LUẬN VĂN:
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ, theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nghĩa là dân làm chủ, dân
là chủ. NN ta là NN của dân, do dân và vì dân, nhưng đó là NN quản lý xã hội bằng pháp
luật. Xây dựng NN pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân chính là cách thức cơ
bản để phát huy QLC của nhân dân.
Một trong những điểm cơ bản để xây dựng NN pháp quyền, phát huy QLC của
nhân dân là phải không ngừng xây dựng và thể chế hóa mục tiêu, phương châm, những
nguyên tắc vận hành của nền dân chủ XHCN ở nước ta. Với ý nghĩa đó, ngày 18/2/1998,
Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ta đã ban hành Chỉ thị số 30/CT - TW về
thực hiện QCDC ở cơ sở. Bản Chỉ thị đã quy định cụ thể trách nhiệm, nhiệm vụ của
MTTQ cùng các tổ chức chính trị - xã hội trong việc xây dựng và thực hiện QC này ở xã.
Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện QCDC đã quy định trách
nhiệm của UBMTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm 3 việc: Phải làm tốt công
tác tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong hội viên, đoàn viên và nhân dân chỉ thị này và
các QCDC ở cơ sở; Làm cho mọi người hiểu và sử dụng đúng quyền và nghĩa vụ công
dân, quyền của các tổ chức chính trị - xã hội đã được quy định trong QCDC; Phối hợp
với CQ trong việc thực hiện QCDC và giám sát thực hiện các QCDC ở cơ sở.
Trong thời gian qua, việc thực hiện các công tác nêu trên, nhìn về cơ sở thì công
tác MT tham gia thực hiện 5 khâu trong QCDC có nhiều khởi sắc. Trong 5 khâu: Những
việc cần thông báo để nhân dân biết; Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp;
Những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, CQ quyết định; Những việc nhân dân giám
sát và xây dựng cộng đồng dân cư ở thôn, làng, ấp bản, thì ở khâu thứ 2 và thứ 5, hoạt
động của UBMTTQ là rõ nét và đạt khá nhiều kết quả.
Để tham gia thực hiện tốt cả 5 khâu trong QCDC, mấy năm qua UBMTTQ các
cấp đã tập trung chỉ đạo việc kiện toàn củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của
Ban công tác MT, Ban TTND, UBMTTQ cấp xã. Tuy nhiên, công tác chỉ đạo của MT
các cấp là chưa đều, nhất là ở địa phương, cơ sở. Năm 1998, công tác chỉ đạo triển khai
rất rầm rộ. CQ, MTTQ tập trung làm điểm ở xã, phường. Năm 1999, UBMTTQ tập trung
làm công tác bầu cử đại biểu HĐND nên buông lơi, từ năm 2000 trở lại đây mới lại được
tiếp tục tăng cường hơn. Nhiều nơi, Ban Thường trực UBMTTQ bị động, lúng túng trong
việc đề ra biện pháp chỉ đạo cho phù hợp với tình hình, đặc điểm của ĐP mình.
Kể từ khi được Chính phủ ban hành ngày 11-5-1998 đến nay QCDC đã thực
hiện được hơn 6 năm. Tuy nhiên, theo Ban chỉ đạo thực hiện QCDC TW, 100% xã,
phường đã triển khai, nhưng chỉ có 38% làm tốt; 97% cơ quan hành chính NN đã thực
hiện, nhưng chỉ có 29% làm tốt; 88% doanh nghiệp NN đã triển khai, song cũng chỉ có
32% làm tốt; tính hình thức còn khá phổ biến trong nhiệm vụ triển khai QCDC của cấp
ủy đảng, CQ, MTTQ (công tác MT tham gia thực hiện QCDC được thực hiện chủ yếu ở
xã, phường) cơ sở. Việc kiện toàn củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban công
tác MT, Ban TTND, UBMT làm còn chậm: một số cán bộ xã, phường chưa nắm được
QCDC và công tác MT tham gia thực hiện QCDC; hoạt động giám sát của MT và đoàn
thể chính trị - xã hội ở xã còn rất yếu; công tác tuyên truyền vận động nhân dân học tập
nắm vững các quan điểm của Bộ Chính trị, nội dung QLC trực tiếp trong QC còn làm
lướt, hình thức; việc lồng ghép nội dung công tác MT tham gia thực hiện QCDC với ba
nội dung cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"
chưa chặt chẽ.
UBMTTQ các cấp đã phối hợp với CQ cùng cấp tiến hành sơ kết 3 năm và trong
năm 2004 đã tổng kết 6 năm thực hiện Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị, qua đó cũng cho thấy
việc tiếp tục nghiên cứu mang tính tổng kết thực tiễn và chỉ ra khuynh hướng phát triển,
các giải pháp trong thời gian tới để MT phát huy tốt hơn vai trò của mình trong việc thực
hiện QCDC ở cơ sở là việc làm mang tính cấp bách cả về phương diện lý luận lẫn thực
tiễn.
Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, Đại hội IX đã tiếp tục khẳng định và
phát triển những chủ trương và quan điểm lớn về đại đoàn kết dân tộc, phát huy dân chủ
trong thời kỳ đổi mới đã được đề ra tại các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng để thực hiện
mạnh mẽ hơn nữa sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân và phát huy dân chủ - hai mệnh đề
then chốt trong đường lối chiến lược của Đảng ta để đưa đất nước đi lên.
