LỊCH SỬ ĐẢNG
Bài 3
ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN ĐẢNG CẦM QUYỀN
Câu 1 : Khái niệm Đảng cộng sản cầm quyền?
Trả lời :
Khái niệm : Đảng cộng sản cầm quyền là khái niệm để chỉ một giai đoạn mới, một
thời kỳ mới của cách mạng. Đó là thời kỳ mà CNXH không còn đơn thuần chỉ là một mục
đích, cương lĩnh, học thuyết nữa, mà đã trở thành công việc phấn đấu hàng ngày của
Đảng. Đó là thời kỳ mà nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, chủ yếu và trọng tâm là tổ chức
xây dựng đất nước; nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược quan trọng.
Câu 2 : Đặc điểm, nội dung, phương thức của Đảng cộng sản cầm quyền?
Trả lời :
Khái niệm : Đảng cộng sản cầm quyền là khái niệm để chỉ một giai đoạn mới, một
thời kỳ mới của cách mạng. Đó là thời kỳ mà CNXH không còn đơn thuần chỉ là một mục
đích, cương lĩnh, học thuyết nữa, mà đã trở thành công việc phấn đấu hàng ngày của
Đảng. Đó là thời kỳ mà nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, chủ yếu và trọng tâm là tổ chức
xây dựng đất nước; nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược quan trọng.
* Đặc điểm của ĐCS cầm quyền: Trong điều kiện đảng cầm quyền, có nhiều đặc
điểm chi phối hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, toàn xã hội và
trong công tác xây dựng nội bộ Đảng. Có 04 đặc điểm cơ bản sau:
1.Sự thay đổi căn bản nhiệm vụ chính trị của Đảng : Sự nghiệp cách mạng của
giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản bao gồm hai giai đoạn chủ yếu:
- Giai đoạn thứ nhất: Đảng giáo dục, thuyết phục, tuyên truyền, giác ngộ quần
chúng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, từ đó vận động quần chúng, tổ chức, tập
hợp lực lượng cách mạng, thành lập một mặt trận rộng rãi dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến
hành đấu tranh dưới hình thức lúc bí mật, lúc công khai, kết hợp đấu tranh chính trị với
đấu tranh quân sự vũ trang, tiến tới lật đổ chế độ cũ, giải phóng dân tộc, giành chính
quyền về tay nhân dân.
- Giai đoạn thứ hai: Giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã có chính quyền
của mình, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản. Có chính quyền, giai cấp công nhân lao động cùng các tầng lớp xã hội tiến bộ từ địa
vị nô lệ, bị thống trị lên giữ vai trò làm chủ đất nước. Do địa vị thay đổi, nhiệm vụ của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các tầng lớp xã hội tiến bộ khác dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản cũng thay đổi căn bản so với trước khi có chính quyền.
Có chính quyền mới là tiền đề để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản văn minh. Nhiệm vụ cơ bản lâu dài, khó khăn phức tạp ở việc tổ chức,
quản lý xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực kinh tế. Nhiệm vụ tổ chức quản lý đất nước là
một nhiệm vụ có nội dung đa dạng, phức tạp, có phạm vi rộng lớn và tính chất khó khăn
nhiều so với nhiệm vụ đấu tranh giành chính quyền
Nhiệm vụ đầu tiên của dảng kinh giành chính quyền là phải tập trung lực lượng để
ổn định tình hình xã hội. Sau khi ổn định tình hình xã hội, nhiệm vụ tổ chức quản lý đất
nước trở thành nhiệm vụ trung tâm,nhiệm vụ chủ yếu của Đảng. Tổ chức quản lý đất nước
là một khoa học và là một nghệ thuật đòi hỏi Đảng phải kiên trì, không ngừng năng cao
năng lực lãnh đạo và trí tuệ, thường xuyên tổng kết kinh nghiệm.
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội với
cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước từ một nước thuộc địa nữa phong kiến ,
nghèo nàn, phải trải quan nhiều năm chiến tranh tàn phá nặng nề, Hòa cảnh khó khăn,
phức tạp đòi hỏi đảng và nhân dân ta phải đoàn kết nhất trí một lòng, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đi theo con đường mà đảng và HCM đã lựa chọn.
2.Đảng cầm quyền trong điều kiện đã có nhà nước XHCN: Sau khi lãnh đạo nhân
dân giành chính quyền, Đảng tổ chức thiết lập nhà nước mới – nhà nước xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do dân và vì dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là một tất yếu lịch sử
khi giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trở thành lực lượng lãnh đạo
xã hội. Nhà nước đó là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân và là công cụ của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình đồng thời, cũng là
công cụ sắc bén để Đảng cộng sản thực hiện sự lãnh đạo đối với toàn bộ xã hội.
Sự ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa là đặc điểm cực kỳ quan trọng. Khi đã có nhà
nước, trừ những vấn đề về xây dựng nội bộ Đảng. Thông qua các hoạt động của nhà nước,
các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng được cụ thể hóa thành luật pháp và tổ
chức thực hiện. Đồng thời, chính sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là yếu tố quan
trọng đảm bảo cho nhà nước thậtq sự là nhà nước của nhân dân, do dân và vì dân, là công
cụ sắc bén của nhân dân. Do vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng không được đối lập,
mà phải thống nhất với việc nâng cao năng lực quản lý và điều hành đất nước của nhà
nước.
Nhà nước có vai trò rất lớn trong quá trinh đi lên chủ nghĩa xã hội theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Nhà nước cần tập trung làm tốt các chức năng của
mình. Từ việc nhà nước phải định hướng đúng cho sự phát triển của xã hội thông qua các
chiến lược, kế hoạch, quy hoạch và cơ chế, chính sách phải tôn trọng các nguyên tắc thị
trường; đến việc nhà nước phải tạo môi trường pháp lý và cơ chế chính sách để phát huy
có hiệu quả các nguồn lực của xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là một bước
ngoặt quan trọng, mở ra những thuận lợi rất cơ bản cho đảng phát huy mạnh mẽ vai trò
lãnh đạo của mình. Tuy nhiên trở thành đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo đất nước,
đảng dễ rơi vào chủ quan duy ý chí, phạm sai lầm về đường lối.
3.Sự thay đổi phương thức lãnh đạo của Đảng: Sau khi có chính quyền, nhiệm vụ
chính trị của Đảng thay đổi khác trước và với sự xuất hiện của nhà nước xã hội chủ nghĩa
trong hệ thống chính trị, nhiều phương pháp lãnh đạo của Đảng ở giai đoạn trước về cơ
bản không còn thích hợp. Có chính quyền, nhiệm vụ trung tâm của Đảng là lãnh đạo công
cuộc xây dựng đất nước trước hết là trên lĩnh vực kinh tế. Do đó, trong giai đoạn mới
phương pháp lãnh đạo của Đảng cần có sự thay đổi cho phù hợp. V.I. Lênin đã chỉ rõ:
“Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết những nhiệm vụ thuộc loại khác,
thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua”.
Trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo đất nước xây dựng chủ nghĩa xã
hội với cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, đứng trước muôn vàn khó khăn,
phức tạp buộc Đảng ta phải sáng tạo, tìm tòi, thử nghiệm, lựa chọn những hình thức,
phương pháp, biện pháp thích hợp nhất. Đảng phải thường xuyên rút kinh nghiệm, tổng
kết, điều chỉnh, hoàn thiện vì phương thức đó không có sẵn trong thực tế.
Trước những yêu cầu và nhiệm vụ mới đặt ra, đòi hỏi Đảng phải vận dụng
nhiều phương pháp, hình thức mới phù hợp với thực tiễn. Trong đó, Đảng cần
chú trọng phương pháp lãnh đạo thông qua Nhà nước, tích cực phát huy vai trò
nước trong việc thể chế hóa, luật pháp hóa đường lối, chủ trương của Đảng bằng
sáng tạo
đặc biệt
của Nhà
các hình
thức, quy định, pháp lệnh, biện pháp quản lý của Nhà nước. trở thành đảng cầm quyền,
đảng phải nhanh chống đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. cùng
với việc đổi mới phương thức lãnh đạo đối với nhà nước cần quan tâm đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng
nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và trong hoạt động của Mặt trận…
4.Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc: Sau
sự kiện Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội tạm thời đi vào thoái trào, tình hình
thế giới vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp. Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai,
hoạt động khủng bố, tranh chấp biên giới, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, … tiếp tục
diễn ra nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn
diễn ra gây gắt, nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc…
Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hóa về kinh tế tạo ra
những cơ hội phát triển những cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn,
thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển. Cạnh tranh kinh tế thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công
nghệ, …giữa các nước ngày càng gay gắt. Khoa học và công nghệ thế giới tiếp tục phát
triển nhanh chóng và đạt nhiều thành tựu mới. các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện
âm mưu “ diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “ dân chủ”, “
nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở một số nước trong đó có Việt nam.
Những biến đổi trên đều tác động rất lớn vào đất nước ta và đội ngũ cán bộ, đảng
viên; đòi hỏi đảng phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, tiếp
tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo.
*Nội dung lãnh đạo của Đảng cộng sản trong điều kiện đảng cầm quyền:
1.Xây dựng chủ trương đường lối: Đảng đề ra cương lĩnh chính trị, chiến lược,
đường lối, chính sách lớn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, giáo dục,
an ninh, quốc phòng, …Đây được coi là những quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo
của Đảng để Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị vận dụng, thể chế hóa
thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách, cụ thể hóa thành chương trình, kế hoạch công tác
và tổ chức thực hiện phù hợp với chức năng của từng tổ chức. Đảng tôn trọng tính độc
lập, sáng tạo và quy chế hoạt động của từng tổ chức.
2.Lãnh đạo xây dựng nhà nước: Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước trong
sạch vững mạnh, đủ năng lực và hoạt động có hiệu quả, thực sự là nhà nước của dân, do
dân và vì dân; chăm lo xây dựng và cũng cố các đoàn thể nhân dân đủ sức tập hợp được
rộng rãi quần chúng nhân dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trên lĩnh vực này, sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc đề ra các
quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng tổ chức và các hoạt động của các
tổ chức; giúp đỡ các tổ chức này xác định mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ trong thời kỳ
mới. Đảng không can thiệp vào công việc cụ thể, quy tắc, quy chế hoạt động của các
thành viên khác trong hệ thống chính trị.
3.Lãnh đạo công tác cán bộ: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý
đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nhất là cán bộ chủ chốt trong hệ thống
chính trị. Trên lĩnh vực này, nội dung lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc Đảng đề ra các
quan điểm, chủ trương về công tác cán bộ từ khâu đào tạo, bồi dưỡng, bố tri`, đánh giá,
sử dụng, luân chuyển cán bộ …Đảng quyết định những chính sách lớn về cán bộ. Đảng
trực tiếp bố trí và quản lý cán bộ của các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước và các
đoàn thể nhân dân.
4.Kiểm tra, giám sát đối với Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị:
Đảng tiến hành kiểm trqa, giám sát đối với Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống
chính trị. Nội dung kiểm tra giám sát của Đảng chủ yếu tập trung vào việc quán triệt và tổ
chức thực hiện các quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, việc chấp hành
pháp luật và tinh thần trách nhiệm trước nhân dân. Đảng vừa trực tiếp kiểm tra, giám sát
vừa tổ chức phối hợp kết hợp hoạt động kiểm tra, giám sát của cả hệ thống kiểm tra giám
sát của Đảng, thanh tra nhà nước, kiểm tra, giám sát của các đoàn thể nhân dân.
*Phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản trong điều kiện đảng cầm quyền:
Khái niệm: Phương thức lãnh đạo của đảng là các hình thức, phương pháp, biện
pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác mà Đảng sử dụng để tác động vào đối
tượng nhằm thực hiện tốt nội dung lãnh đạo.
1.Lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, chủ trương, đường lối:
Đảng xây dựng các cương lĩnh chính trị, đường lối, quan điểm, chủ trương, các
nghị quyết có tính nguyên tắc nhằm giải quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan
trọng.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua phương thức này, làm cho hệ tư tưởng, đường
lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng được thể chế hóa thành luật pháp và chính sách.
Mọi hoạt động của Nhà nước phải thể hiện được đường lối chính trị của Đảng.
Bằng các chủ trương, nghị quyết, quan điểm Đảng xây dựng Nhà nước sẽ thể chế
hóa thành các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, 5 năm,.. các kế
hoạch kinh tế, xã hội hằng năm, kế hoạch phát triển từng ngành, từng lĩnh vực đời sống
xã hội.
Với mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội, Đảng lãnh đạo bằng chính việc
hoạch định được đường lối, chủ trương quyết định định hướng cho phong trào hoạt động
của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội; lãnh đạo, cụ thể hóa các chủ trương, quyết
định đó. Để làm cho Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội phải thực sự đoàn kết, tập
hợp lực lượng, gây dựng các phong trào xã hội để thực hiện nghị quyết của Đảng, chấp
hành luật pháp Nhà nước, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng lãnh đạo nhưng Đảng không áp đặt, không bao biện làm thay, nhất là không
can thiệp tùy tiện vào các hoạt động của chính quyền, đoàn thể, không trái với luật pháp.
2.Lãnh đạo bằng giáo dục, thuyết phục:
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị bằng công tác tư
tưởng, bằng các phương thức giáo dục thuyết phục đối với mọi đảng viên và nhân dân
trong thực hiện theo đúng cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà
nước; làm cho các chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch, mục tiêu hoạt động
của Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị được phổ biến rộng rãi trong nhân
dân làm cho mọi người hiểu đúng, tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành một cách có hiệu quả.
Thông qua việc sinh hoạt và hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong hệ
thống chính trị, Đảng luôn giáo dục, thuyết phục từng cán bộ, đảng viên hoàn thành
nhiệm vụ chính trị, đồng thời nâng cao nhận thức chính trị, bồi dưỡng tình cảm, giáo dục
đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh,… đảm bảo sự đồng thuận trong xã hội, sự tin
tưởng của nhân dân, sự tiền phong gương mẫu của đảng viên trong điều kiện đảng cầm
quyền, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
3.Lãnh đạo bằng công tác tổ chức, cán bộ:
Đảng nắm chắc công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ của Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội. Đảng nắm chắc các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong hoạt động
của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Đảng đề ra đường lối về công tác cán bộ và thống nhất quản lý cán bộ, đồng thời
tôn trọng quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức. Đảng giới thiệu và tạo
mọi điều kiện cần thiết để những cán bộ, đảng viên có trình độ, năng lực, phẩm chất
chính trị vững vàng được giữ vững vị trí quan trọng, chủ chốt trong cơ quan nhà nước và
trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Các tổ chức và đội ngũ cán bộ chủ chốt phải
chịu trách nhiệm trước Đảng về việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành
các nghị quyết cụ thể, thành các văn bản pháp quy, thành kế hoạch, chỉ tiêu, chính sách
cụ thể.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức của hệ thống chính trị bằng việc nắm chắc
và thường xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và của cả hệ thống chính trị;
xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, từ đó bố trí tổ chức Đảng, cán bộ đảng
viên phù hợp với mô hình, tổ chức …
4.Lãnh đạo bằng công tác kiểm tra giám sát:
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực của
xã hội bằng việc thường xuyên kiểm tra giám sát các tổ chức đảng và đảng viên như:
- Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng của các tổ chức này tiến hành thanh
tra, kiểm soát, kiểm tra các hoạt động cả tổ chức và cán bộ, đảng viên, công chức đảm
bảo thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng.
- Xây dựng chương trình và triển khai thực hiện công tác giám sát thường xuyên và
đột xuất đối với các tổ chức Đảng và đảng viên.
5.Lãnh đạo bằng phát huy vai trò làm chủ của nhân dân:
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chí trị còn thể hiện bằng
việc phát huy vai trò làm chủ của nhân dân đó là việc tôn trọng và phát huy vai trò của
các tổ chức quần chúng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; là việc hỗ trợ tạo điều
kiện thuận lợi cho các tổ chức quần chúng hoạt động khơi dậy được tính chủ động sáng
tạo của quần chúng.
Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải trở thành lực lượng tham
mưu, nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội, phát huy dân chủ. Đảng tạo điều kiện
cho Mặt trận và các tổ chức đoàn thể tăng thêm tính tự chủ, năng động, sáng tạo hơn
trong hoạt động để gần dân, sát dân hơn; phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng
đồng.
Động viên tạo đều kiện thuận lợi để các đoàn thể nhân dân và nhân dân tham gia và
thực hiện việc giám sát, phản biện xã hội đối với mọi hoạt động của tổ chức đảng, cán bộ,
công chức một cách có chất lượng và hiệu quả./.
Bài 5:
ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930 – 1945)
Câu 1 : Nội dung của luận cương chính trị tháng 10/1930 do Đ/c Trần Phú chủ trì?
Trả lời :
- Tháng 04/1930, Đ/c Trần Phú về nước hoạt động, được bổ sung vào Ban chấp
hành Trung ương lâm thời, cùng ban thường vị chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất Ban
chấp hành Trung ương.
- Từ ngày 12 đến ngày 27/10/1930, Ban chấp hành Trung ương hợp Hội nghị lần
thứ nhất tại Hương cảng, Trung Quốc do Trần Phú chủ trì: Hội nghị thống nhất:
+ Đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
+ Thông qua luận cương chính trị của Đảng cộng sản Đông Dương do Trần Phú
soạn thảo.
+ Cử Trần Phú làm tổng bí thư.
Hội nghị thông qua Luận cương chánh trị, bao gồm những nội dung cơ bản về dân
tộc và dân chủ sau đây:
Phân tích những đặc điểm về tình hình Đông Dương bao gồm ba xứ Việt nam, lào,
Cao Miên, Luận cương xác định rõ hai đặc điểm: chế độ thuộc địa của đế quốc Pháp, là
trở lực cho sự phát triển độc lập của dân tộc; ách áp bức, bóc lột của đế quốc và phong
kiến địa chủ khiến mâu thuẫn giai cấp giữa thợ thuyền, dân cày và quần chúng lao khổ
với địa chủ, phong kiến và tư bản đế quốc càng thêm gay gắt.
Về mâu thuẫn giai cấp “ Một bên là thợ thuyền, dân cầy và các phần tử lao khổ;
một bên thì địa chủ phong kiến, tư bổn và đế quốc chủ nghĩa”.
Về tính chất cách mạng thời kỳ đầu “ là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền”,
“Có tánh chất thuộc địa và phản đế”.
Về nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền, luận cương xác định phải tiến hành
đồng thời hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến.
Về lực lượng cách mạng, Luận cương khẳng định: “Trong cuộc cách mạng tư sản
dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh nhưng vô sản có cầm quyền
lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”.
Về phương pháp đấu tranh và hình thức đấu tranh, Luận cương chỉ rõ: phải sử dụng
bạo lực cách mạng để đánh đổ ách áp bức của thực dân, phong kiến, song: Võ trang bạo
động là một hoạt động cực kỳ hệ trọng trong quá trình cách mạng.
Về con đường phát triển của cách mạng, Luận cương xác định: làm cách mạng tư
sản dân quyền thắng lợi bỏ qua thời kỳ tư bản tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ
nghĩa. Cách mạng tư sản dân quyền mới chỉ là giai đoạn thứ nhất của cách mạng Đông
Dương. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi, hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến được hoàn thành, cách mạng Đông Dương sẽ chuyển sang giai đoạn
thứ hai – giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về mối quan hệ giữa cách mạng Việt nam với cách mạng thế giới, luận cương nhấn
mạnh mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới. Muốn
giành thắng lợi, Đảng phải liên hệ mật thiết với cách mạng vô sản thế giới, nhất là vô sản
Pháp và cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa và bán thuộc địa.
Luận cương chánh trị khẳng định: cách mạng Đông Dương muốn giành được thắng
lợi “Phải có một Đảng cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật
thiết liên lạc với quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền
phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lê nin làm gốc mà đại biểu quyền
lợi chính và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương và lãnh đạo vô sản giai
cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục tiêu cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa
cộng sản.
Ý nghĩa của luận cương: Luận cương đã vạch ra được nhiều vấn đề căn bản của
cách mạng Việt nam mà chính cương vắn tắt sách lược vắn tắt đã nêu ra.
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế:
- Luận cương không nêu ra mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mậu thuẫn
giữa dân tộc Việt nam và đế quốc Pháp.
- Không đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Chưa đánh giá đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tư sản dân tộc mà
cường điệu hóa những hạn chế của họ.
Từ đó phủ nhận quan điểm đúng đắn trong Chính cương vắn tắt, sách lượt vắn tắt
và hạn chế này tồn tại tới hội nghị trung ương 8 (5/1941) mới được khắc phục hoàn toàn.
Nguyên nhân của chạn chế:
- Do những người lãnh đạo nhận thức máy móc, giáo điều về mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc và giai cấp trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam.
- Không nắm được đầy đủ đặc điểm tình hình xã hội và giai cấp ở Việt nam.
- Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi khuynh hướng “ tả” trong Quốc tế Cộng sản./.
Câu 2 :Nội dung hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng
qua 3 hội nghị Trung Ương 6,7,8?
Trả lời :
1.Bối Cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới: Năm 1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, chiến tranh thế
giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ phản động ở Pháp thi hành chính sách phát xít, giải tán
Đảng cộng sản Pháp và các Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa, thủ tiêu các quyền tự do
dân chủ. Ở Viễn Đông, Nhật Bản đẩy mạnh xâm lược trung quốc và xúc tiến cuộc chiến
tranh trên mặt trận Thái Bình Dương, chiếm đóng các nước Đông Nam Á
- Ở Đông Dương, chính quyền thuộc địa thi hành chính sách cực kỳ phản động,
phát xít hóa bộ máy cai trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân Đông
dương, chĩa mũi nhọn vào Đảng Cộng sản. Chúng thực hiện chính sách kinh tế thời chiến,
ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, cướp của để cung cấp cho chiến
tranh.Tháng 9/1940 Nhật tiến vào Lạng Sơn xâm lược Việt Nam, thực dân pháp nhanh
chống đầu hàng và cấu kết với Nhật áp bức bóc lột nhân dân đông dương.
*Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nêu cao nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu
Trước những chuyển biến của tình hình, BCH trung ương Đảng Cộng sản Đông
dương Liên tiếp mở các hội nghị để hoạch định chủ trương và nhiệm vụ cách mạng.
Những quan điểm, chủ trương mới của đảng được thể hiện qua các hội nghị: Hội nghị
Trung ương lần thứ 6 (11-1939); Hội nghị Trung ương lấn thứ 7 (11 – 1940) ; Hội nghị
Trung ương lần thứ 8 (5- 1941) với những nội dung chính như sau:
-Đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Mục tiêu trước mắt
của cách mạng Đông dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông
dương, làm cho Đông dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị BCHTW lần thứ 8 nhấn mạnh:
cuộc cách mạng đông dương hiện tại không phải là cách mạng tư sản dân quyền, cuộc
cách mạng giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc caschh mạng chỉ
giải quyết một vấn đề cần kíp “giải phóng dân tộc”, vậy cuộc cách mạng ở đông dương
trong giai đoạn hiên tại là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng.
- Chủ trương đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc, thành lập mặt trận độc lập đồng
minhđể tập hợp mọi giai cấp, ddarrng phái, dân tộc, tôn giáo…không phân biệt tuổi tác,
giới tính, quan điểm chính trị, miễn là có lòng yêu nước,mưu cầu nền độc lập cho xứ sở
vào các đoàn thể cứu quốc
- Chủ trương giải quyết các vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt lamf
sau đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân. ở mỗi nước thành lập một
mặt trận, tiến tới thành lập mặt trận chung cho cả ba nước.
- Đặt công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang làm nhiệm vụ trung tâm của cách mạng
Đông dương, Nghị quyết Trung ương 8 chỉ rõ: cuộc cách mạng đông dương phải kết liễu
bằng cuộc khởi nghĩa vũ trang. Muốn khởi nghĩa vũ trang thắng lợi phải có đủ những
điều kiện chủ quan và khách quan, phải chọn đúng thời cơ cách mạng.
