Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu ôn tập lịch sữ đảng

.DOC
12
187
56

Mô tả:

Câu 1: Anh chị hãy nêu và phân tích ý nghĩa con đường cứu nước giải phóng dân tộc mà lãnh tụ NAQ và Đảng ta đã nhấn mạnh: “… đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lực chọn đã dứt khoát từ 1930 với sự ra đời của Đảng ta”? Liên hệ về con đường cách mạng hiện nay ở nước ta? Bài làm: a) Ý nghĩa con đường cứu nước giải phóng dân tộc mà lãnh tụ NAQ và Đảng ta đã nhấn mạnh: “… đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ 1930 với sự ra đời của Đảng ta”: * Trình bày hoàn cảnh lịch sử thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX: Xem trang 13 Tài liệu hỏi – đáp Lịch sử Đảng CSVN. * Trình bày tình hình kinh tế xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX: Xem trang 13 Tài liệu hỏi – đáp Lịch sử Đảng CSVN. * Trình bày các phong trào yêu nước bị thất bại: Xem trang 14 Tài liệu hỏi – đáp Lịch sử Đảng CSVN. * Trình bày quá trình chuẩn bị những điều kiện cho việc thành lập Đảng CSVN của lãnh tụ NAQ giai đoạn từ 1911 đến 1920, giai đoạn từ 1921 đến 1930 => Xem trang 16, 17, 18, 19 Tài liệu hỏi – đáp Lịch sử Đảng CSVN. * Trình bày nội dung Đảng CSVN ra đời là bước ngoặc lịch sử => Xem trang 19, 20 Tài liệu hỏi – đáp Lịch sử Đảng CSVN. b) Liên hệ về con đường cách mạng hiện nay ở nước ta: Con đường CM ở nước ta hiện nay và trong 5 năm tời cần thực hiện những mục tiêu tổng quát gồm: Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vũng ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Một số nhiệm vụ chủ yếu: - Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững. - Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức; bảo vệ môi trường, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu. - Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự an toàn xã hội; mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. - Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN; đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp; thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. - Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên :Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM”; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Câu 2: Anh (chị) hãy cho biết sự vận dụng đúng đắn sáng tạo học thuyết chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng cộng sản; sự phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc thành lập Đảng CSVN? Liên hệ với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay là nhiệm vụ then chốt? Bài làm: a) Sự vận dụng đúng đắn sáng tạo học thuyết chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng cộng sản; sự phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc thành lập Đảng CSVN: - Tình hình thế giới: + Từ nữa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tiến hành xâm chiếm các nước thuộc địa. Mâu thuẫn mới xuất hiện: Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc. + Từ đó phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến nước ta. + Thắng lợi của cuộc Cách mạnh Tháng Mười Nga (1917) và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III – 1919) làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới, mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. - Tình hình trong nước Việt Nam: + Ngày 1/9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Đến năm 1897, thực dân Pháp hoàn thành công cuộc xâm chiếm Việt Nam và bắt đầu xác lập chế độ cai trị, khai thác thuộc địa ở Việt Nam. + Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có những chuyển biến sâu sắc: . Về tính chất xã hội: Từ xã hội phong kiến trở thánh xã hội thuộc địa nửa phong kiến. . Về mâu thuẫn cơ bản trong xã hội: Nổi bật hai mâu thuẫn: mâu thuẫn dân tộc giữa toàn thể dân tộc VN với thực dân Pháp và tay sai; mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân với địa chủ phong kiến. . Về cơ cấu giai cấp trong xã hội: Giai cấp cũ (địa chủ phong kiến và nông dân) bị phân hóa, xuất hiện những giai cấp mới (công nhân, tư sản và tiểu tư sản). + Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân VN nổ ra mạnh mẽ, nhưng do chưa có một đường lối chính trị đúng đắn, thiếu một tổ chức với tư cách là một chính Đảng lãnh đạo và chưa tập hợp được rộng rãi các tầng lớp nhân dân vào lực lượng đấu tranh nên các phong trào đấu tranh đã lần lượt thất bại. Xã hội VN lâm vào khủng hoảng về đường lối cứu nước và lực lượng lãnh đạo cách mạng. - NAQ đi tìm con đường cứu nước và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào VN: : Trước yêu cầu cấp bách phải tìm một con đường cứu nước mới, ngày 5/6/1911 NAQ đã lên đường sang các nước phương Tây, nơi có khoa học - kỹ thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do, xem các nước làm thế nào để rồi trở về giúp đồng bào mình thoát khỏi ách nô lệ. + Từ năm 1911 đến 1920: Giai đoạn đi tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người đã đi đến nhiều nơi trên thế giới để tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức. . Năm 1917, CM Tháng Mười Nga thắng lợi đã có ảnh hưởng quyết định đến cuộc đời hoạt động CM của Người. . Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin. Luận cương của Lênin đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc mà sau gấn mười năm tìm kiiếm Người mới bắt gặp. . Tháng 12/1920, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng Sản, sau đó tham gia thành lập ĐCS Pháp và trở thành một trong những người sáng lập ĐCS Pháp, và cũng là người CS đầu tiên của dân tộc VN. + Từ năm 1921 đến năm 1930: Giai đoạn NAQ vừa hoạt động thực tiễn, vừa tích cực nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào cách mạng ở trong nước, trực tiếp chuẩn bị những điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng CSVN. . Tháng 2/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã lập ra nhóm Cộng sản đoàn. Tháng 6/1925, Người thành lập Hội VN cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Người đã mở lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luật CN M-L cho những người trong tổ chức Hội VN cách mạng Thanh niên. Ngoài ra, trong số cán bộ được đào tạo có nhiều đồng chí được chọn đi học tại Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô. Đây là sự chuẩn bị về tư tưởng, chính trị cho quá trình thành lập Đảng. Đến năm 1929 trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, ở nước ta đã thành lập một số tổ chức Đảng như: Tại Bắc Kỳ, Đông Dương cộng sản Đảng được thành lập ngày 17/6/1929; Tại Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập tháng 11/1929; Tại Trung Kỳ, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ngày 1/1/1930. Ba tổ chức công sản ra đời ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận tổ chức của mình là đảng cách mạng chân chính, do đó không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức. Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, NAQ đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (gồm: Đông Dương cộng sản Đảng; Đông Dương Cộng sản Liên đoàn; An Nam Cộng sản Đảng) thành một chính Đảng duy nhất của Việt Nam. Hội nghị tiến hành từ ngày 06/01/1930 đến 07/02/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc, quyết định đặt tên Đảng là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện do lãnh tụ NAQ soạn thảo, đó là Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: * Về phương hướng cách mạng VN là chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. * Nhiệm vụ cụ thể của CMVN trên các lĩnh vực: . Chính trị: Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước VN được hoàn toàn độc lập, xây dựng chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông. . Kinh tế: Tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của đế quốc giao cho chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm việc 8 giờ. . Văn hóa xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa, nam nữ bình quyền. * Về lực lượng cách mạng: Phải đoàn kết công nhân, nông dân và phải dựa vào dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiều tư sản, trí thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ, tư bản An Nam mà chưa rõ phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất là làm cho họ đứng trung lập; đối với những đối tượng đã ra mặt phản cách mạng (đại địa chủ, tư sản mại bản) thì phải kiên quyết đánh đổ. * Về xác định phương pháp cách mạng: Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh đổ đế quốc phong kiến. * Về lực lượng lãnh đạo cách mạng: Giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong của mình là Đảng cộng sản. * Về quan hệ quốc tế: Cách mạnh VN là một bộ phận của CM thế giới. Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của CN M-L vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến. Kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản và kết hợp thực tiễn, yêu cầu của CM VN với tư tưởng tiên tiến CM của thời đại. Sự ra đời của ĐCSVN là sự sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã thành công trong vận dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về Đảng cộng sản, xây dựng thành công một đảng kiểu mới ở nước ta. Chủ nghĩa Mác – Lênin về đảng công sản đã chỉ ra quy luật ra đời, tồn tại, phát triển của Đảng là chủ nghĩa xã hội khoa học kết hợp với phong trào công nhân. Đối với nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, phong trào công nhân đã phát triển, phong trào yêu nước rất mạnh mẽ, NAQ thấy rất rõ, để thành lập Đảng phải làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước chuyển biến về chất và phải được chủ nghĩa Mác – Lênin soi sáng, các yếu tố đó phải được kết hợi với nhau. Trong suốt quá trình thành lập Đảng, Người đã tích cực thực hiện và thực hiện thành công điều đó, dẫn tới sự ra đời của ĐCSVN vào ngày 3/2/1930. b) Việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay là nhiệm vụ then chốt: Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, song suy đến cùng xây dựng Đảng có vai trò quyết định nhất. Học thuết M-LN về ĐCS vẫn là cẩm nang có giá trị nhất, là ngọn đuốc soi đường để Đảng và nhân dân VN tiến hành công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Trong giai đoạn hiện nay cần phải tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM”; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, CN M-L, tư tưởng HCM về ĐCS, nhất là về ĐCS cầm quyền luôn luôn là chỉ dẫn quý báu để Đảng và nhân dân VN tiến hành công tác xây dựng Đảng, để Đảng có đủ khả năng đưa đất nước VN đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH. Câu 3: CMT8 – 1945 có phải là “cánh cửa khép hờ” không hay là khoa học và nghệ thuật “chớp thời cơ” trong lãnh đạo tổng khởi nghĩa của Đảng ta? Bằng sự hiểu biết về LSĐCSVN, anh (chị) hãy cho biết nhận định nào đúng hay sai? Bài làm: Việc cho rằng CMT8 – 1945 là cánh cửa khép hờ là sai. Sự lãnh đạo tổng khởi nghĩa CMT8 – 1945 của Đảng ta là khoa học và nghệ thuật chớp thời cơ để giành độc lập dân tộc a) Hoàn cảnh lịch sử và sự chuẩn bị của Đảng: Ngày 1/9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ khi phát xít Đức tấn công Ba Lan. Ngày 3/9/1939, bọn thực dân Pháp chính thức tham chiến. Sự kiện lịch sử đó đã làm thay đổi chính sách mà chính quyền thực dân Pháp đối với giai cấp công nhân, quần chúng lao động Pháp và hệ thống các nước thuộc địa của Pháp. Ở Đông Dương, đế quốc Pháp điên cuồng tấn công vào Đảng CS và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức do ĐCS lãnh đạo. Chúng thực hiện chính sách khủng bố, ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, cướp của để cung cấp cho chiến tranh. Bộ mặt xâm lược của bôn đế quốc, phản động, của bọn tay sai bị phơi bày càng làm cho quần chúng căm thù sâu sắc, đẩy nhanh quá trình CM hóa quần chúng. Trong vòng 6 tháng, từ tháng 9/1940 đến tháng 1/1941, ở nước ta liên tiếp nổ ra ba cuộc khởi nghĩa. Đó là cuộc khởi nghĩa bắc Sơn ngày 27/9/1940, khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940 và cuộc nổi dậy của binh lính Đô Lương ngày 13/1/1941. Tuy chưa giành được thắng lợi nhưng đó là tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ trang của nhân dân VN. Hai tháng sau khi chiến tranh thế giới bùng nổ, Hội nghị BCH TW lần thứ sáu, từ ngày 6 đến ngày 8/11/1939 đã chỉ rõ đặc điểm cơ bản của tình hình Đông Dương, xác định mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn dân tộc, đề ra mục tiêu chiến lược trước mắt của CM Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Tạm gác khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của giai cấp địa chủ” , chỉ chủ trương “tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai”. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương. Sự sáng tạo và nhạy bén nhất của Hội nghị là đã nêu ra phương hướng chiến lược tập trung mũi nhọn của CM vào đế quốc và tay sai, giương cao ngọc cớ giải phóng dân tộc, chuẩn bị điều kiện giành chính quyền. Bước sang năm 1940, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ hơn. Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn quyết liệt, nước Pháp thất bại nhanh chóng. Ngày 22/9/1940 quân Nhật từ TQ đánh vào Lạnh Sơn, quân Pháp bỏ chạy. Ở những nơi quân Pháp bỏ chạy chính quyền lung lay dữ dội. Hội nghị BCH TW lần thứ bảy từ ngày 6 đến ngày 9/11/1940 đã khẳng định chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc Tạm rút khẩu hiệu ruộng đất của Hội nghị TW tháng 11/1939. Hội nghị quyết định duy trì lực lượng vũ trang bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội du kích hoạt động phân tán, dùnh hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm. Bước sang năm 1941, tình hình CM trong nước có nhiều biến đổi quan trọng. Ngày 28/01/1941, đồng chí NAQ từ nước ngoài về Cao Bằng và triệu tập Hội nghị BCH TW lần thứ tám từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941. Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và tình hình trong nước. Hội nghị xác định: Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh). Các đoàn thể quần chúng đều lấy tên là Hội Cứu Quốc thay cho Hội phản đế trước đây. Ngày 22/12/1944, thực hiện chỉ thị của đồng chí NAQ, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. b) Đảng lãnh đạo chớp thời cơ: Cuối năm 1944, đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô quét sạnh phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình và tiến như vũ bão về phía Béclin, phát xít Đức sắp bị tiêu diệt. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Đường biển từ Nhật đến các căn cứ ở Đông Nam Á bị chia cắt. Mâu thuẫn Nhật – Pháp ngày càng gay gắt. Đêm 9/3/1945, Nhật làm đảo chính gạt bỏ Pháp, độc chiếm Đông Dương. Đúng đêm ngày 9/3/1945, Hội nghị ban thường vụ TW mở rộng họp ở làng Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh cho đến 12/3/1945. Trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị, Ban thường vụ TW Đảng đã ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. . Hội nghị xác định: Sau cuộc đảo chính này, phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt, duy nhất của nhân dân Đông Dương. Khẩu hiệu “đánh đuổi Nhật – Pháp” được thay bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. . Hội nghị nhận định về tình thế CM: Những điều kiện khởi nghĩa chưa thật sự chín muồi, vì Pháp tuy tan rã, nhưng Nhật chưa hoang mang, do dự đến cực điểm. Các tầng lớp trung gian chưa ngã hẳn về phía CM. Tuy nhiên, những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi. . Dự kiến những thời cơ cụ thể để phát động tổng khởi nghĩa, Chỉ thị đã nêu rõ: “Khi quân Đồng Minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, không phải ta có thể phát động tổng khởi nghĩa ngay tức khắc. Phải đợi cho quân Đồng Minh không những bám chắc mà còn tiến được trên đất ta. Đồng thời phải chờ quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng Minh để phía sau tương đối sơ hở; lúc đó phát động tổng khởi nghĩa mới có lợi”. . Chủ trương không được chỉ trông chờ vào điều kiện khách quan, mà phải luôn giữ quyền chủ động trong việc tác chiến. Và ngay từ bây giờ phát động du kích chiếm căn cứ địa, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích, phải là phương pháp duy nhất của dân tộc ta để đóng vai trò chủ động trong việc đánh đuổi quân ăn cướp Nhật Bản ra khỏi nước. Từ những nhận định trên, Hội nghị quyết định: phát động một cao trào CM làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Đến tháng 8-1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 9-8-1945, phát xít Đức đầu hàng không điều kiện. Ngày 15/8/1945, Nhật Hoàng công bố lệnh đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng Minh vô điều kiện. Hội nghị Đảng toàn quốc diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945. Hội nghị nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giàng quyền độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Để đảm bảo tổng khởi nghĩa thắng lợi, Hội nghị đề ra ba nguyên tắc: tập trung, thống nhất, kịp thời. Ngày 16/8/1945, tại Tân Trào, Đại hội quốc dân họp, nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt minh, quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Chủ tịch HCM kêu gọi đồng bào: “Giờ quyết định cho vận mệnh cho dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Nghe theo tiếng gọi của Đảng và của Chủ tịch HCM, hơn 20 triệu đồng bào trong cả nước nhất tề đứng dậy khởi nghĩa giàng chính quyền CM. Từ sáng sớm ngày 19/8/1945, cả Hà Nội vùng dậy giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội cổ vũ mạnh mẽ nhân dân cả nước khẩn trương tiến hành khởi nghĩa. Ngày 23/8/1945, cuộc khởi nghĩa ở Huế đã nổ ra với sức mạnh của lực lượng chính trị quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang. Khởi nghĩa thắng lợi ở Huế chấm dứt chế độ phong kiến hàng nghìn năm ở nước ta, cổ vũ nhân dâncác tỉnh Nam Trung bộ và cả Nam bộ vùng lên giành chính quyền. Sáng sớm ngày 25/8/1945, hàng chục vạn quần chúng Sài Gòn Chợ Lớn, các tỉnh lân cận khởi nghĩa giành chính quyền và đã thành công nhanh chóng không đổ máu. Cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 đã thành công trên cả nước trong vòng nửa tháng. Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), thay mặt chính phủ lâm thời, Chủ tịch HCM trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn đọc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào, với toàn thể thế giới: nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Ngày 2/9 trở thành ngày Quốc khánh của nước Việt Nam mới. Qua đó cho thấy, thắng lợi của CMT8 là thắng lợi của đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc của Đảng ta và Chủ tịch HCM. Đảng đã đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân mà xem xét giải quyết vấn đề dân tộc; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ dân tộc – giai cấp, dân tộc – dân chủ, dân tộc - quốc tế. Trong suốc 15 năm (1930 – 1945), Đảng ta ra sức xây dựng lực lượng về các mặt: mở rộng mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng lực lượng chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa CM, xây dựng lực lượng Cm … Đồng thời, Đảng ta hết sức chăm chú theo dõi sự phát triển của tình hình, diễn biến của chiến tranh thế giới lần thứ hai, dự đoán các khả năng, phân tích mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để có những quyết sách đúng đắn, kịp thời. Thời cơ “ngàn năm có một” của CMT8 được chọn chính xác, nổ ra đúng lúc. Đảng ta và Chú tịch HCM với linh khiếu chính trị đặc biệt đã khôn khéo lợi dụng chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, quân đồng minh chưa kịp nhảy vào Đông Dương để phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc. Song, nếu không có thực lực CM, không có sức mạnh nội lực, thì cũng không có được thành công của CMT8. Thắng lợi của CMT8 – 1945 là thắng lợi của khoa học và nghệ thuật phương pháp CMVN: dự đoán thời cơ, tạo thời cơ, nhạy bén, kịp thời chớp thời cơ phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân đồng minh vào Đông Dương; khéo léo kết hợp nhân tố dân tộc và nhân tố quốc tế tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh đổ đế quốc, phong kiến giành chính quyền toàn quốc.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan