụ để điều tiết lượng tiền cung ứng bao gồm: tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nhiệm vụ
thị trường mở, lãi suất, tỷ giá hối đoái, hạn mức tín dụng... Việc sử dụng các công cụ trên
là tuỳ thuộc vào quan điểm, chính sách của từng quốc gia.
1.2.2.1. Công cụ trực tiếp
Công cụ trực tiếp là công cụ tác động về mặt lượng và NHTW kiểm soát công cụ
này chủ yếu bằng biện pháp hành chính. Khi NHTW sử dụng các công cụ trực tiếp nó có
tác động đến mục tiêu trung gian và từ mục tiêu trung gian tác động đến tổng cầu.
- Công cụ hạn mức tín dụng: Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW bắt
buộc NHTM phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Hạn mức tín dụng thường được sử dụng trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát
cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Đây là biện pháp
nhằm khống chế dư nợ của các NHTM mà từ đó tác động đến lượng tiền cung ứng trong
nền kinh tế thông qua việc tác động vào hệ số mở rộng tiền tệ. Khi NHTW tăng hạn mức
tín dụng sẽ dẫn đến khả năng tăng cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng
tạo tiền, tăng lượng tiền cung ứng và ngược lại. Hạn mức tín dụng đưa ra bao giờ cũng
phải nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế mới có hiệu quả.
Tuy nhiên hạn mức tín dụng cũng có nhiều hạn chế như: mang tính hành chính quá
cao, không chính xác và không có hiệu quả khi hạn mức tín dụng được quy định không
phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế. Ngoài ra công cụ này tỏ ra kém linh hoạt và không
thể thay đổi thường xuyên. Những hạn chế này chủ yếu được xuất phát từ sự thiếu căn cứ
trong xác định hạn mức tín dụng và lỏng lẻo của các chế tài trong việc quản lý nó.
- Công cụ kiểm soát lãi suất: NHTW trực tiếp ấn định trần lãi suất cho vay để
khống chế mức lãi suất của các NHTM áp dụng cho vay đối với nền kinh tế. NHTM tăng
giảm lãi suất cho vay theo trần lãi suất của NHTW, từ đó ảnh hưởng đến nhu cầu vốn của
nền kinh tế. Công cụ này có đặc điểm lớn nhất là không phụ thuộc với cơ chế thị trường
vì nó hạn chế sự cạnh tranh của các NHTM, hạn chế sự linh hoạt của thị trường tiền tệ,
giảm tính chủ động trong kinh doanh của hệ thống NHTM. Nếu NHTW ấn định mức lãi
suất quá thấp làm cho nhu cầu tiền tăng nhanh hơn dự đoán, gây khó khăn về nguồn vốn
cho NHTM không kịp điều chỉnh kịp thời bỏ lỡ cơ hội đầu tư của mình.
- Công cụ tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền. Khi trở
thành công cụ CSTT, NHTW sẽ trực tiếp can thiệp vào tỷ giá, điều chỉnh tỷ giá cho
những mục tiêu nhất định của NHTW trong từng thời kỳ: khuyến khích xuất khẩu; ổn
định giá trị đồng tiền...Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ này đòi hỏi NHTW trong từng
thời kỳ phải cân nhắc một cách kỹ lưỡng, do nó có ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế quốc
tế, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTM và các TCTD, từ đó tác
động lớn đến nền kinh tế.Về thực chất, tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền
tệ, bởi lẽ tỷ giá không làm tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên, có nhiều
quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, đang chuyển đổi, lại coi
tỷ giá là công cụ bổ trợ quan trọng cho điều hành chính sách tiền tệ.
1.2.2.2. Công cụ gián tiếp
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu của chính sách tiền tệ, thông qua
cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối lượng
tiền cung ứng và lãi suất. Nhóm công cụ này bao gồm:
- Công cụ tái cấp vốn: Tái cấp vốn là hình thức cấp vốn tín dụng của NHTW đối
với ngân hàng thương mại khi cấp một khoản tín dụng cho ngân hàng thương mại một
mặt, NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các ngân hàng thương
mại, tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán của họ. Với công cụ này,
NHTW sẽ điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào
mục tiêu của CSTT là thắt chặt hay nới lỏng tiền tệ, từ đó tác động tới lượng tiền trong
lưu thông. Khi NHTW thấy rằng, cần tăng thêm tiền cho lưu thông họ có thể hạ thấp lãi
suất tái cấp vốn xuống. Khi đó, một mặt, khuyến khích các ngân hàng thương mại đến
NHTW để vay vì giá cả tín dụng giảm, mặt khác dung lượng tín dụng được cấp vốn với
các ngân hàng thương mại tăng lên.
Cơ chế ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng: đối với công cụ này NHTW ấn định
hạn mức TCK, lãi suất TCK và các điều kiện TCK. Những thay đổi này ảnh hưởng đến
mục tiêu cuối cùng khi các NHTM có nhu cầu vay NHTW và ảnh hưởng qua hai con
đường: khối lượng( hạn mức) và giá( lãi suất TCK).
Công cụ giám tiếp có khả năng điều tiết một cách linh hoạt các mục tiêu trung gian.
Tuy nhiên, mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này căn cứ vào mức độ phụ thuộc về
vốn của NHTM vào NHTW. Vì thế, nó là công cụ kém chủ động. Để khắc phục nhược
điểm này người ta thường sử dụng kết hợp với công cụ dự trữ bắt buộc.
- Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên
một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại NHTW. nó được xác định bằng một tỷ lệ phần
trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian nào đó. Mức dự trữ bắt
buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt
động của NHTM.
Cơ chế tác động của dự trữ bắt buộc: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc và do đó
mức dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng như sau: tỷ lệ dự trữ bắt buộc
tăng lên sẽ làm giảm khả năng cho vay của hệ thống NHTM, giảm hệ số tạo tiền và do đó
khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống ngân hàng, giảm mức cung vốn NHTW trên thị
trường liên ngân hàng. Quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây nên những ảnh
hưởng ngược lại.
Lợi thế chủ yếu của dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng là sự
thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả các ngân hàng.
Đây là công cụ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khối lượng tiền cung ứng. Chỉ cần 1% thay
đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tính trên tổng số dư tiền gửi bình quân ngày, mức dự trữ sẽ là
thay đổi đáng kể và dẫn đến sự thay đổi theo cấp số nhân của khối lượng tiền cung ứng.
Điều này làm cho công cụ dự trữ bắt buộc trở nên thiếu linh hoạt vì sự thay đổi thường
xuyên sẽ gây nên sự bất ổn định cho hoạt động của các ngân hàng và chi phí cho sự điều
chỉnh thích ứng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới là rất tốn kém. Mặt khác, sự thay đổi dự trữ
bắt buộc (đặc biệt trong trường hợp tăng) gây ảnh hưởng ngay lập tức và trực tiếp đến
lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Vì thế, công cụ này thường được sử dụng