Bài 1: Thực trạng thực hiện nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, Đảng bộ
cơ sở)
1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
Lãnh đạo công tác chính trị - tư tưởng:
Trong thời gian qua, đảng bộ ….đã học tập, quán triệt nghiêm túc Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc khóa XI, XII; Nghị quyết ĐHĐB Đảng bộ thành phố khóa XII, XIII Nghị
quyết Đại hội đại biểu thành phố và Nghị quyết Đại hội đảng viên đảng bộ; cử đảng viên tham
gia, tổ chức học tập, quán triệt đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành
(BCH) Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XI của Thành ủy và các văn bản pháp luật
của Nhà nước phù hợp với tình hình thực tế, tỷ lệ đạt 100% đảng viên trong đảng bộ
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng thường xuyên được quan tâm thực hiện, trong đó, chú
trọng tuyên truyền, phổ biến các ngày lễ, kỷ niệm, các sự kiện quan trọng của đất nước và của
thành phố, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng của dân tộc ta, giáo dục cho đội ngũ
đảng viên, cán bộ, công chúc và người lao động cơ quan không ngừng tu dưỡng, rèn luyện
phẩm chất đạo đức cách mạng, phong cách, tác phong làm việc. Qua đó, tình hình tư tưởng,
nhận thức của đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức và người lao động ổn định, yên tâm công
tác, luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Hàng năm đảng ủy đã xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với chủ đề năm, bám sát vào chỉ đạo của Đảng ủy cấp trên và
nhiệm vụ chính trị của đơn vị; tổ chức cho cán bộ, đảng viên trong cơ quan đăng ký (bằng văn
bản) làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, với những nội dung cụ thể, thiết thực, gắn với
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao (đăng ký đạt 100%); chi bộ quán triệt và thực
hiện nghiêm túc Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” (gọi tắt là Chỉ thị số 03-CT/TW);
tổ chức “học tập và làm theo” hàng năm bằng nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với tình hình
thực tế. Sau học tập, quán triệt, các chi bộ và đảng viên trong Đảng bộ Văn phòng đăng ký nội
dung “làm theo” sát với thực tiễn, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 “ Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” (gọi tắt là Nghị quyết Trung ương 4); Chi bộ và đoàn thể
cơ quan thực hiện “làm theo” đem lại nhiều kết quả tích cực; tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá,
khen thưởng tập thể, cá nhân tiêu biểu, điển hình trong “học tập và làm theo” hàng năm, báo
cáo về Đảng ủy cấp trên theo quy định. Qua đó, đã nâng cao về nhận thức, hành động, phong
cách, tác phong, lề lối làm việc, tinh thần trách nhiệm và tính gương mẫu của đội ngũ cán bộ,
đảng viên.
Bên cạnh đó, thường xuyên lãnh đạo các đoàn thể cơ quan tổ chức phổ biến, giáo dục cán
bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và những giá trị to lớn của việc làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để vận dụng vào nhiệm vụ được giao thể hiện ở phong
cách, tác phong, tinh thần trách nhiệm trong công tác. Chính vì vậy đảng bộ nhiều năm đạt
“Trong sạch, vững mạnh ”; 100% đảng viên trong chi bộ, đảng bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ.
1
Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ và đảng viên:
Đảng ủy luôn chú trọng việc lãnh đạo đảng bộ, đảng viên thực hiện đúng các quy định về
sinh hoạt Đảng, giữ vững nguyên tắc tập chung dân chủ, đảm bảo quyền được thông tin của
đảng viên, thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình. Theo Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI, Kế hoạch 12-KH/TU ngày 27/3/2012 của Thành ủy Cần Thơ, về việc thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Kết quả kiểm điểm đã
được Đảng ủy đánh giá thái độ kiểm điểm thẳng thắng trung thực, cầu thị, công tác chuẩn bị
báo cáo và kiểm điểm được thực hiện nghiêm túc. Qua kiểm điểm, cơ bản làm rõ ưu điểm,
khuyết điểm, trách nhiệm của tập thể cá nhân, các ý kiến tham gia góp y chân thành, tạo sự
đoàn kết thống nhất cao. Cũng thông qua công tác kiểm điểm, mỗi đồng chí đảng ủy đã đề ra
những giải pháp tích cực để khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm hạn chế. Đảng ủy họp
định kỳ 01 lần/tháng, họp đột xuất khi có yêu cầu. Các cuộc họp đều gắn kết công tác đảng với
nhiệm vụ chuyên môn của đơn vị. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
chuyên môn, trình độ lý luận chính trị và trình độ quản lý để có được đội ngũ cán bộ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ được giao, củng cố về mặt tổ chức, góp phần ổn định cơ quan.
Thực hiện sự chỉ đạo của tổ chức đảng cấp trên, đảng bộ luôn làm tốt công tác phát triển
đảng viên, xem đây là một trong những tiêu chuẩn xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, từ
khâu chọn đối tượng, phân công đảng viên giúp đỡ đến việc phân công giao việc thử thách đối
tượng. Trong công tác phát triển Đảng, luôn chú trọng đến chất lượng, không chạy theo số
lượng, bồi dưỡng kết nạp những cán bộ có đạo đức phẩm chất tốt, trung thành với sự nghiệp
cách mạng…có kiến thức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, là tấm gương tiêu biểu trong các
phong trào, nhất là những Đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Mỗi năm đảng bộ kết
nạp…… Đảng viên mới. Công tác giáo dục rèn luyện đảng viên luôn được quan tâm. Căn cứ
vào nhiệm vụ đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng, từ đó cụ thể hóa thành tiêu chuẩn
để rèn luyện đảng viên, làm cho mỗi đảng viên là người có giác ngộ chính trị, trung thành với
mục tiêu lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, mỗi
đảng viên trong chi bộ có đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn bó với quần chúng, gương mẫu
hoàn thành nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệ, Nghị quyết của Đảng và
chính sách pháp luật của Nhà nước; thường xuyên học tập nâng cao trình độ nhận thức và năng
lực công tác, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Thực hiện tốt hướng dẫn số 23-HD/BTCTW ngày 24/12/2008 của Ban tổ chức Trung ương
về thực hiện Quy định số 76-QĐ/TW ngày 15/6/2000 của Bộ chính trị về việc "Về việc đảng
viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên
hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú ". Đến nay
có 100% Đảng viên đã được giới thiệu về tham gia sinh hoạt Đảng tại nơi cư trú. Đồng thời
Cấp ủy thường xuyên kiểm tra đảng viên thực hiện mối liên hệ với địa phương.