- Coi trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng, đảm bảo cho đảng thực sự là đội tiên phong
của giai cấp công nhân đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng đông dương đi đến toàn
thắng, gấp gút đào tạo cán bộ coi đó là một công tác cấp bách không thể bỏ qua một giờ
phút.
Những chủ trương đúng đắn của Đảng thể hiện rõ sự trưởng thành vượt bậc của
Đảng ta về tư duy cách mạng, về lãnh đạo chính trị, độc lập, tự chủ trong xác định đường
lối, vượt qua những bệnh ấu trĩ, tả khuynh, giáo điều trong những năm trước đó, đặt nền
tảng cho thành công của công cuộc vận động, chuẩn bị khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945
Câu 3:
Câu 3: Ý nghĩa, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945?
Trả lời :
* Ý nghĩa và một số kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám:
- Nguyên nhân thắng lợi:
+ Khách quan:
Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và quân Đồng Minh
đánh bại, quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu. Đảng Cộng sản
Đông Dương đã chóp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa giành thắng lợi mau chóng.
+ Chủ quan:
Có sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn, dầy kinh nghiệm, đoàn kết, thống nhất, năm
bắt đúng thời cơ, kiên quyết, khôn khéo.
Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, đoàn kết và thống nhất
trong Mặt trận Việt Minh.
Quần chúng có quá trình chuẩn bị đấu tranh lau dài, được tập dợt qua bao cao trào
cách mạng rộng lớn, tạo thành lực lượng chính trị hùng hậu có lực lượng vũ trang làm
nồng cốt.
- Ý nghĩa lịch sử:
Đối với dân tộc: Cách mạng tháng Tám đánh dấu một cuộc biến đổi cực kỳ to lớn
trong tiến trình lịch sử của dân tộc, đưa Việt nam bước vào một kỷ nguyên mới, độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đứng lên làm chủ
đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đảng Cộng sản Đông Dương từ một sảng hoạt
động bí mật ta trở thành một đảng cầm quyền. Nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong
kiến trở thành một nước độc lập, một nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Thắng lợi của cách mạng tháng 8 xác lập và nâng cao vị trí quốc tế của dân tộc
Việt Nam trong hàng ngũ các dân tộc tiên phong, thúc đẩy sự phát triển của phong trào
giải phóng dân tộc và tiến bộ xã hội
Đối với quốc tế và thời đại:. cách mạng tháng 8 góp phần mở ra thời kỳ suy sụp tan
rã chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi thế giới, thúc đẩy và cổ vũ phong trào giải phóng
dân tộc phát triển mạnh mẽ.
Cách mạng tháng 8 chứng tỏ trong thời đại ngày nay, một cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa do toàn dân nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, có đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại
hoàn toàn có khar năng thắng lợi. cuộc cách mạng ấy có thể thành công trước khi giai
cấp công nhân và nhân dân lao động ở nước đế quốc có thể giành được chính quyền
- Một số kinh nghiệm chủ yếu của Cách mạng Tháng tám năm 1945:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải quyết đúng đắn
mối quan hệ độc lập dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến.
Hai là, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân
tộc dựa trên nền tảng vững chắc của khối liên minh công nông, đấu tranh vì độc lập, tự
do.
Ba là, Kiên quyến sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính quyền, đồng thời triệt
để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ k3 thù, tranh thủ những phần tử trung lập, lưng
chừng, tập trung mọi lực lượng chống kẻ thù nguy hiểm nhất.
Bốn là, kịp thời nắm bắt thời cơ, chủ động sáng tạo trong sử dụng các hình thức,
phương pháp thích hợp khởi nghĩa giành chính quyền.
Năm là, xây dựng Đảng vững mạnh, đũ sức lãnh đạo thành công cuộc đấu tranh
giành chính quyền./.
Bài 7:
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
MIỀN BẮC (1954 – 1975)
Câu 1 : Đặc điểm Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội?
Trả lời :
Đặc điểm của Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: có 03 đặc
điểm.
1.Miền Bác bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông
nghiệp lạc hậu bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa:
Đây là đặc điểm to lớn nhất và cũng là khó khăn lớn nhất đối với miền Bắc. Miền
Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp.
Quan hệ sản xuất: cá thể, manh mún, quy mô sản xuất nhỏ, năng suất, sản lượng
thấp. Lực lượng sản xuất trình độ thấp kém. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật rất ít, hạn
chế về năng lực, kinh nghiệm điều hành, quản lý kinh tế.
Cơ sở vật chất ít ỏi, chỉ có một số nhà máy. Thực dân Pháp ít chú ý đầu tư phát
triển công nghiệp nặng nhằm cột chặt công nghiệp Việt nam vào công nghiệp chính quốc.
Cơ sở vật chất kỹ thuật do chế độ cũ để lại hầu như không có gì, bởi trước khi rút khỏi
miền Bắc thực dân Pháp đã cho phá hủy những nhà máy, máy móc bị vận chuyển hoặc
tháo gỡ. Mặt khác từ sau hòa bình lập lại, miền Bắc bị thiên tai liên tiếp. Cuối năm 1954,
nhiều nơi bị mất mùa, nạn đói xảy ra và kéo dài suốt sáu tháng đầu năm 1955, làm cho
tình hình kinh tế càng khó khăn thêm.
Tình hình chính trị, xã hội phức tạp, Đảng và Chính phủ phải đối phó với những
âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ địch; hoạt động bạo loạn chống phá cách mạng ở Ba
Làng (Thanh Hóa), Quỳnh Lưu (Nghệ An), hoạt động của bọn phỉ ở miền núi phía Bắc.
Khó khăn như vậy, nhưng ngay từ đầu ta chưa nhận thức đầu đủ đặc điểm này, còn
chủ quan, nóng vội trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
2.Miền Bắc đi lên CNXH trong điều kiện đất nước tạm chia làm hai miền với hai
chiến lược khác nhau do Đảng lãnh đạo:
Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Trong đó, cách
mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển
của cách mạng Việt Nam, vì miền Bắc là căn cứ đại, là hậu phương lớn cho cách mạng
miền Nam, đồng thời miền Bắc chuẩn bị những điều kiện vật chất và tinh thần cho cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội sau này. Miền Nam là tiền tuyến lớn, cách mạng miền Nam
có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc.
Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa có hòa bình vừa có chiến
tranh nên bị chi phối bởi hai quy luật: quy luật xây dựng kinh tế trong thời bình và quy
luật chiến tranh. Có những thời điểm quy luật chiến tranh lấn át quy luật kinh tế. Miền
Bắc còn làm nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, chi viện sức người, sức
của cho tiền tuyến miền Nam và nghĩa vụ quốc tế với cách mạng Lào và Campuchia.
3.Miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện quốc tế thuận lợi, nhưng
cũng không ít khó khăn, phức tạp:
Việt Nam nhận được sự giúp đỡ của các nước Liên Xô, Trung Quốc, bạn giúp về
đào tạo cán bộ, về vật tư, thiết bị máy móc, xây dựng các công trình, khôi phục các nhà
máy bị thực dân Pháp phá hủy, giúp đỡ về vốn, đưa chuyên gia các lĩnh vực sang giúp
Việt Nam …Tuy nhiên, bản thân các nước lúc đó đang trong quá trình tìm tòi, khảo
nghiệm mô hình, giải pháp, cách thức đi lên chủ nghĩa xã hội cho phù hợp, nhiều vấn đề
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chưa sáng tỏ. Miền Bắc đi lên
CNXH trong điều kiện đó cũng không tránh khỏi những tác động của tiêu cực, vấp váp và
sai lầm của các nước.
Trong các đặc điểm trên, đặc điểm thứ nhất là đặc điểm to lớn nhất và cũng khó
khăn nhất đối với miền Bắc. Với điểm xuất phát chung còn yếu kém của nền sản xuất
nhỏ, trình độ lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cón thấp, trải qua chiến tranh lâu
dài và chưa phát triển tư bản chủ nghĩa, việc lựa chọn hình thức, bước đi, phương pháp
như thế nào để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi điều đó chưa có tiền lệ đối với Việt
Nam.