Có thể nói, cả hiện tại và trong thời gian tới, nhu cầu và điều kiện khoa học cũng
như thực tiễn về hoàn thiện hơn nữa pháp luật về MTTQ trong thực hiện quy chế dân chủ
trong tình hình mới ngày càng chín muồi. Cho đến bây giờ vẫn chưa có một công trình
khoa học pháp lý nào khảo cứu một cách toàn diện về mặt lý luận và thực tiễn vấn đề
phát huy vai trò của MTTQVN trong thực hiện QCDC ở cơ sở và về những bảo đảm
pháp lý cho hoạt động của MTTQ để tham gia thực hiện tốt hơn nữa QC. Vì vậy, việc
nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn và pháp lý vò MTTQ trong thực hiện QCDC
là vấn đề bức xúc và cần thiết. Với tất cả các ý nghĩa đã, chúng tôi đã chọn đề tài: " Phỏt
huy vai trũ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở "
làm luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện chủ trương hướng về cơ sở của Đảng đã có một số công trình nghiên cứu
về dân chủ, dân chủ ở cơ sở như: "QC thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn" của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do PGS.TS. Dương Xuân Ngọc
chủ biên, NXBCTQG năm 2000, "Thực hiện QCDC và xây dựng CQ cấp xã ở nước ta hiện
nay" của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn
Thông chủ biên, "Dân chủ và việc thực hiện QCDC ở cơ sở" do TS. Lương Gia Ban chủ
biên, NXB CTQG năm 2003, "Hướng dẫn triển khai QCDC cơ sở" của Bộ Nội vụ, NXB
CTQG 2001, "Xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở" của Ban Dân vận Trung ương, một số
công trình khác của MTTQVN như: đề tài khoa học cấp bộ "Phát huy vai trò của MTTQVN
trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở", của một số Viện nghiên cứu và trường đại học... Về đề
tài khoa học cấp bộ "Phát huy vai trò của MTTQ trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở" của
MTTQ đã được triển khai dưới dạng đề án để đáp ứng nhu cầu chỉ đạo thực tiễn của
MTTQTW và hướng dẫn công tác hàng ngày của MTTQ cơ sở trong việc tham gia thực hiện
QC trên cơ sở kết quả tổng kết 3 năm việc thực hiện QCDC. Đề tài này đã bước đầu giải
quyết những vấn đề sau: quan điểm của Đảng ta đối với việc MTTQ tham gia thực hiện
QCDC, thực trạng 3 năm MTTQ tham gia thực hiện QC và một số giải pháp và kiến nghị
nhằm phát huy vai trò của MTTQ trong việc thực hiện QCDC. Song vấn đề về phát huy vai
trò của MTTQ trong thực hiện QCDC ở cơ sở dưới giác độ khoa học pháp lý với thực tiễn
hơn 6 năm thực hiện QC có thể nói cho đến nay chưa có công trình nào. Do vậy, có thể nói
đề tài nghiên cứu mà tác giả luận văn chọn: "Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở" là công trình đầu tiên nghiên cứu vấn đề này
dưới giác độ khoa học lý luận về NN và pháp luật một cách đầy đủ và có hệ thống. Tuy
nhiên, luận văn cũng phát triển trên cơ sở kế thừa các công trình đi trước ở một số vấn đề,
chẳng hạn phát triển trên cơ sở kế thừa đề tài khoa học cấp bộ "Phát huy vai trò của
MTTQVN trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở" về quan điểm chỉ đạo trong tham gia thực
hiện QC của MTTQ, về lý luận về vai trò của MTTQ đối với dân chủ nói chung và dân chủ
ở cơ sở nói riêng, về số liệu cũng như đánh giá thực trạng 3 năm MTTQVN tham gia thực
hiện QC và về những giải pháp phát huy vai trò của MTTQVN trong việc thực hiện QCDC ở
cơ sở.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích
1. Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
MT trong HTCT về việc thực hiện QCDC ở cơ sở, phát huy QLC của nhân dân.
2. Làm rõ thực trạng hoạt động của MTTQVN trong việc tham gia thực hiện
QCDC ở cơ sở.
3. Xác định nội dung nhiệm vụ và đề ra những giải pháp khả thi nhằm phát huy
vai trò tích cực của UBMTTQ các cấp, nhất là cấp cơ sở trong việc thực hiện QCDC ở
xã, phường, tăng cường đoàn kết, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Nhiệm vụ
Đó đạt được mục đích trên nhiệm vụ của luận văn là:
1. Nghiên cứu về vị trí, vai trò, chức năng của MT với vấn đề dân chủ, đoàn kết
trong thời kỳ mới; trong việc tham gia thực hiện QCDC ở xã.
2. Nghiên cứu về việc UBMTTQ tham gia thực hiện QCDC ở xã, phường - thực
trạng, nguyên nhân và những kinh nghiệm thực tiễn.
3. Nghiên cứu về chủ trương, giải pháp nhằm phát huy vai trò của MT trong việc
thực hiện QCDC ở cơ sở trong thời gian tới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Ngoài những phương pháp chung như: phương pháp duy vật biện chứng, phương
pháp duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh chú trọng phương pháp
điều tra xã hội học, phương pháp định tính, định lượng trong quá trình phân tích ảnh
hưởng của MTTQ đối với việc thực hiện QCDC ở cơ sở.
Một số phương pháp chuyên ngành như mô hình hóa, khảo sát tổng kết dựa vào
thông số từ nghiên cứu thực tiễn cơ sở để xây dựng những luận điểm có tính lý luận - đây là
phương pháp quan trọng để thực hiện nghiên cứu đề tài này.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Trên cơ sở làm rỗ những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc phát huy vai trò của
MTTQ trong thực hiện QCDC, luận văn: 1. Lần đầu tiên trình bày một cách có hệ thống
dưới giác độ khoa học pháp lý vấn đề MTTQ trong tham gia thực hiện QCDC; 2. Nêu
những quan điểm chỉ đạo phát huy vai trò của MTTQ trong thực hiện QC; 3. Đưa ra các
giải pháp nhằm phát huy vai trò của MTTQVN trong thực hiện QC.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc phát triển và hoàn thiện
các căn cứ khoa học và thực tiễn để hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và pháp
luật của NN về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện QCDC ở nước ta hiện nay. MT các cấp
có thể sử dụng kết quả nghiên cứu của luận văn để thực hiện có hiệu quả hơn vai trò của
mình đối với QC ở xã.
- Các trường Đảng, trường luật, trường hành chính, các viện nghiên cứu... có thể
sử dụng kết quả nghiên cứu làm tài liệu tham khảo
7. kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 10 tiết.
Chương 1
DÂN Chủ Và DÂN Chủ ở CƠ Sở
và VAI Trò Của Mặt Trận Tổ Quốc Việt NAM
TRONG Thực Hiện QUY Chế DÂN Chủ CƠ Sở ở Xã
1.1. Dân chủ và Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Khái niệm về dân chủ và dân chủ ở cơ sở
Khái niệm "dân chủ" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "demos", nghĩa là nhân dân
và "kratos" - CQ, quyền lực. "Demokratia" có nghĩa là quyền lực của nhân dân, CQ của
nhân dân. Dân chủ là một CQ "của dân, do dân và vì dân". Như vậy, dân chủ là một thể
chế do dân làm chủ và dân chủ trước hết là chế độ chính trị trong đó quyền lực tối cao
thuộc về nhân dân, do nhân dân thực thi, tự bản thân thực thi hoặc thông qua các đại biểu
mà mình bầu ra. Dân chủ gồm có dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp
là hình thức dân chủ với những thiết chế, quy chế để người dân thảo luận và biểu quyết
những vấn đề chung của cộng đồng. Dân chủ đại diện là hình thức dân chủ trong đó nhân
dân cử ra (chủ yếu bằng bầu cử) người thay mặt mình nắm giữ quyền lực NN. Còn có
dân chủ bán trực tiếp là hình thức dân chủ thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp... của các tầng lớp nhân dân. Dân chủ có dân chủ tư sản
và dân chủ XHCN. Đặc trưng của dân chủ XHCN là quyền dân chủ của công dân không
ngừng được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của NN, của xã hội mà cơ bản
nhất là dân chủ về kinh tế. Trên lĩnh vực chính trị- xã hội, quyền tham gia quản lý NN
của dân và các đoàn thể nhân dân ngày càng được mở rộng về phạm vi, về độ sâu và
phong phú đa dạng về các hình thức.
Dân chủ có thể hiểu là một cách thức và những điều kiện kèm theo để mọi người
dân tham gia bình đẳng vào các công việc chính trị, kinh tế, xã hội với vai trò là người
chủ xã hội. Khi một người nông dân cầm lá phiếu đi bầu cử một cách tự nguyện để lựa
chọn một cách tự do người đại biểu của mình trong HĐND xã - có nghĩa là quyền dân
chủ về chính trị được thực hiện. Khi các hộ nông dân được tham gia ý kiến vào việc quy
hoạch đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng làng xã, v.v... và những ý kiến này được lắng nghe,
trở thành quyết định và hành động của CQ và nhân dân xã có nghĩa là các hộ nông dân
thực hiện một cách thực sự quyền dân chủ trong đời sống kinh tế của làng, xã. Khi người
dân đặt ra những yêu cầu đòi hỏi CQ có các biện pháp nhằm cải thiện chất lượng y tế,
giáo dục, vệ sinh môi trường, trật tự an ninh xã hội - đây cũng là lúc người dân đang thực
hiện QLC của mình.
Đòi hỏi của người dân được biết về các hoạt động của CQ, đòi hỏi về trách
nhiệm của CQ đối với dân trong việc thực thi các thủ tục hành chính liên quan đến đất
đai, xây dựng, hộ tịch, khai sinh, kinh doanh, sản xuất, v.v... - đây là biểu hiện của quyền
dân chủ của nhân dân.
Dân chủ còn có thể được hiểu như một nhu cầu tất yếu, đòi hỏi đương nhiên của
dân cần có một vị thế thực sự bình đẳng trong quan hệ giữa NN và dân. Đồng thời, dân
chủ còn được hiểu là trách nhiệm của CQ, của cán bộ, công chức cấp TW cũng như cấp
xã, thực hiện quyền hạn của mình một cách chí công vô tư, không quan lại, hách dịch,
tham nhũng, vụ lợi.
Bản chất của NN ta được khẳng định trong Hiến pháp, là NN của dân, do dân, vì
dân. Tuy vậy trong thực tế, cán bộ, công chức NN chưa thực sự là người công bộc của
dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mong muốn. Nếu không thực hiện dân chủ, NN sẽ trở
nên độc tài, chuyên chế, và do đó dân phải học để làm chủ; NN phải bảo đảm cơ chế để
lắng nghe dân. Do vậy, nói tới dân chủ có nghĩa là nói đến mối quan hệ giữa dân và CQ
mà ở đó CQ phải lắng nghe dân, phải tạo điều kiện để người dân được quyết định hoặc
tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến cuộc sống và sự phát triển của mỗi
người dân, của cả cộng đồng. Điều này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng ở cấp xã,
phường, thị trấn.
Trong thực tế chưa có một xã hội nào đạt được tình trạng dân chủ tuyệt đối do
nhiều lý do khách quan và chủ quan, như: trình độ phát triển kinh tế - xã hội, năng lực
nhận thức của dân và của CQ, truyền thống lịch sử, văn hóa pháp quyền, v.v... Vì thế, dân
chủ còn được hiểu như một mục tiêu phấn đấu của dân tộc Việt Nam như đã ghi rõ trong
Hiến pháp là: thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Những mục tiêu đó đều có mối liên hệ gắn bó với nhau. Dân có giàu thì nước với
mạnh. Có dân chủ thì mới có công bằng xã hội. Có dân chủ thực sự thì dân mới giàu và
quốc gia mới mạnh. "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong"
[2, tr. 554]. Đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng và dân chủ là những yếu tố không thể
thiếu được của một nền văn minh. Với mục tiêu phấn đấu như vậy, việc phát huy dân
chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở, được coi là chủ trương, biện pháp và là hành động tất yếu
của nhân dân và CQ trong quá trình phát triển của đất nước ta.
Dân chủ được đảm bảo và phát huy bằng nhiều biện pháp. Việc thực thi dân chủ
luôn gắn liền với mối quan hệ giữa NN và nhân dân. ở nước ta hiện nay, HTCT dựa trên
thiết chế "Đảng lãnh đạo, NN quản lý, nhân dân làm chủ". Việc phát huy, thực hiện dân chủ
được tiến hành không tách rời thiết chế này.
Dân chủ mang lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Phát huy dân chủ là phát huy
sức mạnh vật chất và tinh thần trong dân vì sự phát triển và giảm nghèo. Khi nhân dân
thực hiện quyền quyết định các công việc của làng, xã, ý thức làm chủ của dân được
khẳng định rõ rệt. Với ý thức làm chủ, mọi sáng kiến, nguồn lực của mỗi người dân, mỗi
gia đình trong cộng đồng làng, xã được phát huy một cách tốt nhất để vượt qua những
thách thức và khó khăn nhằm đạt tới sự phồn thịnh, phát triển của cộng đồng. ý thức làm
chủ sẽ là động lực quan trọng giúp họ gìn giữ bảo quản tốt hơn thành quả đạt được. Một
ví dụ minh chứng là trường hợp xây dựng hệ thống thủy lợi nhỏ nội đồng. Các hộ sử
dụng nước được quyền tự quyết định đóng góp, tự quyết định mức thu thủy lợi phí, tự
tiến hành bảo quản và duy trì hệ thống công trình tưới tiêu nội đồng. Với QLC trong việc
khai thác và quản lý việc sử dụng nước cho nông nghiệp như vậy, bà con nông dân thực
sự thực hiện QLC của mình, nhiệt tình đóng góp kinh phí, tổ chức quản lý hệ thống tưới
tiêu một cách hiệu quả nhất, giảm thiểu tối đa những chi phí không cần thiết. Với ý thức
làm chủ thực sự, bà con nông dân cùng nhau gìn giữ, bảo dưỡng công trình được hoàn
thành với sự đóng góp tiền của và công sức của mình, độ bền của công trình được bảo
đảm tốt hơn. Khi thực hiện QLC người dân biết chăm lo và có ý thức hơn về cuộc sống
cộng đồng, cùng nhau đoàn kết để giải quyết những vấn đề phát triển kinh tế, xã hội cộng
đồng. Với truyền thống "lá lành đùm lá rách" bầu không khí dân chủ, công khai ở làng xã
là điều kiện thuận lợi và thúc đẩy những hoạt động của cộng đồng tự giúp đỡ lẫn nhau
xóa đói, giảm nghèo. Đây là một thực tế đang diễn ra và ngày càng được nhân rộng ở
những địa phương thực hiện tốt QCDC ở cơ sở.
Dân chủ thúc đẩy sự minh bạch, hạn chế sự lạm quyền, tham nhũng. Sự minh
bạch, rõ ràng trong các hoạt động kinh tế xã hội được đảm bảo khi người dân được thực
hiện quyền được biết, được kiểm tra, giám sát hoạt động của CQ, nhất là trong lĩnh vực
thu, chi tài chính. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng làm hạn chế những hành vi lạm
dụng quyền hạn, tham nhũng của cán bộ, công chức CQ.