Đội ngũ cán bộ của cơ quan phải thực sự là những người vừa có đức vừa có tài để đảm bảo
cho hoạt động chuyên môn được phát triển một cách hiệu quả và tính kế thừa. Trong điều kiện
hội nhập quốc tế ngày càng cao, đòi hỏi mỗi cán bộ không ngừng học tập vừa nâng cao trình
độ chuyên môn vừa có mặt bằng học vị tương ứng để tiếp cận công việc được dễ dàng. Chính
vì đặc điểm vai trò nêu trên, chi bộ đã hết sức quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ. Hàng năm
đảng ủy cùng lãnh đạo cơ quan nhận xét, đánh giá phân loại cán bộ, qua đó có kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng những cán bộ có đạo đức phẩm chất tốt để làm nòng cốt trong việc triển khai
thực hiện nhiệm vụ chính trị. Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ phải gắn với yêu
2
cầu thực tế và phù hợp với nội dung xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh. Hầu hết các
bác sĩ và điều dưỡng trong chi bộ đều được cử đi học chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận
chính trị.
Lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
Đảng bộ thường xuyên quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng là
một khâu quan trọng không thể thiếu trong hoạt động của mỗi tổ chức đảng và từng đảng viên.
Thời gian qua, đảng bộ đã thường xuyên kiểm tra việc đảng viên chấp hành nguyên tắc sinh
hoạt Đảng, thực hiện các chủ trương chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của
Nhà nước kể cả ở địa phương nơi cư trú, nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai phạm
khuyết điểm; đồng thời, phát huy những mặt tích cực, hạn chế tiêu cực trong đội ngũ đảng
viên.
Lãnh đạo thực hiện công tác chuyên môn:
Trong thực hiện vai trò lãnh đạo, đảng ủy luôn có sự phối hợp và tôn trọng vai trò quản lý
của chính quyền, đặc biệt là vai trò lãnh đạo của đồng chí đảng viên là bí thư đảng bộ vừa là
Thủ trưởng cơ quan. Những chủ trương, nghị quyết có liên quan đến các mặt công tác của cơ
quan đều được thảo luận thống nhất trong tập thể đảng ủy và chính quyền trước khi triển khai
thực hiện. Với cách làm này, tất cả các nghị quyết của đảng ủy về công tác nghiệp vụ, chuyên
môn đều được triển khai thực hiện và hoàn thành một cách xuất sắc.
Lãnh đạo công tác xây dựng chính quyền và các đoàn thể
Cấp ủy đã lãnh đạo, củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền, tiếp thu, giải quyết tốt các vấn
đề mà CBVC quan tâm. Đã thực hiện tốt Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ chính trị và Nghị định 71,
79/CP về việc thực hiện quy chế dân chủ cơ quan, thực hiện nghiêm túc và đồng bộ phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong tất cả các hoạt động trong cơ quan,
nhằm khơi dậy phong trào cách mạng và sự đóng góp tích cực của CBVC trong việc phát triển
cơ quan. Chi ủy thực hiện tốt quy chế làm việc của cấp ủy – chính quyền. Thực hiện tốt phòng
chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.
Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo tổ chức Công đoàn, tạo điều kiện cho Công đoàn thực hiện
tốt các chức năng vận động đoàn viên hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình, trên tinh
thần tự giác, tham gia các phong trào thi đua, tham gia xây dựng chủ trương chính sách và giải
quyết những công việc có liên quan đến quyền lợi của cán bộ công chức viên chức.
Thực hiện tốt chức năng giám sát đối với các hoạt động của chính quyền, bảo vệ quyền lợi
chính đáng của CBVC. Công đoàn phổ biến kịp thời các chủ trương chính sách mới có liên
quan đến CBVC và tham gia giải quyết chế độ chính sách liên quan đến cán bộ công chức viên
chức, kiểm tra việc thực hiện quy chế dân chủ, nội qui, quy chế ở cơ quan.
Đảng ủy luôn quan tâm lãnh đạo, định hướng để tổ chức Đoàn thanh niên có những hoạt
động thiết thực giáo dục tư tưởng và tạo sân chơi lành mạnh cho lực lượng đoàn viên thanh
niên. Đoàn viên thanh niên đã tích cực tham gia vào các phong trào thi đua, thực hiện các
phong trào và hoạt động thiết thực, sinh hoạt Đoàn, tham quan dã ngoại về nguồn, giáo dục
truyền thống.
3
*Nguyên nhân đạt được:
Được sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của đảng ủy cấp trên, giúp đỡ nhiệt tình của các cấp
chính quyền, đoàn thể.
Cấp uỷ đã có chương trình kế hoạch chỉ đạo cụ thể sát hợp với tình hình thực tế, đã làm tốt
công tác tuyên truyền vận động, khai thông tư tưởng, phát huy tinh thần đoàn kết của tập thể và
kế thừa những thành tựu đã đạt được nên cán bộ, đảng viên đã hoàn thành nhiệm vụ được giao,
đội ngũ Đảng viên có lập trường tư tưởng vững vàng, đoàn kết nhất trí, luôn có ý thức xây
dựng mối đoàn kết trong Đảng. Thực hiện lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công
việc của Đảng được giải quyết kịp thời, chủ động và có hiệu quả.
Đoàn kết nội bộ tốt, đời sống vật chất, tinh thần CBVC được duy trì ổn định trong điều
kiện tình hình kinh tế, xã hội trong và ngoài nước có nhiều diễn biến phức tạp.
Những hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua đảng bộ … vẫn còn những hạn chế
như sau:
- Một bộ phận nhỏ cán bộ, đảng viên chưa thật sự chưa theo kịp với trình độ ứng dụng ngày
càng cao của khoa học kỹ thuật và trang thiết bị hiện đại, còn ngại tiếp cận ứng dụng các kỹ
thuật mới, trình độ ngoại ngữ còn hạn chế ... Vẫn còn một số ít cán bộ viên chức chưa thật sự
tận tụy với công việc, chưa nêu cao tinh thần thái độ làm việc chưa thể hiện đầy đủ tính tiên
phong, gương mẫu, phong cách làm việc thiếu năng động, thiếu tính sáng tạo và tích cực, vì
vậy hiệu quả chưa cao
-Công tác tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và quần chúng tuy đã được quan tâm và duy
trì tốt nhưng đôi khi còn gặp khó khăn để giải quyết dứt điểm công việc. Thời gian sinh hoạt
đảng của đảng bộ đôi lúc chưa theo đúng quy định, nội dung sinh hoạt còn đơn giản, chú trọng
vào công tác chuyên môn nhiều; trình độ lý luận chính trị còn hạn chế,
- Một số ít đảng viên năng lực công tác chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế, chưa phát huy được
vai trò tiên phong của người đảng viên, sức thu hút, vận động quần chúng tác dụng thấp, tinh thần đấu
tranh xây dựng nội bộ chưa cao.
- Công tác kiểm tra, giám sát có làm nhưng không được liên tục.
* Nguyên nhân của những hạn chế:
- Cấp ủy đều là cán bộ kiêm nhiệm, còn nặng về công tác chuyên môn nên thời gian
dành cho công tác Đảng còn ít. Một số đảng viên chưa qua lớp đào tạo bồi dưỡng về công tác
Đảng và phải đảm nhiệm nhiều công việc chính quyền, nên chưa có điều kiện nghiên cứu, đầu
tư sâu.
- Ý thức rèn luyện, phấn đấu để vươn lên của bản thân một số ít đồng chí đảng viên
chưa liên tục, tự bằng lòng với bản thân; ý thức trách nhiệm với tập thể, với cái mới trong công
tác nghiệp vụ y tế luôn đòi hỏi phải biết vận dụng để tiếp thu, áp dụng những cái mới, nên khi
giải quyết những công việc phức tạp, một số đồng chí chưa xác định được đúng sai, sợ trách
nhiệm nên thiếu mạnh dạn trong việc thực hiện nhiệm vụ
4
- Công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng đôi lúc chưa nghiêm, vẫn còn tình trạng nể
nang, tình cảm, nhận thức của một số Đảng viên về vai trò, tính tiên phong, gương mẫu chưa
đầy đủ, sự giác ngộ về nhiệm vụ chính trị, chưa đáp ứng với yêu cầu của Đảng, năng lực
chuyên môn còn hạn chế.
Giải pháp
Một là, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác chính trị - tư tưởng ở đảng bộ
Hai là, củng cố, kiện toàn cấp uỷ, nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng ủy
Ba là, Tăng cường lãnh đạo công tác tổ chức và xây dựng đội đảng viên
Bốn là, Chú trọng nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ
Năm là, Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng phải tiến hành thường xuyên, kịp thời
Bài 3: Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ:
Ưu Điểm
- Về số lượng cán bộ cơ sở: Nhìn chung đội ngũ cán bộ công chức ở (cơ quan, đơn vi,
chi bộ, đảng bộ...) đáp ứng được yêu cầu về số lượng:
- Về chất lượng:
- Đa số cán bộ công chức ở ( cơ quan.....) có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên
định với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động.
- Hầu hết đội ngũ cán bộ, công chức có lối sống trong sạch, luôn trao dồi đạo đức cách
mạng, tận tụy với công việc, gương mẫu chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, của Nhà
nước và Điều lệ Đảng.
- Phần đông cán bộ có trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ ngày càng được nâng
cao, năng lực đáp ứng nhu cầu. Có ý thức tự học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và
chính trị để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
- Tác phong năng động, thích ứng nhanh, sáng tạo, phong cách công tác, sinh hoạt giản
dị, gần gũi đảng viên, quần chúng, tạo mối quan hệ tốt giữa đảng viên và quần chúng, nhân
dân, kỹ năng lãnh đạo, quản lý được phát triển ngày càng đa dạng, góp phần hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
- Cán bộ công chức ngày càng được trẻ hóa và đào tạo bài bản đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
Những hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm đội ngũ CBCC vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định, cụ thể:
Một là, một số CBCC do chuyển từ cơ chế cũ, được hình thành từ nhiều nguồn nên cơ
cấu chưa đồng bộ, trình độ, phẩm chất, năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Hai là, trình độ các mặt của một số cán bộ, công chức còn quá thấp so với yêu cầu,
nhiệm vụ, nên mặc dù đã qua đào tạo, bồi dưỡng nhưng do đầu vào không bảo đảm nên chất
5
lượng sau đào tạo, bồi dưỡng không cao, các lớp bồi dưỡng chủ yếu là ngắn hạn nên hiệu quả
thấp dẫn đến cán bộ không biết việc để làm hoặc không đủ khả năng để thực hiện nhiệm vụ.
Ba là, một số chức danh cán bộ, công chức tuy đã đạt tiêu chuẩn về trình độ, nhưng do
độ tuổi cao, năng lực hạn chế lại chưa đủ điều kiện nghỉ hưu, chưa có chính sách hỗ trợ hợp lí
nhằm động viên, khuyến khích các cán bộ trên nghỉ việc nên chưa thể bố trí, bổ nhiệm được
cán bộ trẻ để thay thế.
Bốn là, một số nơi vẫn còn tình trạng cán bộ đi học theo kiểu chạy bằng cấp, để đủ tiêu
chuẩn theo quy định; nhiều cán bộ dù đã đạt chuẩn nhưng chưa được đào tạo, bồi dưỡng có hệ
thống; một số cán bộ chưa chịu khó học tập, rèn luyện, tác phong công tác, nề nếp làm việc
chuyển biến chậm, cán bộ còn thiếu sáng tạo trong việc vận dụng đường lối, nghị quyết của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước để xây dựng nhiệm vụ chính trị của địa phương, nên
chưa có những giải pháp tốt, mang tính đột phá trong thực hiện nhiệm vụ.
Năm là, chất lượng CBCC còn thấp so với yêu cầu nhiệm vụ, một số nơi việc tuyên
truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối, chính sách của cấp trên xuống cơ sở không kịp
thời, đầy đủ; việc triển khai thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cơ sở còn chậm; giải quyết
công việc còn nhiều sai sót, dẫn đến việc khiếu nại, gửi đơn thư vượt cấp... Ngoài ra, vẫn còn
một bộ phận CBCC ý thức trách nhiệm với công việc không cao, làm việc theo kiểu cầm
chừng, trông chờ, ỷ lại vào cấp trên.
Sáu là, ở một số địa phương, một số CBCC hoạt động chưa thực sự dựa vào pháp luật,
đôi khi còn giải quyết công việc theo ý muốn chủ quan, việc ứng xử với nhân dân, với cộng
đồng còn nặng về tập quán, thói quen, tình cảm, một số CBC tư tưởng dao động, không dám
làm việc trong những thời điểm “nóng”,… một số ít cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm với
nhân dân, chưa thật sự tâm huyết với công việc, một số ít có biểu hiện suy thoái đạo đức, mất
đoàn kết, cơ hội, bè phái, cục bộ gia đình, dòng họ đã làm giảm lòng tin của cán bộ và nhân
dân.
Bảy là, một số CBCC tuy có trình độ nhưng năng lực các mặt còn hạn chế, đặc biệt là
năng lực, kỹ năng hành chính (thể hiện qua việc ban hành, tham mưu ban hành văn bản, xử lý
tình huống hành chính, thực thi công vụ…); một số làm việc thụ động, cầm chừng, trách nhiệm
không cao, không nắm rõ tình hình địa phương, tình hình công việc; một số ít có biểu hiện
thiếu trách nhiệm, chưa thật sự quan tâm đến cơ sở và kể cả công chức chuyên môn theo
ngành, lĩnh vực phụ trách.
Tám là, một số CBCC (kể cả người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa sử dụng hiệu quả
thời gian làm việc; việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật hành chính có phần chưa nghiêm; trách
nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu của công chức là thủ trưởng cơ quan, đơn vị chưa phát huy
đúng mức nên có phần ảnh hưởng đến phong cách, tác phong, lề lối làm việc của CBCC, ảnh
hưởng đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan, đơn vị.
* Nguyên nhân của những hạn chế
- Bộ máy chính quyền tuy được củng cố nhưng còn yếu về năng lực, trình độ không
đồng đều, chế độ chính sách đối với cán bộ cơ sở còn nhiều bất cập.
- Cán bộ lãnh đạo chưa chủ động xây dựng qui hoạch cán bộ và người kế nhiệm. Một
số cán bộ làm công tác tổ chức còn hạn chế về phẩm chất đạo đức, thiếu khách quan.
6
- Công tác kiểm tra, giám sát trong tổ chức cơ sở Đảng còn lỏng lẻo, nên một số cán
bộ lợi dụng chức quyền sách nhiễu quần chúng nhân dân.
- Trong đánh giá cán bộ chưa nghiêm túc, trong tự phê bình và phê bình tính chiến
đấu kém, còn tình trạng nể nang, né tránh sự thật.
- Trong xử lý cán bộ vi phạm chưa mạnh dạn, chưa kiên quyết.
Giải pháp
Trong thời gian tới chúng ta cần thực hiệm một số giải pháp cơ bản sau đây:
-Cần rà soát, tổng hợp đội ngũ CBCC không đạt tiêu chuẩn theo quy định, CBCC đạt
chuẩn về trình độ nhưng có độ tuổi cao, năng lực hạn chế chưa đủ điều kiện nghỉ hưu để xem
xét từng trường hợp cụ thể; đề xuất, vận dụng hợp lý chính sách khuyến khích đối với cán bộ
công chức không đạt tiêu chuẩn theo quy định, cán bộ có độ tuổi cao, năng lực hạn chế chưa đủ
điều kiện nghỉ hưu tự nguyện nghỉ hưu trước tuổi, nghỉ thôi việc;
- Đề nghị cấp có thẩm quyền quy định chế độ tiền lương và định mức biên chế đối với
CBCC phù hợp; đề xuất ban hành quy chế, chính sách thu hút cán bộ, sinh viên giỏi có trình độ
Đại học, trên Đại học về công tác; phối hợp thực hiện tốt việc bố trí, bổ nhiệm cán bộ; đặc biệt
quan tâm và thực hiện tốt công tác quy hoạch, bồi dưỡng và bổ nhiệm lãnh đạo các cơ quan,
đơn vị, tổ chức nhà nước
- Thực hiện việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu bầu cử các vị trí cấp trưởng của các
cơ quan, đơn vị, tổ chức nhà nước phải đảm bảo yêu cầu về trình độ (Đại học trở lên, ưu tiên
học chính quy), năng lực tốt và có trình bày đề án, kế hoạch hoặc giải pháp tốt phát triển
ngành, lĩnh vực liên quan (điều kiện đặc biệt có thể miễn);
- Đổi mới và nâng cao chất lượng đánh giá, phân loại CBCC; nâng cao vai trò, trách
nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong việc hướng dẫn, chỉ đạo, theo dõi, đánh giá đội ngũ
CBCC; xây dựng kế hoạch, quy hoạch, làm tốt công tác quy hoạch CBCC; kiên quyết xử lý đối
với CBCC trì trệ, không hoàn thành nhiệm vụ, kịp thời thay thế, luân chuyển và mạnh dạn đề
bạt công chức trẻ có năng lực, đủ sức đảm đương nhiệm vụ theo yêu cầu mới;
- Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC, đảm bảo công
tác đào tạo, bồi dưỡng phải xuất phát từ quy hoạch, gắn với sử dụng, đúng với ngạch và chức
danh cán bộ, chú trọng bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ và kinh nghiệm giải quyết
những tình huống theo từng chức danh CBCC cụ thể. Cử CBCC tham gia đào tạo;
- Đổi mới mạnh mẽ, một cách đồng bộ tác phong và tư duy làm việc của các tổ chức
Đảng, chính quyền, mặt trận và toàn thể nhân dân, đặc biệt là ở cơ sở; kiên quyết loại trừ tư
tưởng cục bộ, không ủng hộ cái mới, chậm chuyển biến, đổi mới phong cách lãnh đạo và nề
nếp làm việc trì trệ của đội ngũ CBCC
- Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về công vụ; mạnh dạn xử lý CBCC nhũng
nhiễu, hách dịch, gây khó khăn cho công dân.
Liên hệ về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
Kết quả đạt được:
7
Trong thời gian qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở (Cơ quan, chi bộ,
đảng bộ) đã có chuyển biến tích cực, bước đầu đạt được những kết quả quan trọng. Nhìn
chung, đội ngũ cán bộ, công chức (nhất là cán bộ chủ chốt) ở các cơ quan có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng động và sáng tạo; tích cực thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trình độ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ, công chức ngày
càng được nâng cao, thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế.
Cơ quan đã xây dựng, ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai
đoạn 2011-2015 và tổ chức triển khai thực hiện đúng yêu cầu về đối tượng và nội dung đào tạo,
bồi dưỡng;
Đã ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; các chế độ, chính sách
khuyến khích, hỗ trợ cán bộ, công chức học tập, nâng cao trình độ;... bảo đảm hoàn thành hai
mục tiêu: Đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng tiêu chuẩn quy định về ngạch công chức và để đáp
ứng yêu cầu công việc theo chức vụ lãnh đạo, quản lý và vị trí việc làm của cán bộ, công chức.
Đào tạo trình độ chuyên môn cho cán bộ đáp ứng theo tiêu chuẩn quy định đạt gần ….
%; đào tạo trình độ trung cấp chuyên môn trở lên cho …….%; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
lãnh đạo, quản lý, điều hành theo vị trí công việc đạt ……%;
Hạn chế
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số cán bộ, công chức vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu công việc.
Một số cấp ủy, chính quyền …….chưa coi trọng đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức vì vậy một số chỉ tiêu theo kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức theo quy định đạt thấp.
Cán bộ, công chức chủ yếu vừa học vừa làm nên còn để công việc chi phối quá trình
học tập, thời gian dành trọn vẹn cho việc học tập không nhiều. Có tình trạng cán bộ, công chức
không muốn đi học vì đi học có thể bị sắp xếp, điều chuyển vị trí công tác khác không “hấp
dẫn” bằng vị trí hiện tại.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng mặc dù đã có những cố gắng đổi mới nhưng vẫn còn tình
trạng chạy theo số lượng, chưa cử đúng đối tượng đào tạo, học chưa đúng chuyên ngành cần
đào tạo, bồi dưỡng vì thế chưa đáp ứng được nhu cầu công việc của cơ quan, tổ chức.
Việc đào tạo chưa gắn kết chặt chẽ với sử dụng, nhiều trường hợp được cử đi đào tạo
nhưng không bố trí công việc theo chuyên ngành đào tạo sau khi tốt nghiệp, gây nên tâm lý thờ
ơ với việc đào tạo.
Nội dung và chất lượng đào tạo chưa cao, chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng
chưa thật phù hợp với từng đối tượng cán bộ. Việc đào tạo, bồi dưỡng nhìn chung vẫn còn nặng
về lý thuyết, tính ứng dụng không cao, chưa chú trọng tính đặc thù riêng biệt của từng vị trí
việc làm của cán bộ, công chức, viên chức.
8
Nội dung và thời lượng khung cho các chương trình đào tạo, bồi dưỡng liên tục thay
đổi và cải cách nhưng hiệu quả vẫn chưa cao, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn, chưa đáp
ứng yêu cầu từng vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức.
Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức chưa được thực hiê n đồng bộ, mới
ê
chỉ đào tạo về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ mà chưa chú ý bồi dưỡng về kỹ năng
quản lý điều hành, tổ chức thực hiện, nhất là xử lý những tình huống trong thực tiễn.
Thêm vào đó là chế độ chính sách cho cán bộ, công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng
tuy đã được điều chỉnh, bổ sung, nâng cao hơn so với trước, song còn thấp và chưa phù hợp.
Giải pháp
Theo tinh thần đó, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức theo hướng:
- Tiếp tục hoàn thiện công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai đoạn 2010-2020, xem đây là căn cứ để có kế hoạch, đầu tư
ngân sách nhà nước cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh
đạo, quản lý.
- Rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức và công tác đào tạo, bồi dưỡng trong thời
gian qua, qua đó, xác định nhu cầu đào tạo, xây dựng kế hoạch đào tạo cụ thể theo từng năm và
cả nhiệm kỳ. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ và nhu cầu thực tiễn của cơ quan cấp ủy xây dựng
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cụ thể, phù hợp với từng chức danh, ngạch, bậc; quan tâm
đào tạo cán bộ trẻ, cán bộ nữ…
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải gắn với việc bố trí, sử dụng; tránh tình trạng đào tạo
không đúng chuyên ngành, chuyên môn nghiệp vụ. Xác định rõ trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ.
- Tăng cường quản lý việc cử cán bộ đi học, tránh lãng phí trong đào tạo, bồi dưỡng.
Cần áp dụng phương pháp cạnh tranh lành mạnh trong đánh giá, bố trí, sắp xếp, đãi ngộ, nâng
ngạch, bổ nhiệm cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, tạo động lực thúc đẩy sự
phấn đấu nâng cao năng lực của công chức, khắc phục được tình trạng trì trệ trong công việc.
Qua đó, tạo ra nhu cầu thực sự về đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức.
- Xây dựng cơ chế, chính sách để tuyển chọn đội ngũ giảng dạy, báo cáo viên chất
lượng cao; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc dạy và học. Xây dựng đội ngũ
giảng viên có kiến thức sâu, rộng, có nhiều kinh nghiệm trong thực tế; cung cấp cho người học
những thông tin, kiến thức thiết thực; chú trọng mời giảng viên thỉnh giảng là lãnh đạo các cơ
quan, đơn vị công tác trong ngành, trong địa phương có kinh nghiệm thực tiễn để truyền đạt
kiến thức, hướng dẫn kỹ năng theo từng vị trí việc làm.
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức những kiến thức về lý
luận chính trị, về lãnh đạo, quản lý, về khoa học xã hội, nhân văn và những kiến thức chuyên
môn phù hợp với công việc được giao.
- Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn nghiệp vụ công
chức, viên chức và tập trung theo hướng chuyên nghiệp, chuyên sâu; mỗi chức danh, mỗi vị trí
việc làm được bồi dưỡng những kiến thức và kỹ năng phù hợp, thiết thực với công việc đang
đảm nhận, các chương trình cụ thể như: kỹ năng dành cho công chức, viên chức lãnh đạo quản
9
lý; nghiệp vụ cho công chức, viên chức làm công tác nhân sự, cải cách hành chính, văn thư lưu
trữ, thực hành văn bản; ứng dụng công nghệ thông tin; xử lý tình huống...
- Tiếp tục đổi mới và áp dụng các phương pháp truyền đạt kiến thức theo từng đối
tượng đào tạo, bồi dưỡng. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng kết hợp giữa lý thuyết và thực hành,
chia tổ nhóm thảo luận, làm bài tập tình huống; minh họa quy trình, thao tác thực thi nhiệm vụ
bằng hình ảnh trình chiếu, hướng dẫn nghiệp vụ theo hình thức “cầm tay, chỉ việc”.
Bài 5: Thực trạng công tác tư tưởng của tổ chức đảng ở cơ sở
Ưu điểm:
Cấp ủy Đảng và các đảng viên đã nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng của công
tác tư tưởng; Công tác tư tưởng ở các chi, Đảng bộ được tiến thành thường xuyên, liên tục,
đồng bộ
Nội dung của công tác tư tưởng gắn với nhiệm vụ chính trị của chi, Đảng bộ, thể hiện
được các nguyên tắc của công tác tư tưởng: tính Đảng, tính khoa học, tính lý luận gắn liền với
thực tiễn
Về phương pháp, hình thức tiến hành công tác tư tưởng ở các chi, đảng bộ phù hợp,
đa dạng, phong phú; Công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng đã
được các chi, đảng bộ quan tâm thực hiện và đạt nhiều kết quả ấn tượng
Công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động đã được quan tâm thực hiện thường xuyên,
liên tục, kịp thời thông tin những vấn đề thời sự trong nước và quốc tế, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước đến đông đảo người dân
CTTT ở các chi, đảng bộ đã chú trọng công tác nêu gương tốt, điển hình tiên tiến trên
địa bàn; Công tác nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội và định hướng tư tưởng, dư luận
xã hội ở cơ sở ngày càng đi vào chiều sâu và mang lại hiệu quả thiết thực
Công tác đấu tranh tư tưởng, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, tin đồn và tài
liệu xấu lan truyền, phát tán tại cơ sở được chú trọng
Hạn chế:
Công tác chính trị, tư tưởng chưa được coi như công tác trọng tâm của Đảng ủy và cấp
ủy các chi bộ, nhiều khi chưa được thực hiện chủ động, kịp thời, các hình thức sinh hoạt chính
trị tư tưởng còn chưa thật phong phú; chất lượng, hiệu quả một số hoạt động chính trị, tư tưởng
chưa cao…
Việc nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm lý của cán bộ, đảng viên còn chưa được như yêu
cầu của công tác. Cấp ủy chưa có các quyết sách kịp thời để ổn định tư tưởng của cán bộ, viên
chức khi triển khai những những chủ trương lớn của đảng, nhà nước…
Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được triển khai
nhưng chủ yếu là tuyên tuyền, học tập, việc “làm theo” còn khá hạn chế;
Một bộ phận cán bộ, đảng viên tư tưởng dao động, không yên tâm công tác, ý thức
cống hiến, hoàn thành trách nhiệm, chấp hành kỷ luật của một bộ phận cán bộ, đảng viên có
chiều hướng đi xuống
Nguyên nhân
10
Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước có nhiều thay đổi đã tác động theo cả
chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực đến nhận thức, tư tưởng và hành động của cán bộ, .
Đảng ủy, các chi bộ, tổ chức chính trị xã hội chưa kịp thời đổi mới công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng trong Đảng bộ, trong quần chúng và sinh viên; nhiều đơn vị còn quá chú
trọng nhiệm vụ chuyên môn mà chưa thực sự quan tâm sâu sát đến công tác chính trị, tư tưởng
và công tác phát triển Đảng.
Tư tưởng, chính trị, ý thức kỷ luật của một bộ phận đảng viên, cán bộ, viên chức, còn
có biểu hiện mất đoàn kết, “bằng mặt không bằng lòng” ở một số đơn vị.
Giải pháp
- Nâng cao nhận thức của chi ủy, lãnh đạo cơ quan và đảng viên về công tác tư tưởng
- Tiếp tục đổi mới nội dung về công tác chính trị, tư tưởngở chi bộ
- Đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác tư tưởng ở chi bộ
- Tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên trong chi bộ
- Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Liên hệ thực tiễn về công tác giáo dục chính trị tư tưởng của tổ chức cơ sở đảng
Ưu điểm
Đảng ủy luôn tăng cường và đổi mới công tác xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch
vững mạnh về chính trị, tư tưởng. Toàn Đảng bộ đã tổ chức triển khai học tập quán triệt đầy đủ,
kịp thời các kế hoạch, chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
XII), của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Cần Thơ (khóa XIII) và Đảng ủy quận (khóa ...)
gắn với xây dựng kế hoạch thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước phù hợp với đặc điểm tình hình Đảng bộ, bên cạnh đó tổ chức triển khai tuyên
truyền Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kỷ niệm 45 năm thực hiện Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nội dung tuyên truyền trong cuốn Thông tin Tuyên giáo
Thành ủy hàng tháng. Tỉ lệ cán bộ đảng viên, viên chức tham dự học tập, nghiên cứu các nghị
quyết của Đảng đạt 100%.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng có nhiều đổi mới theo hướng sát với nhiệm vụ
chính trị của cơ quan, đơn vị. Đảng ủy, chi ủy các chi bộ thường xuyên lãnh đạo tư tưởng, tăng
cường công tác tuyên truyền các hoạt động của Đảng, Nhà nước và của thành phố gắn với
tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, phát động phong trào hành động cách mạng cụ thể, góp
phần giáo dục truyền thống yêu nước, nâng cao nhận thức, đoàn kết thống nhất trong cán bộ,
đảng viên, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ
được giao
Nhiệm kỳ qua, công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng bộ đạt được nhiều kết quả
tích cực, nhất là sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI
về công tác xây dựng Đảng. Qua đó, nhận thức chính trị tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức nhà trường luôn ổn định, an tâm công tác, khắc phục mọi khó khăn,
nâng cao tinh thần trách nhiệm, chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và sự quản lý, điều hành của chính
quyền
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: Đảng
bộ quán triệt và tổ chức thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị và kế
hoạch hàng năm của Thành ủy Cần Thơ và quận ủy về học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh với nhiều hình thức. Sau triển khai học tập, căn cứ chức năng nhiệm vụ được giao
11
Ban Thường vụ Đảng ủy chỉ đạo các chi ủy chi bộ và đảng viên viết bản đăng ký thực hiện
việc “làm theo” tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phù hợp với công tác mà đảng viên đang
thực hiện, gắn với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về công tác xây dựng Đảng; định kỳ hàng
tháng, hàng quý, sáu tháng, cuối năm tổ chức kiểm điểm đánh giá rút kinh nghiệm
Các hình thức đã đăng ký và “làm theo” gắn với phong trào thi đua thực hiện hiện
nhiệm vụ chính trị thời gian qua như: tham gia kể chuyện về Bác Hồ do các cơ quan, đơn vị
thành phố tổ chức; phong trào xây dựng cơ quan văn hóa, văn minh, an toàn về an ninh trật tự,
thực hành tiết kiệm, chống tiêu pha, lãng phí; phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, quyên góp
chăm lo cho người nghèo, đồng bào bị thiên tai lũ lụt, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn vùng sâu
vùng xa, hướng về Hoàng Sa, Trường Sa.
Từ việc đăng ký “làm theo” tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thời gian qua cho thấy
phương thức quản lý điều hành và thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý,
đảng viên, công chức, viên chức có những chuyển biến tích cực, chủ động, sáng tạo, nâng cao
ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống góp phần tăng cường sự đoàn kết thống
nhất và sức chiến đấu của Đảng bộ hiện nay.
Những tồn tại, hạn chế :
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được đó, công tác giáo dục chính trị tư
tưởng ở Đảng bộ ............. vẫn còn những hạn chế cần khắc phục đó là :
- Do tính chất công việc của đơn vị mang tính đặc thù, nên việc triển khai Nghị quyết
của Đảng cho đảng viên trong Đảng bộ có lúc chưa kịp thời.
- Trong từng lúc, từng nơi có một số ít đảng viên còn lơi lỏng công tác tư tưởng và
giáo dục chính trị tư tưởng, mặt khác một số ít đảng viên nhận thức và tính tự giác chưa cao,
tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình còn yếu, từ đó tạo ra dư luận không tốt, chưa thực
sự làm gương cho quần chúng.
- Hiện tượng bằng mặt không bằng lòng, tính ích kỷ, hẹp hòi, khích bác lẫn nhau vẫn
còn, nếu không khéo ngăn chặn kịp thời sẽ dẫn đến mất đoàn kết nội bộ.
- Do trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số đảng viên còn chưa ngang tầm với
nhiệm vụ, tính chủ động sáng tạo trong công việc còn nhiều hạn chế, tư tưởng ỷ lại, trông chờ
vào cấp trên vẫn còn, dẫn đến làm ảnh hưởng đến công việc chung của đơn vị.
* Nguyên nhân :
Trình độ Đảng viên còn thấp có mặt chưa đáp ứng kịp tình hình, năng lực của cán bộ,
Đảng viên trong đơn vị không đồng đều, ý thức học tập của cán bộ, đảng viên chưa cao.
Trong công tác học tập chính trị tư tưởng một số ít cán bộ, đảng viên thiếu tập trung, dẫn
đến nắm bắt đường lối, chủ trương chưa kịp thời từ đó kết quả công tác chuyên môn chưa cao, còn
tư tưởng bình quân chủ nghĩa, công việc được giao chưa thật sự tập trung dẫn đến hoàn thành
nhiệm vụ kém hiệu quả.
Giải pháp:
Một là, Không ngừng nâng cao tư tưởng cho cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ phải
giữ vững lập trường của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm phương châm và kim chỉ nam cho hành động của Đảng bộ, chấp hành nghiêm chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong việc giáo dục chính trị
12
tư tưởng và pháp luật cho cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ sẽ áp dụng nhiều hình thức như: Tự
nghiên cứu tìm hiểu hoặc thảo luận chuyên đề… thường xuyên đổi mới phương pháp tổ chức,
truyền đạt và làm phong phú nội dung, phấn đấu đạt chất lượng cao, hiệu quả thiết thực về
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, khắc phục bệnh thành tích trong công tác này.
Hai là, Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng cho cán
bộ Đảng viên trong đơn vị nhằm tạo chuyển biến và nâng cao nhận thức chính trị, luôn kiên
định lập trường cách mạng, tuyệt đối trung thành và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
sự thành công của công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảm bảo mọi cán bộ Đảng
viên điều có ý thức chấp hành tốt kỷ luật, không có lời nói và việc làm đi ngược lại với đường
lối của Đảng.
Ba là, Đảng ủy cần phải nhận rõ được công tác chính trị tư tưởng có vị trí đặc biệt
quan trọng. Vì vậy đổi mới nâng cao chất lượng công tác tư tưởng hiện nay của Đảng bộ đã trở
thành nhiệm vụ cấp bách nhằm phục vụ tốt yêu cầu quán triệt các Nghị quyết của Đảng, động
viên toàn đảng viên nêu cao ý chí tự lực tự cường, phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách đẩy
mạnh công cuộc đổi mới vì mục tiêu Chủ nghĩa xã hội thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao hơn nữa lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng vào thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội làm thất bại âm mưu và thủ đoạn “Diễn biến hòa
bình” của kẻ thù.
Bốn là, Trong thời gian tới để làm tốt công tác chính trị, lãnh đạo tư tưởng đạt hiệu
quả cao thì cấp ủy, lãnh đạo đơn vị cần phát huy sức mạnh của cán bộ, đảng viên, đoàn thể
quần chúng như Công đoàn, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Ban Nữ công để họ nêu cao
vai trò của các tổ chức này trong công tác chính trị tư tưởng mà thực tế đã có không ít vướng
mắc về tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và các đoàn thể song đã được giải quyết nhanh chóng,
hiệu quả cao.
Năm là, Kiện toàn tổ chức nâng cao chất lượng hoạt động của Đảng bộ, của đơn vị
đảm bảo thật sự trong sạch vững mạnh chính quy và xây dựng củng cố khối đoàn kết thống
nhất trong đơn vị trên cơ sở mở rộng dân chủ thực hiện tốt phê và tự phê bình, thường xuyên
đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực nhằm nâng cao uy tín, sức chiến đấu và
vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng và từng đảng viên. Để làm tốt được những vấn đề trên
cần tập trung xây dựng Đảng bộ thật sự trong sạch vững mạnh trên cả ba mặt: Chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
Bài 6: Liên hệ công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần ở địa phương
Những kết quả đạt được:
Đảng bộ luôn chăm lo bố trí cán bộ, bảo đảm các điều kiện hoạt động cho Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội đã tăng cường các biện pháp nắm bắt tình hình tư tưởng, quan tâm hỗ trợ
nhân dân, đoàn viên, hội viên về nghề nghiệp, việc làm, học tập,...; chăm lo đời sống vật chất
và tinh thần của người nghèo, đối tượng chính sách;
Đảng uỷ Chỉ đạo triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời các cơ chế, chính sách đảm bảo
an sinh xã hội và các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước như chính sách về xuất khẩu lao động và dạy nghề, về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, về
trợ giúp các đối tượng Bảo trợ xã hội, về Chương trình mục tiêu giảm nghèo và xóa nhà tạm
cho hộ nghèo, về cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở
13
Phát động nhiều phong trào quần chúng rộng lớn gắn với nhiệm vụ chính trị, nhu cầu,
lợi ích của nhân dân, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, như cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Ngày vì người nghèo” của Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các phong trào “Thi đua lao động giỏi”, “Phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật” trong công đoàn, công nhân, viên chức, lao động; các phong
trào “Thanh niên tình nguyện”, “Xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc”,
“Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” trong thanh niên; các phong trào “Phụ nữ tích
cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Phụ nữ giúp
nhau phát triển kinh tế gia đình” trong phụ nữ; các phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh
doanh giỏi”, “Nông dân thi đua xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn” của Hội Nông dân Việt
Nam; các phong trào “Cựu chiến binh gương mẫu”, “Cựu chiến binh giúp nhau xóa đói, giảm
nghèo” của Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Hiện nay, các địa phương, các tầng lớp nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội đang tích cực tham gia các phong
trào “Cả nước chung tay”, “Dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới”.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội giữ vai trò nòng cốt trong
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Đã
có nhiều hình thức hoạt động nhằm mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
tham gia giám sát, phản biện, xây dựng Đảng, chính quyền; góp phần bảo đảm quốc phòng - an
ninh; tham gia hòa giải, giải quyết mâu thuẫn trong xã hội, trong nội bộ nhân dân, góp phần ổn
định chính trị ở cơ sở. Các hình thức hoạt động, như “Ngày hội đại đoàn kết toàn dân”; giám
sát cộng đồng, thăm dò tín nhiệm cán bộ chủ chốt ở cơ sở;… đã thực sự có hiệu quả và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng bộ tăng cường lãnh đạo lực lượng công an, quân đội đại phương thực hiện tốt
công tác dân vận. Tuyên tuyền, vận động nhân dân tham gia các phong trào làm tốt công tác
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; đi sâu cơ sở (“ba cùng” với dân), giúp dân phát triển
kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, cảnh giác, đấu tranh với âm mưu thâm độc của kẻ thù, đấu
tranh phòng, chống tội phạm, các tệ nạn xã hội; tham gia xây dựng các tổ chức trong hệ thống
chính trị ở cơ sở vững mạnh, xây dựng thế trận lòng dân, an ninh nhân dân; là lực lượng nòng
cốt trong phòng, chống và giải quyết các hậu quả của thiên tai, bão lụt,
Sự lãnh đạo của cấp ủy đối với tổ chức hội quần chúng được tăng cường; cùng với đó,
công tác quản lý nhà nước, hệ thống văn bản pháp luật về hội tiếp tục được hoàn thiện. Các hội
quần chúng phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về hình thức tổ chức, hoạt động, từng bước
gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, của đất nước; góp phần tích cực
vào việc xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật
tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, Đảng ủy luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tranh thủ các nguồn
vốn viện trợ, sự ủng hộ, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, các tổ chức từ thiện vào việc đầu tư
cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là những người có điều
kiện khó khăn, các đối tượng chính sách….