Mặt khác trong quá trình chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, Đảng còn
tập trung giải quyết hai nhiệm vụ: xây dựng chủ nghĩa xã hội và chiến tranh nbao3 vệ Tổ
quốc (hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với Miền Bắc). Hơn thế nữa
trong cùng một thời kỳ (1954-1975), toàn bộ sức lực, trí tuệ của Đảng và dân tộc phải tập
trung cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.Trong thời gian này, BCH Trung ương
Đảng họp 25 hội nghị thì có đến 16 hội nghị bàn về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, bàn về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc chỉ có 9 hội nghị. Đó là những khó
khăn đối với Đảng trong hoạch định đường lối và chỉ đạo thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc./.
Câu 2 :Thành tựu, hạn chế, bài học kinh nghiệm?
Trả lời :
*Thành tựu :
- Bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Mặc dù đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai ở miền Nam có nhiềm âm mưu phá hoại hòng
xóa bỏ những thành tựu mà cách mạng đã đạt được, nhưng miền Bắc ngày càng vững
mạnh trên con đường đi lên CNXH, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà.
- Xác lập quan hệ sản xuất mới XHCN với hai hình thức sở hữu: quốc doanh và tập
thể, làm cho nền kinh tế XHCN chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân. Xóa
bỏ được chế độ người bóc lột người - một mục tiêu cơ bản của CNXH.
- Trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc, nền kinh tế tuy có bị xáo trộn và
thiệt hại lớn, nhưng sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và lưu thông phân phối về cơ bản
vẫn được giữ vững. Đặc biệt trong điều kiện chiến tranh ác liệt đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân vẫn ổn định và có nhiều mặt được cải thiện.
- Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân tăng gấp nhiều
lần so với khi mới giải phóng. Đã xây dựng được mạng lưới cơ sở vật chất kỹ thuật quan
trọng của CNXH, xây dựng nhiều khu công nghiệp và nhiều công trình lớn của đất nước.
- Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao đều phát triển.
Mạng lưới y tế được mở rộng từ Trung ương đến cơ sở, từ đồng bằng đến miền núi. Hoạt
động văn hóa - nghệ thuật phát triển nhiều mặt, góp phần xây dựng con người mới, nâng
cao đời sống tinh thần của nhân dân. Những nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân
được đảm bảo. Lối sống mới đã trở thành phố biến, người với người sống có tình nghĩa,
đoàn kết, thương yêu nhau.
- Tạo dựng được một xã hội lành mạnh, có trật tự, kỹ cương, bình đẳng và quan hệ
tốt đẹp giữa người với người, thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN. An ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
- Miền Bắc hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến
lớn, đồng cam, cộng khổ, sát cánh cùng đồng bào miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm
lược và bè lũ tay sai, giải phòng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước
đi len CNXH. Đồng thời hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế đối với cánh mạng Lào và
Campuchia.
- Với những thành tựu mà miền Bắc đã đạt được như đã nêu trên, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: Những thành tựu và biến đổi ấy còn thấp
so với mục tiêu của CNXH. Song, trong hoàn cảnh miền Bắc phải đương đầu với hàng
triệu tấn bom đạn của đế quốc Mỹ, vừa không ngừng cung cấp sức người, sức của cho
tiền tuyến miền Nam đánh giặc cứu nước, đồng thời gánh vác nghĩa vụ quốc tế, thì những
thành tựu đạt được là những kỳ tích mà người ta không thể nào tưởng tượng bên ngoài
quỹ đạo của CNXH.
- Đảng ta cùng các Đảng mácxít tiếp tục cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại
hiện đại, góp phần bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, phê phán nhưng
khuynh hướng sai lầm: chủ nghĩa cơ hội, xét lại cả “tả” khuynh. Đồng thời, tích cực góp
phần củng cố khối đoàn kết giữa các đảng anh em trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế.
- Tháng 7/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, Trung Quốc. Tiếp đó các
đoàn đại biếu chính phủ đi thăm các nước XHCN khác. Nhiều đoàn đại biểu chính phủ và
quốc hội các nước XHCN đến thăm Việt Nam. Trong các cuộc trao đổi với các nước
XHCN, Đảng và Chính phủ đều không ngừng củng cố tình đoàn kết hữu nghị với Liên
Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em khác, thực hiện sự phối hợp chặt chẽ với các
nước anh em trong hoạt động quốc tế và đấu tranh ngoại giao; tranh thủ viện trợ về kinh
tế nhằm khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc.
*Hạn chế :
- Mô hình CNXH theo kiểu tập trung quan liêu, bao cấp với cơ chế kế hoạch hóa
tập trung cao độ đã thật sự góp phần tạo ra sức mạnh để Nhà nước thực hiện xuất sắc hai
chiến lược cách mạng. Tuy nhiên, mô hình đó đã bộc lộ nhiều nhược điểm, đặc biệt trong
chiến tranh ác liệt những khuyết tật của mô hình và cơ chế đó chưa bộc lộ hết và cũng
chưa được sữa chữa kịp thời.
- Trong quá trình chỉ đạo xây dựng CNXH ở miền Bắc, chúng ta còn phạm nhiều
khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa cũng như trong quá trình xây dựng CNXH.
Nguyên nhân sâu xa là từ nhận thức còn giản đơn về CNXH và con đường đi lên CNXH,
chưa nắm bắt đúng các quy luật vận động đi lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ còn
mang nặng tính tự cấp, tự túc, “những nguyên tắc cơ bản của cách mạng XHCN nhất là
những vấn đề có tính quy luật của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, nói
chung chưa nhận thức một cách sâu sắc…cần nhấn mạnh một khuyết điểm nặng trong
quản lý kinh tế là lối quản lý quan liêu, hành chính, xem nhẹ hiệu quả, năng suất và chất
lượng… bộ máy quản lý và tổ chức thực hiện kém hiệu lực”.
- Đồng thời còn do bắt nguồn từ phương pháp tư duy chủ quan, nóng vội, duy ý chí
và mặt khác là giáo điều sách vở, dập khuôn máy móc kinh ngiệm của nước ngoài, không
tính đến hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
- Biều hiện của những thiếu sót sai lamà đó là muốn đi lên CNXH trong một thời
gian ngắn mà không cần trải qua những bước trung gian quá độ, bằng cách sớm xác lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, kinh tế hàng hóa chưa phát triển, coi nhẹ việc sử
dụng đòn bẩy kinh tế để phát triển sản xuất, quan niệm chưa đúng về con đường và cách
thức thực hiện công nghiệp hóa XHCN, về mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, về
mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý… Những thiếu sót và sai lầm trên
là những bài học giúp Đảng nhanh chóng trưởng thành và dày dạn kinh nghiệm hơn trong
các giai đoạn phát triển tiếp theo của cách mạng Việt Nam.
*Một số kinh nghiệm :
- Đảng phải luôn giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời linh hoạt, sáng tạo trong
việc xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa:
+ Xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân miền Bắc cũng như xu thế phát
triển của thời đại. Đảng quyết định đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa.
+ Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện đúng Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930). Cương lĩnh chính trị đầu tiên
đã xác định cách mạng nước ta phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, sau đó tiến lên chủa nghĩa xã hội. Mục tiêu của cuộc cách mạng là đưa nước ta
tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
+ Trong quá trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đảng luôn giữ
vững tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối cũng như trong chỉ
đạo thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc.
- Nhận thức đúng đắn lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời ký quá độ lên
CNXN như nhận thức đúng đắn về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nắm bắt sát đúng đặc điểm thực tiễn trên của
Việt Nam:
Trong lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đảng tôn trọng quy luật
khách quan đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phú hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Chỉ có như vậy Đảng mới khắc phục được tư tưởng chủ quan,
nóng vội và trong chỉ đạo thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mọi chủ trương, chính
sách mới phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
- Đảng đồng thời lãnh đạo hai chiến lược khác nhau ở hai miền, xác định rõ vai
trò, vị trí của cách mạng mỗi miền, đó là sự sáng tạo, nhạy bén của Đảng trong hoàn
cảnh vừa có chiến tranh, vừa có hòa bình:
Xuất phát từ thực tiễn của đất nước, trong điều kiện đất nước tạm thời bị chia cắt
làm hai miền, Đảng đồng thời lãnh đạo thực hiện hai chiến lược cách mạng ở hai miền
trong cùng một thời gian (1954-1975). Đảng xác định cách mạng xã hội chủ nghĩa miền
Bắc có vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam;
miền Nam là tiền tuyến lớn, CM miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ Quốc.
- Trong quá trình hoạch định đường lối và tổ chức chỉ đạo thực hiện, cần chú
trọng lựa chọn những kinh nghiệm phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của
Việt Nam:
Học tập kinh nghiệm bên ngoài là sự cần thiết trong quá trình hoạch định đường lối
và tổ chức chỉ đạo thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, coi đó là
điều kiện cần thiết đối với một Đảng cầm quyền. Vận dụng những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác – Lê nin, những quy luật phổ biến, cũng như trú trọng lựa chọn những kinh
nghiệm của các nước anh em về cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ
nghĩa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam./.
BÀI 8
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975-1986)
Câu 1: Đặc điểm, tình hình Cách mạng Việt Nam sau năm 1975:
Trả lời :
*Tình hình cách mạng Việt Nam sau năm 1975:
- Tổ quốc hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên CNXH với nhiều thuận lợi
lớn, song còn nhiều khó khăn:
*Thuận lợi:
- Thắng lợi mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đất nước hòa bình,
độc lập, thống nhất Tổ quốc họp từ ngày 15 đến ngày 21/11/1975 tại Sài Gòn. Ngày
25/4/1976, bầu Quốc hội chung cả nước. Từ ngày 24/6 đến ngày 02/7/1976, Quốc hội
nước Việt Nam thống nhất tại Hà Nội. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời.
Thống nhất đất nước tạo ra sức mạnh mới toàn diện cả về chính trị và kinh tế, bao đảm
cho sự nghiêp cách mạng tiến những bước nhảy vọt. Các tiềm năng, sức mạnh tổng hợp
của con người và thiên nhiên của cả nước được phát huy. Nước ta có hàng chục triệu
hecta rừng và đất rừng, hơn 3200 Km bờ biển và vùng biển rộng lớn, có lực lượng lao
động 22 triệu người và đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật là nguồn lực quan trọng cho
phát triển kinh tế xã hội
- Việt Nam có nền chuyên chính vững mạnh đã qua thử thách . Đảng Cộng sản Việt
Nam là một đảng Mác – Lê nin dày dạn kinh nghiệm, độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
hoạch định đường lối cách mạng được nhân dân tin tưởng. Khi đất nước hòa bình, thống
nhất, nhân dân cả nước vô cùng phấn khởi và biến chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong
chiến đấu sang xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Kế thừa những thành quả về cơ sở vật chất, kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã
hội qua 21 năm. Đội ngũ cán bộ được các nước xã hội chủ nghĩa đào tạo, có trình độ nhất
định trong xây dựng và quản lý kinh tế.
- Miền nam có tiềm lực lớn về công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm. Mạng
lưới giao thông vận tải, thông tin liên lạc, hệ thống bến cảng, đường bộ, sân bay, kho
tàng, nhà cửa chuyển từ mục đích phục vụ cho quốc phòng sang phục vụ xây dựng đất
nước. Công nhân có trình độ kỹ thuật cao và bước đầu làm quen với cách quản lý tư bản
chủ nghĩa.
*Khó khăn:
Hậu quả của 30 năm chiến tranh:
- Khó khăn lớn nhất của miền nam trong quá trình đi lên CNXH là những hậu quả
trầm trọng của chiến tranh và chính sách thực dân mới của Mỹ trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Miền Nam là một xã hội thực dân kiểu mới và nữa phong kiến,
từ một nền sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn; Nền kinh tế vẫn phụ thuộc vào nước ngoài;
đồng ruộng bị bom đạn và chất độc hóa học mỹ tàn phá, hàng chục vạn héc ta ruộng bị
hoang hóa.
- Hàng chục đảng phái phản động chống phá cách mạng. Ở Tây nguyên lực lượng
phản động FULRO chống phá quyết liệt,có hơn 1,2 triệu nhân viên và binh lính của chính
quyền Sài Gòn tan rã tại chỗ, 270.000 thương phế binh cần được cải tạo, và giúp đỗ công
việc, các tệ nạn xã hội như nghiện xì ke, ma túy, mại dâm,…cần được quản lý, giáo dục
và hoàn lương
- Đế quốc mỹ đã trút xuống Việt nam hàng chục triệu tấn bom đạn. Những vấn đề
về thương binh xã hội phải giải quyết rất lớn. Nền kinh tế quốc dân mất cân đối một cách
gay gắt, nhất là cung cầu lương thực. Sản xuất không đủ tiêu dùng.
* Đặc điểm lớn nhất của CMXHCN của nước ta là từ một XH mà nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa:
Miền bắc sau 21 năm cải tạo XHCN và xây dựng CNXH đã đạt được những thành
tựu nhất định xóa bỏ giai cấp bóc lột, xác lập quan hệ sản xuất mới XHCN, xây dựng cơ
sở vật chất, kỹ thuật của CNXH nhưng nền sản xuất XHCN vẫn còn tình trạng sản xuất
nhỏ, năng suất lao động thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, tài nguyên chưa được khai
thác.
Miền nam tuy đã xuất hiện nhiều yếu tố của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, cơ bản
vẫn là nền kinh tế phụ thuộc vào nước ngoài. Công nghiệp chủ yếu là công nghiệp nhẹ
với quy mô nhỏ. Năng lực quản lý nhà nước, kinh tế ở hai miền bắc nam chưa theo kịp sự
đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới.
* Cách mạng XHXN ở việt nam tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi,
song cũng còn nhiều khó khăn:
- Thuận lợi:
Sau ngày miền nam giải phóng, nước ta tiếp tục nhận được sự giúp đỡ về vật chất,
tinh thần và kinh nghiệm quản lý đất nước của các nước XHCN an hem và sự tương trợ
giữa các nước trong hội đồng tương trợ kinh tế. Các nước tiếp tục viện trợ không hoàn
lại, cho vay với lãi xuất thấp, xóa nợ, giảm nợ cho việt nam.
- Khó khăn:
Mỹ và các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng nước ta. Mỹ không từ
bỏ âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam. Mỹ tiến hành bao vây, cô lập, phong tỏa tài
sản của Việt Nam, tuyên bố cấm vận thương mại, phủ quyết việc việt nam gia nhập liên
hợp quốc. Mỹ vận động các nước trong nghị viện Châu Âu đình chỉ các hoạt động viện
trợ kinh tế, tăng cường xiết chặt cấm vận viện trợ đối với việt nam. Lợi dụng những khó
khăn về kinh tế - xã hội các thế lực thù địch kích động, lôi kéo đồng bào ra đi bất hợp
pháp.
Trong khi nước ta đang phải tập trung khắc phục hậu quả nặng nề của ba
mươi năm chiến tranh, lại phải đối phó với chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở biên giới
Tây - Nam và biên giới phía Bắc để giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ.
Các nước XHCN gặp nhiều khó khăn, đã bộc lộ trì truệ, đòi hỏi phải cải cách,
cải tổ. Năm 1978 Trung Quốc thực hiện cải cách, hiện đại hóa và mở cửa kinh tế.
Tháng 4 – 1985 Liên Xô bắt đầu thực hiện cải tổ. Đến giai đoạn này các nước XHCN
đã chuyển từ viện trợ không hoàn lại sang trao đổi hợp tác đôi bên cùng có lợi
nhưng chúng ta đã chậm dự báo và chuẩn bị với cơ chế đó nên không tránh khỏi sự
hụt hẳng lớn về vốn, kỹ thuật và không có khả năng thanh toán nợ./.
Câu 2 : Quá trình tìm kiếm, khảo nghiệm con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
giai đoạn 1979-1986?
Trả lời :
Từng bước tìm kiếm, khảo nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam
(1979 – 1986):
*Khái quát tình hình kinh tế - xã hội giai đoạn 1979 – 1986:
Trong điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn đã bắt đầu xuất hiện những tín
hiệu đổi mới trong nông nghiệp và công nghiệp.