Dân chủ thúc đẩy quan hệ gần gũi và hợp tác giữa CQ với dân. Khi dân chủ được
phát huy, tệ tham nhũng, lạm dụng quyền lực, quan liêu sẽ bị hạn chế và dần bị loại bỏ
khỏi đời sống xã hội; CQ trở nên minh bạch, thực sự trở thành CQ phục vụ dân và vì dân.
Sự tin cậy của dân đối với CQ sẽ ngày càng tăng. Dân sẽ quan hệ chặt chẽ và hợp tác với
CQ.
Dân chủ tăng cường kỷ cương và ổn định xã hội. Với những thành quả như đã
nêu trên do phát huy và tăng cương dân chủ, cộng đồng dân cư ở cơ sở sẽ đoàn kết và ổn
định. Kỷ cương xã hội sẽ được tăng cường không chỉ bởi ý thức tôn trọng pháp luật, mà
còn do sự tự nguyện, tự giác của nhân dân với tư cách là những người chủ cộng đồng.
Cơ sở là đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động như sản
xuất, công tác, v.v. của một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với các bộ phận lãnh đạo cấp
trên [77, tr. 209]. Như vậy, cấp cơ sở là cấp xã trong quan hệ với cấp ĐP (gồm cấp tỉnh
và cấp huyện) và với cấp TW. CQ cơ sở là CQ cấp xã. Bởi vì, căn cứ vào việc phân bổ
dân cư và lãnh thổ thành đơn vị hành chính thì CQ cấp xã và cấp tương đương là cấp CQ
cơ sở. Vì đây là cấp CQ cuối cùng, gần và sát dân nhất. Còn thôn, làng, ấp, bản, tổ dân
phố và tương đương là theo đơn vị dân cư - với tư cách là những cộng đồng người nhỏ
nhất sinh sống cùng nhau. ở đây, đời sống dân cư diễn ra tự quản là chính. Dân chủ ở cơ
sở là dân chủ ở cấp xã, phường, thị trấn và thôn, làng, ấp, bản, khóm, tổ dân phố (là các
hình thức cộng đồng dân cư như đã nêu). Dân chủ ở cơ sở chủ yếu là thực hiện hình thức
dân chủ trực tiếp (mặc dù có cả dân chủ đại diện), và các hình thức tự quản của cộng
đồng dân cư. Dân chủ cơ sở có ý nghĩa vô cùng to lớn, vì cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện
mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của NN, là nơi cần thực hiện quyền
dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Trải qua 60 năm xây dựng NN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành quả quan trọng: đất nước đã được độc lập tự
do, thống nhất và ngày nay toàn Đảng, toàn dân đang ra sức phấn đấu xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, trong quá
trình xây dựng cũng bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm. Về tình hình đó, đồng chí Đỗ
Mười đã nêu rõ: "... trong nội bộ Đảng và NN ta, tình hình tiêu cực, suy thoái phẩm chất
vẫn có chiều hướng phát triển, nhất là tệ quan liêu và nạn tham nhũng, tác hại không nhỏ
đến việc củng cố NN, làm nhân dân lo lắng, đang thực sự là một nguy cơ đối với chế độ
XHCN, đối với con đường mà nhân dân ta đã lựa chọn" [3, tr. 4]. Tháng 3/1998, đồng chí
Lê Khả Phiêu, cũng đã nêu bật tính cấp thiết của việc xây dựng QCDC cơ sở, đồng chí
chỉ rõ:
... QLC của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực;
tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho
dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa ngăn chặn, đẩy lùi
được. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ
thể hóa và thể chế hóa thành pháp luật, cho nên chậm đi vào cuộc sống. Tình
trạng mất dân chủ, không để dân bàn bạc và quyết định những công việc cụ
thể liên quan trực tiếp đến đời sống của dân, bắt dân đóng góp nhiều khoản
vượt quá khả năng, lại không minh bạch về tài chính, thậm chí xà xẻo vào
những khoản tiền do dân đóng góp như ở một số xã thuộc tỉnh Thái Bình và
vài nơi khác; tình trạng để tồn đọng hàng vạn đơn khiếu tố bị đùn đẩy không
giải quyết hoặc giải quyết không kịp thời, không đúng; tình trạng quan liêu,
quản lý lỏng lẻo để thất thoát lớn trong một số ngân hàng hoặc gây lãng phí
lớn trong xây dựng, v.v. chẳng những làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối
với Đảng và CQ mà còn làm triệt tiêu nguồn động lực của nhân dân và xâm
phạm vào bản chất tốt đẹp của chế độ [4, tr. 4].
Trước tình hình đó, Nghị quyết TW 3 khóa VIII (6/1997) nêu rõ yêu cầu: Tiếp
tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn QLC của dân qua các hình thức dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp; tiếp tục hoàn thiện NNCHXNCNVN đảm bảo trong sạch, vững mạnh
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với NN, mở rộng dân chủ XHCN, phát huy QLC
của nhân dân trong xây dựng và quản lý NN [5]. Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy QLC
của nhân dân phải được thể hiện trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng,
an ninh, từ việc xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách đến tổ chức bộ máy, phong cách
làm việc, bao quát mọi hoạt động của mọi cấp, mọi ngành, từ TW đến ĐP và cơ sở. Vấn
đề dân chủ, bảo đảm QLC của nhân dân để phát huy động lực, thực hiện mục tiêu CNH,
HĐH, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải được đặt
ra cho cả HTCT, phải tác động hai chiều dưới lên, trên xuống, cả trong Đảng và trong
nhân dân.
Thực tiễn cho thấy, muốn phát huy được QLC trực tiếp của dân ở cơ sở, Đảng
phải lãnh đạo, phải có quan điểm chính sách lớn để định hướng, đồng thời phải xây dựng
được thiết chế dân chủ ở cơ sở một cách cụ thể, phù hợp với từng đối tượng dân cư. Đó là
những quy định có giá trị pháp lý do NN ban hành mang tính bắt buộc mọi người, mọi tổ
chức nghiêm chỉnh thực hiện. Do vậy, ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số
30/CT-TW về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở nhằm "giữ vững và phát huy QLC
của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý NN, tham gia kiểm kê, kiểm soát NN, khắc
phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng" [6, tr. 3]. Chỉ thị
nhấn mạnh: khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy QLC của nhân dân ở cơ
sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và NN, là nơi cần thực
hiện QLC của dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Vì cơ sở là nơi đông đảo nhân dân
(bao gồm nông dân, công nhân, cán bộ, công chức, viên chức, quân nhân và các thành
phần lao động khác) sinh sống hàng ngày. Cơ sở là nơi sản xuất, kinh doanh, lao động,
học tập, nơi nảy sinh nhiều yêu cầu bức xúc hàng ngày về đời sống kinh tế, xã hội, chính
trị, nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và NN. Cơ sở là nơi nhân
dân đang có nhiều đòi hỏi về làm chủ và cũng là nơi có điều kiện thực hiện quyền dân
chủ một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Bộ Chính trị cũng chỉ rõ, thực hiện dân chủ ở cơ
sở sẽ thúc đẩy cải cách hành chính, sửa đổi những cơ chế chính sách và thủ tục hành
chính không phù hợp với cuộc sống. Nhân dân ở cơ sở thực hiện QLC, tham gia kiểm kê,
kiểm soát sẽ tích cực xây dựng Đảng, CQ, đoàn thể trong sạch, vững mạnh, tích cực đấu
tranh bài trừ tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Muốn vậy, cần ban
hành QCDC ở cơ sở có tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải
nghiêm chỉnh thực hiện.
Thực hiện Chỉ thị 30/CT-TW, UBTV Quốc hội (khóa X) ra Nghị quyết số 451998/NQ-UBTVQH 26/2/1998 về việc ban hành QC thực hiện dân chủ ở xã. Nghị quyết
giao Chính phủ ban hành QC thực hiện dân chủ với các định hướng nội dung cụ thể. Thực
hiện chủ trương của Đảng và Nghị quyết của UBTV Quốc hội, ngày 11/5/1998, Chính phủ
đã ban hành NĐ số 29/1998/NĐ-CP (nay là NĐ số 79/2003/NĐ-CP) về việc ban hành
QCDC. NĐ nêu rõ: "Điều 1: Ban hành kèm theo NĐ này bản QC thực hiện dân chủ ở xã.
Điều 2: QC này áp dụng đối với cả phường và thị trấn" [7]. QCDC ở cơ sở còn bao gồm
cả dân chủ trong cơ quan hành chính NN và đơn vị doanh nghiệp NN với các văn bản qui
định riêng.
Những văn bản trên đây từ chủ trương của Đảng đến việc thể chế hóa bằng các
văn bản pháp luật của NN thể hiện sự quan tâm của Đảng, NN ta đối với việc xây dựng
thể chế về dân chủ ở cơ sở. Thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra" thể hiện bản chất NN là NN của dân, do dân, vì dân.
QC thực hiện dân chủ ở cơ sở gồm các văn bản quy phạm pháp luật qui định
những biện pháp làm chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở xã, phường, cơ quan hành chính
NN và đơn vị doanh nghiệp NN. Đó là những điều nhân dân phải được biết, những việc
nhân dân được bàn để NN quyết định hoặc nhân dân được quyết định và những việc
nhân dân được giám sát, kiểm tra, nhằm phát huy QLC, sức sáng tạo của nhân dân.
QC thực hiện dân chủ ở xã là văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể những
việc HĐND và UBND xã phải thông tin kịp thời và công khai để dân biết; những việc
dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan NN
quyết định; những việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện QCDC ở xã
nhằm phát huy QLC, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và
tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng
cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng bộ, CQ và các đoàn
thể ở xã trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu,
tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, theo định hướng XHCN.
QC thực hiện dân chủ ở xã, vì vậy, thực chất là một định chế pháp lý bảo đảm QLC của
dân.
QC thực hiện dân chủ ở xã có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, khác với các QC thông thường, QC thực hiện dân chủ là một văn bản
quy phạm pháp luật, cụ thể hóa và luật hóa phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra" bằng một NĐ của chính phủ căn cứ vào Nghị quyết của UBTV Quốc hội
(Nghị quyết số 45-1998/NQ-UBTVQH 26/2/1998 về việc ban hành QC thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn).
Thứ hai, QC thực hiện dân chủ ở cơ sở là sự cụ thể hóa dân chủ XHCN ở cơ sở,
phát huy QLC của nhân dân gắn liền với cơ chế "Đảng lãnh đạo, NN quản lý, nhân dân
làm chủ".
Thứ ba, QC thực hiện dân chủ ở cơ sở phát huy chế độ dân chủ đại diện, nâng cao
chất lượng và hiệu lực hoạt động của CQĐP, cơ sở, quy định những nghĩa vụ cụ thể của
CQ trong việc bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ sở.
Thứ tư, QC thực hiện dân chủ ở cơ sở thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp ở cơ sở
để nhân dân bàn bạc và trực tiếp quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn
với quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân
Thứ năm, có sự tham gia của MT và các đoàn thể nhân dân ở mọi khâu trong
thực hiện QC ở cơ sở để phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của nhân dân trong việc thực
thi nền dân chủ XHCN.
Thứ sáu, mục đích của việc ban hành QC thực hiện dân chủ ở xã là nhằm phát
huy QLC, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to
lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn
định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng bộ, CQ và các đoàn thể ở xã trong
sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng
của một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, theo định hướng XHCN.
Thứ bảy, QC thực hiện dân chủ ở cơ sở thể hiện yêu cầu dân chủ phải trong
khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật; đi đôi với trật tự, kỷ cương; quyền đi đôi với
nghĩa vụ; kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ, vi phạm Hiến pháp, pháp
luật, xâm phạm lợi ích của NN, lợi ích tập thể, quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp
của công dân.
1.1.3. Nội dung của Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở ở xã
QC thực hiện dân chủ ở xã do Chính phủ ban hành ngày 15/5/1998 (nay là NĐ số
79/2003/NĐ-CP) gồm Lời nói đầu, 7 chương và 25 điều. Về nội dung, QC quy định
những quyền của nhân dân ở cơ sở được biết và hình thức biết những thông tin liên quan
đến pháp luật, chủ trương chính sách của NN, đặc biệt là những thông tin liên quan trực
tiếp đến đời sống dân sinh. QC cũng quy định những việc để nhân dân bàn và quyết định
cũng như những hình thức thực hiện; quy định những việc nhân dân ở cấp xã có quyền
giám sát, kiểm tra và những phương thức để thực hiện giám sát, kiểm tra; việc xây dựng
cộng đồng dân cư thôn, làng, bản, ấp và những hình thức tổ chức. Đặc biệt, để thực hiện
phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", QC quy định cơ chế thực hiện
dưới hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, trong đó ở cấp cơ sở, dân chủ
trực tiếp là quan trọng.
QCDC cơ sở quy định cụ thể các loại công việc để: dân biết, dân bàn, dân giám
sát, kiểm tra. Điều 1 Qc quy định: "QC này quy định cụ thể những việc HĐND và UBND
xã phải thông tin kịp thời và công khai để dân biết; những việc dân bàn và quyết định
trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan NN quyết định; những việc
dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện QCDC ở xã".
Về dân biết, QC quy định quyền của mọi người dân được thông tin về những chủ
trương, chính sách pháp luật của NN, các vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống hàng
ngày của nhân dân tại cơ sở... và nghĩa vụ của CQ phải thông tin kịp thời và công khai
cho người dân, bao gồm 14 điểm sau:
1. Chủ trương, chính sách, pháp luật của NN liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích
của nhân dân trong xã, bao gồm: a) Các nghị quyết của HĐND, quyết định của UBND xã và
của cấp trên liên quan đến ĐP; b) Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải
quyết các công việc liên quan đến dân; c) Những quy định của NN và CQĐP về đối tượng,
mức thu các loại thuế, phí, lệ phí và các nghĩa vụ khác đối với nhân dân theo quy định của
pháp luật hiện hành;
2. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hàng năm của xã;
3. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai;
4. Dự toán và quyết toán ngân sách xã hàng năm;
5. Dự toán, quyết toán thu chi các quỹ, chương trình, dự án, các khoản huy động
nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng của xã,
thôn và kết quả thực hiện;
6. Các chương trình, dự án do NN, các tổ chức và cá nhân đầu tư, tài trợ trực tiếp
cho xã;
7. Chủ trương, kế hoạch vay vốn phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo;
8. Điều chỉnh địa giới hành chính xã và các đơn vị hành chính liên quan đến xã;
9. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của
cán bộ xã, thôn;
10. Công tác văn hóa, xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự,
an toàn xã hội của xã;
11. Sơ kết, tổng kết hoạt động của HĐND, UBND xã;
12. Phương án dồn điền, đổi thửa phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển
nông nghiệp, kinh tế trang trại, hợp tác xã;
13. Bình xét các hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất và xây dựng nhà tình
thương; thực hiện chính sách đối với gia đình có công với cách mạng, gia đình liệt sĩ,
thương binh, bệnh binh được tặng nhà tình nghĩa, sổ tiết kiệm, thể bảo hiểm y tế;
14. Kết quả lựa chọn, thứ tự ưu tiên và tổ chức thực hiện các công trình thuộc các
chương trình, dự án của NN, của các tổ chức và cá nhân đầu tư, tài trợ trực tiếp cho xã.
Về dân bàn có 2 loại gồm:
- Một loại công việc do dân bàn và quyết định trực tiếp
- Một loại công việc do dân bàn và tham gia ý kiến, HĐND và UBND xã quyết
định
Các việc dân bàn và quyết định trực tiếp là các loại việc có huy động sự đóng
góp của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng và xây dựng hương ước, quy ước nội bộ. Đây là
quy định rất mới không những thực hiện QLC của nhân dân mà còn chống được tệ nạn
tham nhũng, lãng phí.
Loại công việc do dân bàn và quyết định trực tiếp bao gồm 5 điểm:
1. Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc
lợi công cộng (điện, đường, trường học, trạm y tế, nghĩa trang, các công trình văn hóa,
thể thao);
2. Xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa, nếp sống văn minh, giữ gìn an
ninh trật tự, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội;
3. Các công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư thôn, phù hợp với quy định của
pháp luật hiện hành;
4. Thành lập Ban Giám sát các công trình xây dựng do dân đóng góp;
5. Tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh giữ gìn an ninh trật tự, an toàn giao
thông, vệ sinh môi trường và các hoạt động khác trên địa bàn xã, thôn
Loại công việc do dân bàn và tham gia ý kiến, HĐND và UBND xã quyết định
bao gồm 9 điểm:
1. Dự thảo nghị quyết của HĐND xã;
2. Dự thảo quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hàng năm
của xã, phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất và phương án phát triển
ngành nghề;
3. Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai ở địa phương và việc quản lý, sử
dụng có hiệu quả quỹ đất công ích của xã;
4. Phương án quy hoạch khu dân cư; đề án định canh, định cư, vùng kinh tế mới;
kế hoạch, dự án huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân để đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng do xã quản lý;
5. Dự thảo đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới hành chính xã, đề án chia tách,
thành lập thôn;
6. Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn
xã;
7. Chủ trương, phương án đền bù giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng cơ sở,
tái định cư;
8. Giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn xã;
9. Những công việc khác mà CQ xã thấy cần thiết.
Về dân giám sát, kiểm tra QC quy định dân giám sát, kiểm tra các loại công việc
từ hoạt động của HĐND, UBND đến các việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân,
kết quả quyết toán công trình do dân đóng góp, việc quản lý sử dụng đất đai, thu chi các
quỹ, việc thực hiện chính sách đối với người có công với nước...Dân giám sát, kiểm tra
tức là thực hiện quyền lực của mình trong quá trình quản lý đất nước. Lênin đã từng nói:
nếu nhà nước không tiến hành kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với việc sản xuất và phân
phối các sản phẩm thì CQ của những người lao động, nền tự do của họ sẽ không thể duy
trì được. Những việc nhân dân ở xã giám sát, kiểm tra được quy định trong QC gồm có
11 điểm sau:
1. Hoạt động của CQ xã, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và tổ chức
nghề nghiệp ở xã;
2. Kết quả thực hiện nghị quyết của HĐND và quyết định, chỉ thị của UBND xã;
3. Hoạt động và phẩm chất đạo đức của Chủ tịch HĐND và Chủ tịch UBND,
hoạt động của đại biểu HĐND xã, của cán bộ UBND xã và cán bộ, công chức hoạt động
tại ĐP;
4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại ĐP;
5. Dự toán và quyết toán ngân sách xã;
6. Quá trình tổ chức thực hiện công trình, kết quả nghiệm thu và quyết toán công
trình do nhân dân đóng góp xây dựng và các chương trình, dự án do NN, các tổ chức và
cá nhân đầu tư, tài trợ trực tiếp cho xã;
7. Các công trình của cấp trên triển khai trên địa bàn xã có ảnh hưởng trực tiếp
đến sản xuất, an ninh, trật tự, văn hóa - xã hội, vệ sinh môi trường và đời sống của nhân
dân ĐP;
8. Quản lý và sử dụng đất đai tại xã;
9. Thu, chi các loại quỹ và lệ phí theo quy định của NN, các khoản đóng góp của
nhân dân;
10. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng liên
quan đến cán bộ xã;
11. Việc thực hiện chế độ, chính sách ưu đãi, chăm sóc, giúp đỡ thương binh,
bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước, chính sách bảo
hiểm xã hội, bảo trợ xã hội.
Một nội dung quan trọng của QC là quy định hết sức cụ thể: a) Đối với những
việc cần thông báo cho dân biết, CQ xã có trách nhiệm phối hợp với UBMTTQ, các
thành viên của MTTQ cùng cấp và Trưởng thôn cung cấp các thông tin để nhân dân biết
bằng các hình thức cụ thể tại Điều 6 QC; b) Đối với những việc dân bàn và quyết định
trực tiếp QC quy định các phương thức cụ thể thực hiện những việc nhân dân quyết định
trực tiếp tại Điều 9; c) Đối với những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, CQ xã quyết
định QC quy định phương thức thực hiện tại Điều 11; d) Đối với những việc nhân dân
giám sát, kiểm tra QC quy định phương thức thực hiện tại Điều 13 và quy định trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân đối với việc giám sát và kiểm tra của nhân
dân tại Điều 14.
QC dành hẳn một chương (chương VI) về việc xây dựng cộng đồng dân cư thôn,
làng, ấp, bản, khóm, tổ dân phố (gọi chung là thôn) quy định các hình thức hoạt động tự
- Xem thêm -