Những hạn chế, yếu kém
- Chậm đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, lúng túng trong xác định chức
năng, nhiệm vụ cũng như việc xây dựng các tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
quần chúng trong công nhân, người lao động,
- Tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể chính trị - xã hội ở
cơ sở yếu kém, giảm sút vai trò lãnh đạo, không sát dân, không nắm được diễn biến tư tưởng,
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, không đủ sức tuyên truyền, vận động nhân dân cũng như
14
giải quyết những bức xúc của nhân dân, để xảy ra tình trạng nhân dân tự phát đấu tranh chống
tiêu cực, khiếu kiện gay gắt, phức tạp, khó giải quyết,
- Công tác dân vận bị coi nhẹ, còn nhiều hạn chế, yếu kém, ỷ lại vào bộ máy hành chính
và các giải pháp hành chính, coi nhẹ giải pháp tuyên truyền, vận động nhân dân; có lúc, có nơi
còn “khoán trắng” cho khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể chính trị - xã hội. Hoặc chỉ
mới chú trọng, quan tâm đáp ứng các yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân mà chưa chú ý phát
huy vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của nhân dân, để xảy ra tâm lý trông chờ, ỷ lại
- Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội còn hành chính hóa, chậm được khắc phục, đổi mới. Công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, xây dựng bộ máy, bố trí cán bộ làm tham mưu về công tác dân vận; cán bộ trực
tiếp làm công tác vận động nhân dân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị
- xã hội chưa được quan tâm thỏa đáng
Giải pháp
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm công tác dân vận cho đội ngũ cán
bộ, công chức của chính quyền đại phương
Hai là, tiếp tục đổi mới nội dung công tác dân vận của chính quyền địa phương theo
hướng chủ động, tích cực, kịp thời trong việc triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết
của các cấp ủy đảng vào thực tiễn
Ba là, tiếp tục đổi mới phương thức công tác dân vận của chính quyền,bám sát địa bàn,
bám dân.
Bốn là, tập trung phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên; sự phối hợp của các ban, ngành,
đoàn thể của tỉnh đối với chính quyền đại phương trong công tác dân vận.
Sáu là, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đổi mới và nâng cao chất
lượng công tác tiếp dân, công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại tố cáo của công dân.
Bảy là, coi trọng công tác kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm, xây dựng mô hình và
biểu dương gương người tốt, việc tốt đối với công tác dân vận của chính quyền các huyện.
Bài 7: Thực trạng công tác kiểm tra giám sát?
Ưu điểm:
Đảng bộ đã xây dựng chương trình kế hoạch kiểm tra, giám sát toàn khóa, hàng năm
Công tác kiềm tra, giám sát được tiến hành một cách thường xuyên, đồng bộ có nền
nếp,
Cấp uỷ nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác kiểm tra giám sát đảng viên và tổ
chức đảng
Công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, UBKT đã có những định hướng cụ thể, tập
trung, sát thực, có hiệu quả về những vấn đề nhạy cảm, dễ nảy sinh khuyết điểm, tiêu cực, cảnh
báo, ngăn ngừa vi phạm, giảm thiểu việc xử lý kỷ luật; đồng thời nâng cao ý thức tự giác, ý
thức chấp hành kỷ luật Đảng trong toàn Đảng bộ.
15
Cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát. Việc xử
lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên được các cấp uỷ đảng chỉ đạo thực hiện đúng phương
châm, phương hướng, nguyên tắc, thủ tục, thẩm quyền thi hành kỷ luật trong Đảng, đảm bảo
tính công minh, chính xác, kịp thời.
Hạn chế:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng ở
Đảng bộ còn tồn tại một số hạn chế, đó là: Đôi khi chưa xây dựng chương trình, kế hoạch
kiểm tra, giám sát kịp thời theo quy định của Điều lệ Đảng. Cấp ủy, UBKT cơ sở mới thực hiện
nhiệm vụ giám sát thường xuyên mà chưa xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ giám sát
chuyên đề. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát chưa cao, hồ sơ thiết lập và lưu trữ
chưa chặt chẽ, đầy đủ theo quy định. Việc xem xét, xử lý vi phạm kỷ luật đảng sau kiểm tra có
vụ việc chưa thật sự nghiêm túc, còn kéo dài, chưa đồng bộ giữa kỷ luật Đảng với kỷ luật chính
quyền, đoàn thể… Trong thi hành kỷ luật còn có vụ kỷ luật chưa đảm bảo phương hướng,
phương châm, dẫn đến áp dụng hình thức kỷ luật còn chưa tương xứng với lỗi phạm; việc thực
hiện quy trình thi hành kỷ luật còn lúng túng, thậm chí có nơi thực hiện chưa đúng quy định.
Nguyên nhân hạn chế là: Việc chỉ đạo, quán triệt các nghị quyết, quyết định, quy định,
hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, UBKT Trung ương về
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng của cấp ủy còn chưa tốt.
Cấp ủy còn chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng, ý nghĩa, tác dụng
của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng nên ý thức, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ
đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát còn hạn chế.
UBKT còn thiếu chủ động trong tham mưu, đề xuất với cấp ủy tổ chức thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát và trong thi hành kỷ luật, còn tư tưởng ngại va chạm, nể nang, hữu
khuynh, né tránh.
Cán bộ UBKT chủ yếu là kiêm nhiệm nên có khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ; một
số cán bộ kiểm tra trình độ, năng lực, phương pháp công tác còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ.
Giải pháp
Một là, nâng cao nhận thức của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra, trước hết là người đứng đầu
cấp uỷ về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của đảng để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ,
quyền hạn của tổ chức đảng, chức trách nhiệm vụ của đảng viên và chấp hành nghiêm chỉnh
khi được kiểm tra, giám sát.
Hai là, xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước phục vụ
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
Ba là, đổi mới, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đảng của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra và của chi bộ.
Bốn là, kiện toàn uỷ ban kiểm tra, tổ chức bộ máy cơ quan uỷ ban kiểm tra ngang tầm
với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; tăng cường cán bộ kiểm tra các cấp đủ số
lượng, bảo đảm chất lượng, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc để đủ khả năng,
điều kiện hoàn thành nhiệm vụ được giao
16
17
- Xem thêm -