Trong nông nghiệp: Ngay từ những năm phong trào hợp tác xã đang phát triển thì
những khuyết tật của mô hình hợp tác xã đã bộc lộ, khiến lãnh đạo một số địa phương áp
dụng hình thức “ khoán chui” trong sản xuất nông nghiệp. Từ năm 1979 một số huyện đã
thực hiện khoán sản phẩm cây màu, cây công nghiệp. Việc thực hiện khoán không chỉ
thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng thêm sản lượng cây trồng, mà còn củng cố quan hệ sản
xuất, bảo đảm ba lợi ích, tăng cường cơ sở sản xuất kỹ thuật. hợp tác xã Đoàn xá ở Đồ
Sơn, hải Phòng đã thực hiện khoán chui từ những năm 1977-1979. Hợp tác xã giao ruộng
cho nông dân, định mức khoán, khi thu hoạch vượt mức khoán, nông dân ược hưởng. Sau
khi xã Đoàn Xá đạt được kết quả hyện Đồ Sơn đã thực hiện khoán. Hiệu quả rõ rệt của
hình thức khoán đã củng cố quyết tâm để Thành Ủy Hải Phòng ra nghị quyết số 24 –
NQ/TQ ngày 27/6/1980 về củng cố tổ chức hợp tác xã nông nghiệp nhằm đẩy mạnh sản
xuất.
Trong công nghiệp: Sản xuất của các nhà máy, xí nghiệp lệ thuộc vào nguyên liệu
trong kế hoạch của Nhà nước. Nhiều cơ sở không có việc làm đã ảnh hưởng lớn đến đời
sống của công nhân viên chức. Trước tình hình đó, đảng bộ một số địa phương đã tìm
cách tháo gỡ. Ở Thành phố HCM đã nhận thức được việc Nhà nước bao cấp cả đầu vào và
đầu ra làm cho người lao động rất thụ động, vì dựa vào kế hoạch Nhà nước mà làm mất
tính năng động trong lãnh đạo sản xuất nên đã cho phép các đơn vị kinh tế quốc doanh thí
điểm thực hiện giao quyền tự chủ cho các xí nghiệp, thực hiện hoạch toán “ Phá rào”, “
vượt rào” làm kinh tế.
Bước đột phá thứ nhất: Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa IV (8/1979)
Trong bối cảnh đó hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IV họp từ
ngày 15 đến ngày 23/8/1979. Hội nghị có trách nhiệm lịch sử hết sức nặng nề là đề ra
phương hướng và giải pháp khắc phục những khó khăn gay gắt của đời sống kinh tế - xã
hội; tìm kiếm một lối thoát cho nền kinh tế ra khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Hội
nghị sẽ tập trung bàn về phương hướng và nhiệm vụ phát triển hàng tiêu dùng và công
nghiệp địa phương, nhưng trong quá trình thảo luận, đa số đại biểu dự hội nghị đã nêu lên
những ý kiến phản ánh tình hình kinh tế - xã hội của đất nước đang ở trong tình trạng hết
sức nghiêm trọng và đề nghị có giái pháp cấp bách xoay chuyển tình thế.
Ngày 20/9/1979, Hội nghị thông qua hai nghị quyết:
- Tình hình nhiệm vụ cấp bách.
- Phương hướng nhiệm vụ phát triển hàng công nghiệp tiêu dùng và công nghiệp
địa phương.
Từ nhận định, đánh giá mới về đời sống kinh tế - xã hội đất nước, Hội nghị chỉ rõ:
Đảng và Nhà nước phải có những chủ trương, biện pháp cấp bách, mạnh mẽ, kiến quyết,
đem lại hiệu quả thiết thực nhằm đẩy mạnh sản xuất, ôn định đời sống, làm cho sản xuất “
bung ra”, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, khuyến khích mạnh mẽ sản xuất
nông nghiệp, làm cho người nông dân phấn khởi sản xuất, tận dụng hết đất đai, được tự
do lưu thông hàng hóa, xóa bỏ “ ngăn sông cấm chợ”.
Đến năm 1981, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải tập trung thực hiện ba nhiệm
vụ cấp bách:
Một là, đẩy mạnh sản xuất, ôn định và đảm bảo đời sống của nhân dân.
Hai là, tăng cường quốc phòng và an ninh, sẳn sàng chiến đấu xâm lược, bảo vệ Tổ
quốc.
Ba là, kiên quyết đấu tranh khắc phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế
và xã hội, nhất là tệ ăn cắp, hối lộ, ức hiếp quần chúng.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cấp bách trên phải coi nhiệm vụ quan trọng nhất là
động viên cao độ và tổ chức toàn dân, toàn quân đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp nhằm trước hết bảo đảm vững chắc lương thực và thực phẩm. Đồng
thời cung ứng nhiều nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm, công nghiệp sản xuất tiêu
dùng và tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu.
Để khắc phục những trì trệ yếu kém trong nền sản xuất nông nghiệp, hội nghị lần
thứ sáu BCH Trung ương khóa IV chủ trương: Đảng và Chính phủ cần phải ban hành
ngáy các chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp, cụ thể là:
- Ổn định mức nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần cón lại bán cho Nhà nước
với giá thỏa thuận và được lưu thông tự do.
- Khuyến khích các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và cả gia đình xã viên, nông dân
cá thể tận dụng diện tích ruộng đất, hồ ao còn bỏ hoang hóa đưa vào sản xuất.
- Khuyến khích các cơ sở quốc doanh, tập thể và gia đình đẩy mạnh chăn nuôi gia
súc, gia cầm, ôn định mức bán thành phẩm, phần còn lại bán cho Nhà nước với giá thỏa
thuận hoặc lưu thông tự do.
- Sửa lại biểu thuế nông nghiệp như miễn thuế, giảm thuế nhằm khuyến khích thâm
canh, tăng vụ, mở rộng diện tích.
- Sử lại giá lương thực và giá các nông sản khác cho hợp lý, tăng giá thu mua nông
sản một cách thỏa đáng để khuyến khích sản xuất và mở rộng nguồn thu mua của Nhà
nước.
Hội nghị chủ trương tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và thủ công nghiệp ở miền nam với mục đích cải tạo là để đẩy mạnh sản
xuất, không làm ồ ạt nóng vội, mệnh lệnh.
Hội nghị Trung ương sáu khóa IV là tìn hiệu mới, có tính chất khởi đầu của quá
trình tìm kiếm giải pháp, tháo gỡ cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. hội nghị cũng đã hế
mở những ý tưởng đi tới tìm tòi con đường thích hợp quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nghị
quyết góp phần thu hẹp khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn của Đảng ta.
Thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành trung ương khía IV
tháng 9/1979, Chính phủ ra quyết định tận dụng đất nông nghiệp, quy định rõ mức được
hưởng đối với tập thể và người lao động có tận dụng đất hoang hóa.
Tháng 10/1979 Hội nghị công bố quyết định xóa bỏ các trạm kiểm soát kiểu ngăn
sông, cấm chợ, người sản xuất được tự do lưu thông hàng hóa ngoài thị trường, không
phải nộp thuế sau khi làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Ngày 23/6/1980, Bộ chính trị Nghị quyết số 26 về cải tiến công tác phân phối lưu
thông. Nghị quyết đánh giá thực trạng phân phối lưu thông là mất cân đối, không quản lý
được nguồn hàng, không nắm được tiền, không làm chủ việc lưu thông tiền tệ và quản lý
thị trường xã hội. Việc cải tiến lưu thông phải nằm trong khuôn khổ của việc cải tạo toàn
bộ hệ thống quản lý kinh tế, chuyển từ lối quản lý hành chính – bao cấp snag phương
thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lấy kế hoạch hóa làm chính, vận dụng đúng các quan
hệ hoàng hóa – tiền tệ, kết hợp đúng ba mục tiêu của việc cải tạo công tác phân phối, lưu
thông trong năm tới là:
- Thúc đẩy sản xuất, trước hết là sản xuất nông nghiệp, khuyến khích tăng năng
suất lao động và hiệu quả kinh tế, làm cho công nhân và nông dân yến tâm sản xuất.
- Ổn định tài chính, lưu thông tiền tệ và thị trường, tăng cường nắm nguồn hàng
trong tay Nhà nước, đặc biệt là những hàng hóa có tính chiến lược như lương thực, củng
cố và phát triển thành phần kinh tế xã hội chũ nghĩa.
- Phân phối hợp lý sản phẩm xã hội vả thu nhập quốc dân trên quy mô toàn xã hội,
giữ vững và từng bước cải thiện đời sống của những người lao động trong khu vực nhà
nước và tập thể là công nhân, cán bộ và nhân dân ở những vùng bị chiến tranh tàn phà và
thiên tai nặng nề.
Nghị quyết 26 đề ra ba bước cỉa tiến lưu thông:
Bước thứ nhất: Tập trung sức khôi phục và phát triển sản xuất; ổn định nền tài
chính quốc gia; thăng bằng thu chi ngân sách nhà nước; giảm phát hành tiền mặt; tăng
cường quản lý và làm chủ thị trường.
Bước thứ hai: Trên cơ sở những tiền đề được tạo ra ở bước thứ nhất, tiến hành cải
cách hệ thống giá bán lẻ và giá thu mua theo nguyên tắc giá cả phù hợp với chi phí sản
xuất và lưu thông, xóa bỏ bù lỗ không hợp lý cho ngân sách; cải cách hệ thống tiền lương
của công nhân và cán bộ nhà nước, tiếp tục củng cố hệ thống tài chính – tiền tệ.
Bước thứ ba: cải cách hệ thống giá bán buôn và hoàn thiện hệ thống phân phối lưu
thông.
Ngày 26 đến ngày 29/8/1980 Ban bí thư họp để nghe thảo luận báo cáo của Ban
Nông nghiệp Trung ương về một số công tác trước mắt trong việc củng cố hợp tác xã
nông nghiệp gắn với xây dựng huyện ở đồng bằng và trung du miền Bắc.
Ngày 21/10/1980, Ban bí thư ra Thông báo số 22 kết luận của ban bí thư về một số
công tác trước mắt trong việc củng cố hợp tác xã nông nghiệp gắn với xây dựng huyện ở
đồng bằng và trung du miền Bắc. Thông báo nêu rõ:
- Trung ương chủ trương điều chỉnh quy mô các hợp tác xã và đội sản xuất cho phù
hợp với cơ sở vật chất và trình độ quản lý của các cán bộ.
- Về công tác khoán trong hợp tác xã và đội sản xuất. Trung ương chủ trương cho
phép các địa phương khoán thử cây lúa. Song phải kiên quyết kịp thời sửa chữa tình trạng
khoán trắng, tiếp tục nghiên cứu vận dụng hình thức khóa sản phẩm cho người lao động.
Tiếp ngày 13/01/1981, ban bí thư ra chỉ thị 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán,
mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp. Nội dung cơ bản là cải tiến mạnh mẽ các hình thức khoán của đội sản xuất đối
với xã viên mở rộng “khoán sản phẩm”. Chỉ thị nêu rõ mục đích là: đảm bảo phát triển
sản xuất và nâng cao hiệu kinh tế trên cơ sở lôi cuốn được mọi người hăng hái lao động,
kích thích tăng năng sức lao động, sử dụng tốt đất đai và các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
có, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất, củng cố tăng cường quan hệ sản
xuất xhcn ở nông thôn, không ngừng nâng cao thu nhập và đời sống xã viên, tăng tích lũy
của hợp tác xã, làm tròn nghĩa vụ và không ngừng tăng khối lượng nông sản cung ứng
cho nhà nước.
Khoán 100 bước đầu đã thay đổi khoán việc bằng khoán sản phẩm và đã khắc phuc
được nhiều hiện tượng tiêu cực tồn tại hàng chục năm trong sản xuất và phân phối ở các
hợp tác xã. Khoán sản phẩm đã thực sự trở thành một cuộc cách mạng trong chỉ đạo quản
lý nông nghiệp của Đảng.
Sau khi nghiên cứu tổng kết những điểm làm thử và để khắc phục tình trạng trì trệ
trong sản xuất công nghiệp, với tinh thần tạo điều kiện cho sản xuất “bung ra” ngày
21/01/1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 25/CP về một số chủ trương và
biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về
tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Cho phép các đơn vị kinh tế thực hiện kế hoạch 3
phần:
Một là, kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước.
Hai là, kế hoạch tự lo, các xí nghiệp tự hoạch toán, lãi được hưởng, lỗ phải chịu.
Ba là, kế hoạch sắp xếp lại sản xuất, nếu nguyên vật liệu dôi ra thì có quyền sản
xuất mặt hàng khác.
Quyết định số 26/CP về mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và
vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước nhằm
khuyến khích người lao động hăng hái sản xuất.
Chỉ thị 100 của Ban bí thư và các quyết định 25/CP và 26/CP của Hội đồng Chính
phủ là những thử nghiệm, tìm kiếm và bước đầu đạt thành công trên co đường đổii mới tư
duy kinh tế của Đảng theo tinh thần của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu. Đây chính là
sự đổi mới từng phần dẫn đến đổi mới toàn bộ sau này.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp tại Thủ Đô Hà Nội từ ngày 27
đến 31/3/1982. Đại hội đánh gía những yếu kém của 05 năm thực hiện những mục tiêu,
nhiệm vụ do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV đề ra. Đại hội chủ trương tổng kết
bước đầu thực hiện chỉ thị 100 của ban bí thư, quyết định 25, 26 của hội đồng chính phủ
để xóa bỏ cách quản lý cũ và chuyễn sang cách quản lý mới. Đại hội xác định nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đầu tư cho nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất tiêu dùng. Coi
ổn định tình hình kinh tế - xã hội là nhiệm vụ bức thiết nhất.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, cả nước sôi nổi đổi mới cơ chế
quản lý trong nông nghiệp, công nghiệp, phát triển kinh tế gia đình.Chỉ thị 100 của Ban
bí thư tiếp tục phát huy giá trị chỉ đạo tích cực, song một số địa phương đặt ra mức khoán
quá cao ảnh hưởng đến lợi ích người lao động, đã có nơi xã viên trả lại ruộng đất cho hợp
tác xã.
Ngày 22/6/1985, Ban bí thư ra chỉ thị số 67-CT/TW về cải tiến quản lý kinh tế,
hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm người lao động trong các hợp tác
xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp nhằm uốn nắn kịp thời những sai lệch trong công tác
khoán.
Bước đột phá thứ 2: Hội nghị trung ương tám khoasV bàn về giá, lương, tiền
Hội nghị lần thứ tám BCH Trung ương khóa V họp ngày 1 đến ngày 07/6/1985 bàn
về giá lương tiền đây là hội nghị thứ hai đột phá đổi mới: quyết định dứt khoát xóa bỏ cơ
chế quan liêu bao cấp chuyển sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lấy
giá, lương, tiền làm khâu đột phá
- Về giá: Thay đổi cách làm, tính đúng, tính đủ trong giá thành sản phẩm (đầu
vào , đầu ra). Người sản xuất có lãi, dần dần tiến tới thực hiện cơ chế một giá.
- Thay đội tiền lương, làm cho người lao động có đủ calo để tái sản xuất lao động.
Xóa bỏ tem phiếu, trả lương bằng tiền. các tổ chức kinh tế phải chịu trách nhiệm lỗ lãi.
- Thay đổi đơn vị tiền tệ để chống lạm phát.
Như vậy, hội nghị đổi mới tư duy trên lĩnh vực lưu thông phân phối với nét nổi bật
là thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa.
Bước đột phá thứ 3: Những kết luận về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế
của Bộ Chính trị ngày 20/9/1986
Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa V họp tháng 12/1985 và Hội
nghị lần thứ mười Ban chấp hành Trung ương khóa V họp tháng 5/1986, kiểm điểm sai
lầm về việc đổi tiền, những ách tắc của việc điều chỉnh giá – lương – tiền, đề ra những
giải pháp để khắc phục những tác động tiêu cực của tổng điều chỉnh giá – lương –tiền,
tiếp tục khẳng định những giải pháp và chính sách mới.
Hội nghị Bộ chính trị họp phiên đặc biệt từ ngày 25 đến ngày 30/08/1986. Ngày
20/9/1986, Bộ chính trị có kết luận về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế. về cơ cấu
- Xem thêm -