Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mạng lưới chợ nông thôn ở thái nguyên từ năm 1954 đến năm 2010...

Tài liệu Mạng lưới chợ nông thôn ở thái nguyên từ năm 1954 đến năm 2010

.PDF
117
79509
121

Mô tả:

i ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ----------------000-------------- PHẠM THỊ THANH HẢO MẠNG LƢỚI CHỢ NÔNG THÔN Ở THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 2010 Mã số: 60.22.54 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ Hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN Thái Nguyên, Năm 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ii MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ i 1.Lý do chọn đề tài ................................................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................................. 3 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu. ........................................................................ 6 4. Nguồn tư liệu ..................................................................................................................... 7 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 8 6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................................... 8 7. Cấu trúc của luận văn......................................................................................................... 9 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TỈNH THÁI NGUYÊN ............................................... 10 1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên. ..................................................................................... 10 1.2 Khái quát lịch sử hành chính tỉnh Thái Nguyên ............................................................ 17 1.3 Dân cư và phân bố dân cư.............................................................................................. 21 1.4 Mạng lưới giao thông vận tải ......................................................................................... 24 1.5 Khái quát tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Thái Nguyên từ 1954 đến 2010. .......................... 26 Chƣơng 2: MẠNG LƢỚI CHỢ NÔNG THÔN Ở THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1997 ................................................................................................................. 30 2.1 Những quan niệm về chợ, chợ nông thôn ...................................................................... 30 2.1.1 Những quan niệm về chợ ............................................................................................ 30 2.1.2 Những quan niệm về chợ nông thôn ........................................................................... 33 2.2 Cơ sở hình thành và nguyên nhân của sự phát triển mạng lưới chợ nông thôn ở Thái Nguyên từ sau 1954. ............................................................................................................ 35 2.3 Mạng lưới Chợ nông thôn ở Thái Nguyên từ năm 1954 đến năm 1997................................. 37 2.4 Địa điểm họp chợ ........................................................................................................... 50 2.5 Thành phần mua bán ...................................................................................................... 52 2.6 Chợ nông thôn- một loại hình sinh hoạt văn hóa của người dân Thái Nguyên ............ 57 CHƢƠNG 3: MẠNG LƢỚI CHỢ NÔNG THÔN Ở THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010. ................................................................................................................ 63 3.1 Định hướng mới của Tỉnh Thái Nguyên trong quy hoạch và phát triển mạng lưới chợ nông thôn từ năm 1997 đến năm 2010................................................................................. 63 3.2 Một số loại hình chợ nông thôn ở Thái Nguyên. ........................................................... 66 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn iii 3.2.1 Chợ làng xã ................................................................................................................. 66 3.2.2 Chợ huyện ................................................................................................................... 72 3.2.3 Chợ đầu mối ................................................................................................................ 78 3.3 Phương thức mua bán ở chợ .......................................................................................... 80 3.4 Các mặt hàng trao đổi ở chợ .......................................................................................... 82 3.4.1 Hàng nông- lâm nghiệp .................................................................................................... 82 3.4.2 Hàng thủ công nghiệp ...................................................................................................... 86 3.5 Những thay đổi trong hoạt động mua bán ở mạng lưới chợ nông thôn Thái Nguyên ... 90 3.6 Bước đầu đánh giá vai trò của mạng lưới chợ nông thôn với đời sống kinh tế xã hội địa phương. ................................................................................................................................ 92 3.6.1 Chợ nông thôn- nhân tố thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá. ............................... 92 3.6.2 Chợ nông thôn là một trong những yếu tố đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ................... 94 3.6.3 Chợ nông thôn- nhân tố củng cố mối liên hệ giữa các dân tộc trong tỉnh. ................. 96 KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 102 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Chủ nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định: “đối tượng của khoa học lịch sử là quá trình phát triển thực tế của xã hội loài người cũng như từng nước, từng dân tộc trong toàn bộ tính thống nhất, tính phức tạp, tính muôn màu, muôn vẻ của nó”[38, tr. 58],“là tất cả các mặt của đời sống xã hội trong mối liên hệ và tác động lẫn nhau giữa chúng”[38, tr. 62]. Như vậy, khoa học lịch sử nghiên cứu mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, lịch sử địa phương…Chợ là một bộ phận của hoạt động kinh tế xã hội, có quá trình phát sinh, phát triển riêng của nó và vì thế chợ cũng là đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử. Ngay từ thời phong kiến, chợ đã trở thành mối quan tâm lớn của các triều đình phong kiến nước ta. Trong “Hồng Đức Thiện chính thư”, vua Lê Thánh Tông viết “Việc lập chợ là hệ quả của việc tập trung đông đúc dân cư. Thiết kế các chợ đó nhằm mục đích phân phối hàng hóa quốc gia ra khắp đất nước và làm dễ dàng công việc giao dịch trao đổi theo nhu cầu”[33, tr. 33]. Như vậy có thể thấy chợ ra đời là nhân tố thúc đẩy sự lưu thông hàng hóa và phát triển nền kinh tế. Thương nghiệp là một mắt xích không thể thiếu trong sự vận hành kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi địa phương nhất định. “Bản thân các triều đại phong kiến Việt Nam đứng trước tình hình khó khăn của đời sống nông dân, tình hình eo hẹp của nền kinh tế, tài chính đất nước thường có xu hướng giải quyết thông qua thương nghiệp” [51, tr. 60]. Điều này đã chứng tỏ tầm quan trọng của thương nghiệp đối với đời sống kinh tế xã hội mà chợ là một trong những biểu hiện cụ thể của nó. Thương mại là một trong những cầu nối giao lưu giữa các vùng và khu vực. Do đó, chợ nông thôn là một trong những môi trường tiếp nhận sự tác động của những yếu tố bên ngoài vào cộng đồng làng đồng thời là cầu nối Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 cộng đồng làng với thế giới bên ngoài qua hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại do doanh nhân thực hiện. Nếu ở các vùng đồng bằng, chợ chủ yếu mang chức năng trao đổi hàng hóa thì ở các tỉnh miền núi chợ còn là nơi sinh hoạt văn hóa, nơi gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, nơi giao lưu văn hóa cộng đồng thông qua việc tổ chức các lễ hội, các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc của từng tộc người. Đặc biệt, Thái Nguyên là nơi chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng vì thế, quy mô, hình thức trao đổi hàng hóa…ở chợ cũng có nhiều điểm khác biệt so với chợ của các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Từ lâu mạng lưới chợ nông thôn đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế- xã hội ở các tỉnh miền núi nói chung và ở Thái Nguyên nói riêng. Song cho đến nay việc tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện, cụ thể về cấu trúc, hoạt động của các chợ này chưa thực sự được giới sử học quan tâm nghiên cứu. Xuất phát từ những nhận thức trên, chúng tôi chọn đề tài “Mạng lưới chợ nông thôn ở Thái Nguyên từ năm 1954 đến năm 2010” để nghiên cứu với mong muốn khôi phục lại một cách chân thực về hoạt động trao đổi mua bán trong các chợ vùng nông thôn của Thái Nguyên từ sau khi miền Bắc được giải phóng nhằm nâng cao hiểu biết về đời sống kinh tế của dân cư nông thôn ở một tỉnh miền núi phía Bắc và sự mở rộng, biến đổi của mạng lưới chợ nông thôn ở Thái Nguyên, qua đó góp phần thiết thực vào việc giúp tỉnh nhà đưa ra được những định hướng, chính sách mới trong quy hoạch, phát triển mạng lưới chợ ở các vùng nông thôn phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương cũng như tìm ra được nhiều giải pháp thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, nâng cao mức sống của người dân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Mặc dù chưa có một công trình nào nghiên cứu về mạng lưới chợ của Thái Nguyên một cách toàn diện nhưng chúng tôi đã thừa hưởng kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước đề cập tới vấn đề nghiên cứu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp ở từng lĩnh vực và khía cạnh khác nhau. Ngay từ thế kỉ XVII, nhiều thương nhân và giáo sĩ phương Tây đã đến nước ta điều tra, nghiên cứu về làng Việt trong đó có những ghi chép về mạng lưới chợ như các cuốn sách: "Lịch sử Đàng Ngoài" của Richard, "Vương quốc Đàng Ngoài", "Hành trình và truyền giáo" của A. de Rhodes…Nhưng đây mới chỉ là những ghi chép có đề cập đến làng xã Việt Nam. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX xuất hiện một số tác phẩm chuyên khảo của các tác giả người Pháp như: "Làng xã An Nam ở Bắc Kỳ" của P.Ory (Paris, 1894), "Thành bang An Nam" của C. Briffaut (Paris, 1909) viết về nông thôn Việt Nam nhằm phục vụ cho công cuộc đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, việc nghiên cứu về làng xã Việt Nam được mở rộng hơn trước. Lúc này, bên cạnh những người Pháp còn có một số tác giả người Việt tham gia nghiên cứu. Những tác giả tiêu biểu nhất thời kì này là Pierre Gourou với cuốn “Les Paysans Delta Tonkinois” (Nông dân vùng đồng bằng Bắc kỳ) (Paris, 1936), Phan Kế Bính với “Việt Nam phong tục”, Nguyễn Văn Huyên với “Recherche sur la Commune Annamite” (Nghiên cứu về làng An Nam) (Hà Nội, 1939). Sau cách mạng tháng Tám, nhiều tác giả, tác phẩm viết về các vấn đề kinh tế, văn hóa của làng xã Việt Nam trong đó ít nhiều đã đề cập tới hệ thống các chợ khu vực nông thôn. Tiêu biểu như Luận án tiến sĩ Luật học của Vũ Quốc Thúc sau in thành sách “L’Economic Communaliste du Vietnam” (Kinh tế làng xã Việt Nam) (Hà Nội, 1951); "Xã thôn Việt Nam" của Nguyễn Hồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 Phong ( Hà Nội, 1959), "Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ" của Trần Từ (Hà Nội, 1984). Thời kì đổi mới từ 1986 cho đến nay là thời kì nở rộ của những công trình nghiên cứu về làng xã Việt Nam nói chung và đề tài chợ nông thôn nói riêng. Mở đầu là Hội thảo khoa học “Làng xã và vấn đề xây dựng nông thôn mới” của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Thời kì này, hàng chục cuốn sách chuyên khảo về kinh tế- xã hội làng xã Việt Nam đã được xuất bản. Chẳng hạn, tác giả Nguyễn Quang Ngọc với “Về một số làng buôn ở đồng bằng Bắc Bộ thế kỷ XVIII- XIX” (Hà Nội, 1993) của tác giả Nguyễn Quang Ngọc. Trong tác phẩm này tác giả đã đề cập một cách khá rõ nét tình hình kinh tế thương nghiệp cũng như hoạt động buôn bán ở các chợ thuộc vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ từ các thế kỉ XVIII- XIX cho đến nay thông qua việc tìm hiểu một số làng buôn: Phù Lưu, Đa Ngưu, Báo Đáp. Hay cuốn “Một số vấn đề làng xã Việt Nam” của Nguyễn Quang Ngọc, (Hà Nội, 2009) đã nghiên cứu kết cấu kinh tế, kết cấu xã hội và văn hóa của làng xã Việt Nam qua nghiên cứu trường hợp làng Đan Loan trong đó khi viết về kinh tế thương nghiệp của làng xã Việt Nam tác giả đã đề cập tới hoạt động trao đổi buôn bán ở các chợ. Thời kì này cũng xuất hiện hàng loạt các Luận án, các công trình nghiên cứu khoa học viết về làng xã cũng như hoạt động thương nghiệp ở nông thôn thông qua mạng lưới các chợ được in thành sách hay đăng trên các tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Dân tộc học, Văn hóa nghệ thuật, chẳng hạn: Tác giả Nguyễn Đức Nghinh với bài viết “Những nét phác thảo về chợ làng qua những tài liệu thế kỉ XVII- XVIII” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5 năm 1980; “Chợ Làng, một nhân tố củng cố mối liên hệ dân tộc”, đăng trên Tạp chí dân tộc học số 5 năm 1981 và “Chợ làng trước cách mạng tháng Tám” đăng trên tạp chí Dân tộc học, số 3 năm 1981. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 Tác giả Nguyễn Quang Ngọc đã có nhiều bài viết về chợ và hoạt động thương nghiệp ở nông thôn Việt Nam được đăng trên các tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tạp chí Nghiên cứu kinh tế hay tạp chí Dân tộc học, tiêu biểu như: “Mấy ý kiến về hoạt động thương nghiệp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ thế kỉ XVIII- XIX (Hiện tượng và bản chất)” đăng trên Tạp chí dân tộc học số 5, năm 1985. Các bài viết trên đã đề cập tới hoạt động thương nghiệp ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ qua các tư liệu điều tra thực tế tại một số địa phương trong những thập niên cuối của thế kỉ XX, trên cơ sở đó bước đầu đánh giá vai trò của mạng lưới chợ nông thôn với đời sống kinh tế xã hội của các địa phương. Luận án Tiến sĩ Xã hội học của Lê Thị Mai “Chợ nông thôn châu thổ sông Hồng trong quá trình chuyển đổi kinh tế xã hội thời kì đổi mới”,(Hà Nội, 2002), đã phân tích cơ sở kinh tế- xã hội, cấu trúc quan hệ thương mại và vai trò của chợ nông thôn châu thổ sông Hồng qua khảo sát thực tế tại các chợ Ninh Hiệp (Gia Lâm), chợ Hữu Bằng (Thạch Thất, Hà Tây), chợ Thổ Tang (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc). Những tác phẩm, những công trình nghiên cứu của các tác giả trên đã cung cấp thêm nhiều tư liệu về làng xã và nông thôn Việt Nam, trong đó có phân tích mối quan hệ kinh tế cổ truyền giữa nông nghiệp với thủ công nghiệp và thương nghiệp, trong đó có nhắc đến mạng lưới chợ và vai trò của nó với đời sống của người dân nông thôn. Một số công trình nghiên cứu khoa học của các sinh viên Đại học sư phạm Thái Nguyên trong những năm gần đây đã đề cập tới mạng lưới và hoạt động của các chợ nông thôn ở Thái Nguyên như: đề tài nghiên cứu khoa học “Chợ và hoạt động buôn bán nhỏ ở Thái Nguyên qua Đại Nam Nhất Thống chí” của Nguyễn Thị Hà (năm 2005) đã bước đầu thống kê một số chợ của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 Thái Nguyên và hoạt động buôn bán ở chợ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 qua tác phẩm “Đại Nam nhất thống chí”. Đề tài nghiên cứu khoa học “Hoạt động giao thương ven sông Cầu trước năm 1945” của Nguyễn Trung Dũng, đã đề cập tới mạng lưới chợ trên lưu vực sông Cầu thuộc địa phận tỉnh Thái Nguyên trước năm 1945. Như vậy cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn diện về mạng lưới chợ nông thôn của tỉnh Thái Nguyên từ sau 1954 đến năm 2010. Còn có nhiều vấn đề quan trọng cần được làm sáng tỏ: cơ sở hình thành và nguyên nhân phát triển mạng lưới chợ nông thôn ở Thái Nguyên, cấu trúc các mặt hàng mua bán, thành phần mua bán và cách thức trao đổi, những hình thức sinh hoạt văn hóa ở chợ vùng cao cùng sự mở rộng và biến đổi trong hoạt động mua bán ở các chợ nông thôn từ sau khi Thái Nguyên tái lập tỉnh cho đến nay. Song, những thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước là những ý kiến gợi mở quý báu, tạo điều kiện cho chúng tôi đi sâu nghiên cứu hoàn thành luận văn: “Mạng lưới chợ nông thôn ở Thái Nguyên từ năm 1954 đến năm 2010” 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu. Thực hiện đề tài “Mạng lưới chợ nông thôn ở Thái Nguyên từ năm 1954 đến năm 2010”, tác giả mong muốn khôi phục lại một cách chân thực, sinh động, khoa học hoạt động của các chợ nông thôn của Thái Nguyên từ năm 1954 đến năm 2010 cũng như vai trò, tác động của nó đối với sự chuyển biến cơ cấu kinh tế của các địa phương trong tỉnh trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Qua việc tìm hiểu hoạt động của mạng lưới chợ nông thôn, luận văn tập trung phác họa những nét cơ bản nhất về đời sống vật chất, tinh thần của người dân trong tỉnh đồng thời tìm hiểu những chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước với hoạt động thương nghiệp cùng những định hướng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 mới của tỉnh Thái Nguyên đối với việc quy hoạch, phát triển mạng lưới chợ nông thôn trên địa bàn tỉnh. Đối tượng nghiên cứu của Luận văn gồm hoạt động kinh tế, văn hóa ở mạng lưới chợ nông thôn Thái Nguyên từ năm 1954 đến năm 2010 cùng các vấn đề có liên quan. Do hạn chế về tư liệu và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của Luận văn chỉ đi sâu tìm hiểu vào mạng lưới chợ nông thôn của tỉnh Thái Nguyên theo địa danh lãnh thổ hiện nay, nhất là mạng lưới và hoạt động của các chợ ở một số huyện vùng cao: Định Hóa, Phú Lương, Võ Nhai bởi nó mang những nét đặc trưng của chợ ở miền núi. Với các chợ nông thôn thuộc các huyện: Sông Công, Phổ Yên, Phú Bình …do ở gần trung tâm và mang nhiều đặc điểm của chợ ở miền xuôi nên chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát và tìm ra những nét đặc sắc trong hoạt động buôn bán, mặt hàng trao đổi của các chợ này. Bên cạnh đó chúng tôi cũng sẽ bước đầu khảo sát về hoạt động buôn bán trên các bến sông thuộc địa phận tỉnh Thái Nguyên nhất là hoạt động giao thương ven sông Cầu. 4. Nguồn tƣ liệu Tư liệu chung: Đại Nam nhất thống chí, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập I; tập II,); Lịch sử Việt Nam (1945- 2000); Dư địa chí (Nguyễn Trãi); Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc kì, Các dân tộc ít người ở Việt Nam. Các tác phẩm nghiên cứu của các nhà khoa học đã công bố, xuất bản, các bài báo đã được đăng trên các tạp chí: tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tạp chí Dân tộc học, tạp chí Nghiên cứu kinh tế. Nguồn tư liệu lịch sử địa phương: Thái Nguyên đất và người; Niên giám thống kê Thái Nguyên; Đề án phát triển chợ nông thôn Thái Nguyên giai đoạn 2010- 2015; Quy hoạch chợ, trung tâm thương mại, siêu thị tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010- 2020. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 Ngoài ra còn có một số tư liệu giúp bổ sung làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu như: các nghị quyết, chính sách của Đảng về phát triển kinh tế miền núi phía Bắc, các báo cáo phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh và đặc biệt là nguồn tư liệu điền dã. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, phương pháp điền dã dân tộc học kết hợp với phương pháp khai thác tư liệu thành văn. Chúng tôi cũng áp dụng phương pháp thống kê, hệ thống hóa bằng các biểu bảng, đặt vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ với lịch sử dân tộc để có thể đưa ra những nhận thức chân thực, khoa học với đối tượng nghiên cứu của đề tài. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn giới thiệu một cách đầy đủ và cụ thể nhất về mạng lưới chợ nông thôn Thái Nguyên cùng những giá trị kinh tế, xã hội của nó trong tiến trình lịch sử của tỉnh nhà từ năm 1954 đến năm 2010. Qua sự phân tích về đặc điểm của các loại hình chợ nông thôn thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu về hàng hóa trao đổi ở chợ, thành phần tham gia mua bán, phương thức trao đổi cùng một số hình thức sinh hoạt văn hóa tại các chợ, luận văn làm nổi bật nét đặc trưng của chợ miền núi Thái Nguyên. Luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết cho quá trình học tập bộ môn lịch sử, Dân tộc học, Cơ sở văn hóa…cũng như việc giảng dạy lịch sử địa phương ở trường phổ thông trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 7. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần nội dung được cấu thành bởi 3 chương Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ TỈNH THÁI NGUYÊN Chƣơng 2: MẠNG LƢỚI CHỢ NÔNG THÔN Ở THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1997 Chƣơng 3: MẠNG LƢỚI CHỢ NÔNG THÔN Ở THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010. Trong Luận văn còn có các phần: Mục lục, Tài liệu tham khảo, Phụ lục. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ TỈNH THÁI NGUYÊN 1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên. Thái Nguyên là một tỉnh miền núi và trung du, nằm ở vùng tiếp giáp giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng rừng núi thượng du phía Bắc, ở tọa độ 21000 đến 20,03 0 vĩ bắc. Phía bắc giáp với tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp thủ đô Hà Nội, phía đông giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, phía tây giáp các tỉnh Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, diện tích tự nhiên là 3.562,82 km2 . Với vị trí địa lý là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế,giáo dục của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi đông bắc nói chung, Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thái Nguyên cách sân bay quốc tế Nội Bài 50km, cách biên giới Trung Quốc 200km, cách trung tâm Hà Nội 75km và cảng Hải Phòng 200km. Việc giao lưu đã được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông hình rẻ quạt mà thành phố Thái Nguyên là đầu nút: Quốc lộ 3 từ Hà Nội đi Bắc Kạn, Cao Bằng và cửa khẩu Việt Nam, Trung Quốc; Quốc lộ 1B đi Lạng Sơn, quốc lộ 37, 279; hệ thống đường sông Đa Phúc- Hải Phòng, đường sắt từ Thái Nguyên đi Hà Nội. Cùng với vị trí trung tâm của Việt Bắc, Thái Nguyên còn là đầu mối các hoạt động văn hóa, giáo dục của cả vùng núi phía Bắc rộng lớn. Vị trí địa lý của tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh, thành phố trong vùng, trong cả nước cũng như với nước ngoài, đưa Thái Nguyên nhanh chóng trở thành một trung tâm phát triển kinh tế, văn hoá của các tỉnh miền núi trung du phía Bắc, không chỉ hiện nay mà trong cả tương lai. Địa hình Thái Nguyên chủ yếu là đồi núi thấp chạy theo hướng bắcnam. Phía tây nam có dãy Tam Đảo với đỉnh cao nhất 1.590 m, các vách núi dựng đứng và kéo dài theo hướng tây bắc-đông nam. Ngoài dãy núi trên còn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 có dãy Ngân Sơn bắt đầu từ Bắc Kạn chạy theo hướng đông bắc-tây nam đến Võ Nhai và dãy núi Bắc Sơn cũng chạy theo hướng tây bắc-đông nam. Cả ba dãy núi Tam Đảo, Ngân Sơn, Bắc Sơn đều là những dãy núi cao che chắn gió mùa đông bắc. Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi nhưng địa hình lại không phức tạp lắm so với các tỉnh trung du, miền núi khác. Địa hình Thái Nguyên chia làm 3 vùng: vùng phía tây và tây bắc của tỉnh gồm các huyện: Đại Từ, Định Hóa và các xã phía tây của huyện Phú Lương, đây là vùng rừng núi hiểm trở, địa hình chia cắt mạnh. Xen giữa các dải núi là các khu ruộng nhỏ, dốc, hẹp. Vùng phía Đông gồm 2 huyện Đồng Hỷ và Võ Nhai, độ cao trung bình từ 500m đến 600m, địa hình phức tạp với những khối núi đá vôi to lớn ở Thần Sa, Thượng Nung, Nghinh Tường đặc biệt là khối núi đá vôi Phương Giao ở Đông Nam huyện Võ Nhai đồ sộ và hiểm trở, tạo ra nhiều thung lũng hẹp và sâu. Vùng trung du gồm các xã phía Nam của huyện Phú Lương, phía tây huyện Đồng Hỷ, thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và các huyện Phú Bình, Phổ Yên, với địa hình chủ yếu là đồi núi thấp xen lẫn với đồng bằng. Điều kiện địa hình của Tỉnh là một trong những điều kiện thuận lợi để Thái Nguyên phát triển kinh tế kết hợp nông và lâm nghiệp. Khí hậu của Thái Nguyên có sự phân chia thành 3 vùng: vùng phía tây nóng và mưa nhiều; vùng phía đông lạnh và ít mưa, vùng phía nam có tính chất trung gian chuyển tiếp giữa phía đông và phía tây. Do địa hình thấp dần từ vùng núi xuống trung du và đồng bằng theo hướng Bắc - Nam nên vào mùa đông có thể thấy sự khác biệt theo lãnh thổ với mức độ lạnh khác nhau: vùng lạnh nhiều ở phía bắc huyện Võ Nhai; vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và phía Nam huyện Võ Nhai; vùng ấm gồm các huyện Đại Từ, thành phố Thái Nguyên, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên và thị xã Sông Công. Cũng vào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 mùa đông, do ảnh hưởng của các đợt không khí lạnh từ phía Bắc, thời tiết lạnh và hiện tượng sương muối thường xảy ra ở các huyện phía Bắc. Lượng mưa hàng năm ở Thái Nguyên trung bình từ 1800- 2500 mm. Chế độ mưa chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Vào mùa mưa, hoạt động của khí áp từ phía tây làm cho thời tiết nóng, khô. Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1300 – 1750 giờ, phân bố tương đối đều cho các tháng trong năm [66]. Nhìn chung khí hậu tỉnh Thái Nguyên thuận lợi cho phát triển một hệ sinh thái đa dạng và bền vững, có giá trị đối với nông, lâm nghiệp. Do đặc điểm địa hình Thái Nguyên xen lẫn giữa miền núi và trung du nên tiềm năng đất đai của tỉnh rất đa dạng với 3 loại đất chính là đất feralit, đất đá vôi và đất ruộng với tổng diện tích đất là 354.655,25 ha thích hợp cho việc phát triển cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Với tổng diện tích là 356.282 ha. Cơ cấu đất đai của tỉnh phân chia như sau: Đất núi chiếm 48,4% diện tích tự nhiên, có độ cao trên 200m [66], hình thành do sự phong hóa trên các đá Macma, đá biến chất và trầm tích. Đất núi thích hợp cho việc phát triển lâm nghiệp, trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng kinh doanh nhưng cũng thích hợp để trồng cây ăn quả, một phần cây lương thực cho nhân dân vùng cao. Đất đồi chiếm 31,4% diện tích tự nhiên chủ yếu hình thành trên cát kết, bột kết phiến sét và một phần phù sa cổ kiến tạo. Đây là vùng đất xen giữa nông và lâm nghiệp. Đất đồi tại một số vùng như Đại Từ, Phú Lương... ở từ độ cao 150 m đến 200 m có độ dốc từ 50 đến 200 phù hợp đối với cây công nghiệp và cây ăn quả lâu năm, đặc biệt là cây chè (một đặc sản của Thái Nguyên). Thổ nhưỡng và khí hậu Thái Nguyên thích hợp với cây chè. Chè Thái Nguyên, đặc biệt là chè Tân Cương là đặc sản nổi tiếng ở cả trong và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 ngoài nước.[66] Toàn tỉnh hiện có 15000 ha chè, trong đó có trên 12000 ha chè kinh doanh, hàng năm cho sản lượng khoảng trên 70 000 tấn chè búp tươi. Đây cũng là lợi thế thúc đẩy hoạt động buôn bán ở các chợ Thái Nguyên, bao gồm cả trao đổi buôn bán của người dân địa phương và giữa người dân Thái Nguyên với cư dân ở các tỉnh lân cận [29]. Đất ruộng chiếm 12,4% diện tích đất tự nhiên [66], trong đó một phần phân bố dọc theo các con suối, rải rác, không tập trung, chịu sự tác động lớn của chế độ thủy văn khắc nghiệt (lũ đột ngột, hạn hán...) khó khăn cho việc canh tác. Ngoài sản xuất lương thực, tỉnh còn có diện tích tương đối lớn để quy hoạch các đồng cỏ, phát triển mạnh chăn nuôi đại gia súc, chăn nuôi bò sữa, góp phần ổn định và nâng cao mức sống của người dân, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là hoạt động thương nghiệp. Theo số liệu thống kế năm 2009, trong tổng quỹ đất 356.282 ha, diện tích đất đã sử dụng là 302.100 ha (chiếm 84,8 % diện tích đất tự nhiên) và đất chưa sử dụng là 54.182 ha (chiếm 15,2 % diện tích tự nhiên). Trong đất chưa sử dụng có 1.714 ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp và 41.250 ha đất có khả năng sản xuất lâm nghiệp [Bảng 1.1]. Bảng 1.1 Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Thái Nguyên Năm Loại đất Tổng diện tích tự nhiên Đất sản xuất nông nghiệp Đất lâm nghiệp Đất chuyên dùng Đất ở Đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá 2000 Diện tích Cơ cấu (ha) (%) 356.282 100.00 2009 Diện tích Cơ cấu (ha) (%) 356.282 100.00 94.563 26,7 99.400 27,9 152.275 43,0 171.700 48,2 20.539 5,8 20.400 5,7 8.198 2,32 10.600 3,0 80.707 23,18 54.182 15,2 (Nguồn: Niên giám thống kê Thái Nguyên) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 Được thiên nhiên ưu đãi về khí hậu và đất đai, giao thông được ưu tiên đầu tư xây dựng trong nhiều năm gần đây, Thái Nguyên có nhiều khả năng để phát triển nông, lâm, công nghiệp, thương nghiệp, du lịch và các loại hình dịch vụ khác. Thái Nguyên có nhiều sông suối, phân bổ tương đối đều trên địa bàn tỉnh, trong đó lớn nhất là sông Cầu và sông Cầu. Hai sông này là nguồn cấp nước chính cho nền kinh tế, dân sinh của tỉnh. Sông Công có bắt nguồn từ vùng núi Ba Lá huyện Định hoá, chạy dọc theo chân núi Tam Đảo. Dòng sông đã được ngăn lại ở Đại Từ, tạo thành Hồ Núi Cốc. Hồ này cung cấp nước tưới cho cây hoa màu, cây công nghiệp và cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công. Sông Cầu nằm trong hệ thống sông Thái Bình, bắt nguồn từ chợ Đồn chảy theo hướng bắc- đông nam. Trên sông này có hệ thống thuỷ nông sông Cầu (trong đó có đập dâng thác huống) cung cấp nước tưới cho diện tích lúa và hoa màu của các huyện Phú Bình (Thái Nguyên) và Hiệp Hoà, Tân Yên (Bắc Giang). Ngoài ra trong tỉnh còn nhiều sông nhỏ khác thuộc hệ thống sông kì cùng và hệ thống sông lô. Trên các sông chảy qua tỉnh có thể xây dựng nhiều công trình thủy điện kết hợp với thuỷ lợi quy mô nhỏ sẽ góp phần làm cho nông thôn vùng cao tiến bộ nhanh. Thái Nguyên còn có nhiều sông ngắn và nhỏ như: Sông Đu, Sông Nghinh Tường, sông Chu, sông Khe Mo, sông Huống Thượng và nhiều suối nhỏ khác. Các sông suối Thái Nguyên hàng năm cung cấp cho đồng ruộng ven sông một khối lượng lớn phù sa làm cho đất đai thêm phì nhiêu, màu mỡ, giữ được độ ẩm quanh năm, thuận lợi cho việc gieo trồng các loại cây lương thực và hoa màu. Thông qua mạng lưới giao thông đường thủy nhất là trên sông Cầu, hoạt động giao thương có điều kiện phát triển đồng thời nhiều chợ ven sông cũng đã hình thành và hoạt động có hiệu quả từ trước năm 1954. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 Nằm trong vùng sinh khoáng Đông Bắc Việt Nam, thuộc vành đai sinh khoáng Thái Bình Dương, Thái Nguyên còn có nguồn tài nguyên khoáng sản rất phong phú, hiện có khoảng 34 loại hình khoáng sản khác nhau. Khoáng sản ở Thái Nguyên có thể chia ra làm 4 nhóm: Nhóm nguyên liệu cháy bao gồm than mỡ, than đá với trữ lượng lớn thứ 2 cả nước, được phân bố tập trung ở hai huyện Đại Từ và Phú Lương, trong đó riêng than mỡ có trữ lượng khoảng trên 15 triệu tấn, chất lượng than tương đối tốt, tập trung ở các mỏ: phấn Mễ, Làng Cẩm, Âm Hồn. than đá có tổng trữ lượng tìm kiếm và thăm dò khoảng 90 triệu tấn, tập trung ở các mỏ: Bá Sơn, Khánh Hòa, Núi Hồng. Nhóm khoáng sản kim loại bao gồm kim loại đen, kim loại màu. Trong đó: Quặng sắt có 47 mỏ và điểm quặng trong đó có 2 cụm mỏ lớn: cụm mỏ sắt Trại Cau có trữ lượng khoảng 20 triệu tấn, có hàm lượng FE 58.8%61,8%. Cụm mỏ sắt Tiến Bộ nằm trên trục đường 259 có tổng trữ lượng quặng khoảng 30 triệu tấn. Quặng Titan đã phát hiện 18 mỏ và điểm quặng sa khoáng, quặng gốc phân bố chủ yếu ở huyện Phú Lương và huyện Đại Từ. Trong số 18 mỏ này đã có 1 mỏ thăm dò và khai thác (mỏ Cây Châm- Phú Lương), thành phần chính của quặng là Ilmenit, tổng trữ lượng dự kiến vào khoảng 18 triệu tấn. Thiếc có ở 3 mỏ thuộc huyện Đại Từ là: Phục Linh, Núi Pháo, Đá Liền. Tổng trữ lượng của 3 mỏ này khoảng 13.600 tấn. Vônfram có ở Núi Pháo (Đại Từ) trữ lượng 110.260.000 tấn. Chì, kẽm tập trung ở Lang Hích (huyện Đồng Hỷ), Thần Sa, Cúc Đường (huyện Võ Nhai) quy mô không lớn. Vàng: bao gồm vàng sa khoáng ở khu vực Thần Sa, dãy núi Bồ Cu (huyện Võ Nhai), khu vực Ngàn Me, Cây Thị huyện Đồng Hỷ, khu vực phía tây của huyện Phổ Yên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 Ngoài ra còn có đồng, thủy ngân…trữ lượng quặng nhỏ, mức độ điều tra sơ bộ. Nhóm khoáng sản phi kim loại bao gồm pyrits, barit, phốtphorit trong đó đáng chú ý là phốtphorit ở một số điểm quặng: núi Văn, làng Mới, La Hiên. Tổng trữ lượng khoảng 60.000 tấn. Nhóm khoáng sản để sản xuất vật liệu xây dựng bao gồm đá xây dựng, đất sét, đá sỏi với trữ lượng lớn. Đất sét xi măng ở 2 mỏ Cúc Đường và Khe Mo, trữ lượng khoảng 84,6 triệu tấn. Đá Cacbônat bao gồm đá vôi xây dựng, đá vôi xi măng, Đôlômit tìm thấy ở nhiều nơi. Riêng đá vôi xây dựng có trữ lượng xấp xỉ 100 tỷ m3, trong đó 3 mỏ Núi Voi, La Hiên, La Giang có trữ lượng 222 triệu tấn. Ngoài ra gần đây phát hiện một số mỏ sét cao lanh tại xã Phú Lạc, Đại Từ có chất lượng tốt, hàm lượng Al2CO3 cao, trữ lượng dự kiến khoảng 20trm3 . Đó là vùng nguyên liệu dồi dào cho sự phát triển ngành vật liệu xây dựng, trong đó có xi măng và đá ốp lát [66]. Khoáng sản của Thái Nguyên phong phú, nhiều chủng loại có ý nghĩa với cả nước như sắt, than… tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp luyện kim, khai khoáng. Đây là thế mạnh đưa Thái Nguyên trở thành trung tâm công nghiệp luyện kim lớn của cả nước. Thái Nguyên có rất nhiều phong cảnh đẹp, các hồ nước, lớp phủ thực vật, động vật quý hiếm, cảnh quan thiên nhiên cùng với hàng loạt di tích lịch sử, các công trình kiến trúc, nghệ thuật, lễ hội, truyền thống văn hoá đặc sắc của các dân tộc. Đây là những lợi thế của Thái Nguyên trong việc phát triển các dịch vụ du lịch, cả du lịch sinh thái và du lịch nhân văn. Thái Nguyên có các điểm du lịch như Khu du lịch Hồ Núi Cốc, khu du lịch Hang Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà, khu di tích lịch sử ATK, thác Khuôn Tát, đền Đuổm, chùa Hang, chùa Phủ Liễn, đền Xương Rồng, đền Đội Cấn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17 Ngoài ra, Thái Nguyên còn có bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam. Bảo tàng đã trưng bày, giới thiệu di sản văn hoá truyền thống của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Hiện nay, bảo tàng lưu giữ hơn 10.000 đơn vị tài liệu, hiện vật thuộc di sản văn hoá của 54 dân tộc [66]. 1.2 Khái quát lịch sử hành chính tỉnh Thái Nguyên Theo sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, đời các vua Hùng, nước Văn Lang chia làm 15 bộ. Thái Nguyên thuộc bộ Vũ Định, phía đông và phía bắc giáp với Cao, Lạng; phía tây và nam giáp Kinh- Bắc; có 2 lộ phủ, 9 huyện, 2 châu và 336 làng xã. Thái Nguyên lúc đó nằm dưới sự cai quản của chế độ lạc tướng [64, tr. 48]. Khoảng đầu công nguyên chế độ lạc tướng chấm dứt, bộ chuyển thành huyện, Vũ Định vẫn giữ tên cũ. Dưới thời đô hộ của nhà Triệu, Thái Nguyên nằm trong quận Giao Chỉ. Đời nhà Hán, Thái Nguyên nằm trong huyện Long Biên thuộc quận Giao Chỉ. Đến thời Đường thế kỷ VIII,IX,XThái Nguyên là đất Châu Long và châu Vũ Nga thuộc An Nam đô hộ phủ. Dưới triều Đinh- Tiền Lê (thế kỷ X) đất nước chia thành 10 đạo. Khi Lý Thái Tổ lên ngôi (1010) rời kinh đô từ Hoa Lư ra Đại La, 10 đạo được đổi thành 24 lộ, các vùng xa xôi hẻo lánh nằm trong các châu biên viễn. Đầu năm 1226, nhà Trần đổi Châu thành Lộ, vùng đất Thái Nguyên thuộc Như Nguyệt Giang lộ. Năm 1397 nhà Trần đổi châu Thái Nguyên tương đương với tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và nửa tỉnh Cao Bằng ngày nay [2, tr. 19]. Thời thuộc Minh (1407- 1427), vào năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), trấn Thái Nguyên được đổi thành Phủ Thái Nguyên lệ thuộc vào ty Bố chính; năm 1426 phủ Thái Nguyên đổi thành Thái Nguyên Thừa chính ty, gồm 3 phủ: Thái Nguyên, Phú Bình, Thông Hóa. Năm 1428, khi nhà Lê thành lập, Lê Thái Tổ chia đất nước thành 5 đạo: Tây Đạo, Đông Đạo, Bắc Đạo, Nam Đạo và Hải Tây Đạo. Thái Nguyên thuộc Bắc Đạo. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất