MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................0
MỞ ĐẦU..................................................................................................................................1
NỘI DUNG..............................................................................................................................1
1. Khái quát về Bộ máy nhà nước và vị trí tính chất của bộ máy nhà nước...................1
1.1
Khái niệm bộ máy nhà nước..................................................................................1
1.2
Cấu thành bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa..................................................1
1.3
Vai trò của bộ máy nhà nước..................................................................................2
2. So sánh Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992.........................2
2.1.
Về phân cấp hành chính và số lượng các cơ quan...............................................2
a. Về tổ chức, phân cấp hành chính...........................................................................2
b.
2.2
Về số lượng các cơ quan........................................................................................2
Hệ thống cơ quan đai diện.....................................................................................3
a. Về Quốc hội..............................................................................................................3
b. Về hội đồng nhân dân............................................................................................4
2.3
Hệ thống cơ quan hành chính...............................................................................5
2.4.
Chủ tịch nước.........................................................................................................6
2.5.
Hệ thống cơ quan xét xử.........................................................................................8
2.6.
Hệ thống cơ quan kiểm sát.....................................................................................8
3.
Đánh giá điểm kế thừa và thay đổi của Hiến pháp 1992........................................9
4. Nguyên nhân của sự thay đổi về bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980 và hiến
pháp 1992...........................................................................................................................10
4.1 Nguyên nhân về mặt lịch sử - kinh tế và xã hội.....................................................10
4.2
Nguyên nhân về mặt tư tưởng............................................................................11
KẾT LUẬN............................................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................12
0
MỞ ĐẦU
Quá trình hình thành và phát triển của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một quá trình liên tục, gắn liền với từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam trong từng thời kì, luôn quan tâm và chú trọng việc xây dựng,
củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương. Nếu như trong thời
kì của Hiến pháp 1946, Nhà nước chủ yếu là bộ máy cai trị, dùng bạo lực cách mạng để
trấn áp thù trong, giặc ngoài, duy trì trật tự, an ninh trong nước. Từ Hiến pháp 1959 đến
nay, Nhà nước dân chủ nhân dân đã làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và trở thành
người điều hành nên sản xuất xã hội. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Nhiệm vụ cách mạng của giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta và
nhân dân ta phải đặc biệt quan tâm và nhanh chóng xây dựng và củng cố bộ máy chính
quyền nhà nước…”. Xuất phát từ tầm quan trọng của công cuộc hoàn thiện bộ máy Nhà
nước, nhóm chúng em đã lựa chọn nghiên scứu đề tài: “So sánh bộ máy nhà nước theo
Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992.”
1.
NỘI DUNG
Khái quát về Bộ máy nhà nước và vị trí tính chất của bộ máy nhà nước
1.1
Khái niệm bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước (BMNN) là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương, cơ sở; tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung nhất định tạo thành một
cơ chế để thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.Cơ quan nhà nước là một tổ chức
được thành lập và hoạt động theo những nguyên tắc và trình tự nhất định, có cơ cấu tổ chức
nhất định và được giao những quyền lực nhà nước nhất định, được quy định trong các văn
bản pháp luật để thực hiện một phần những nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước.
Bộ máy nhà nước được hình thành và phát triển phù hợp với quy luật phát triển chung
của xã hội, các cơ quan trong bộ máy nhà nước ngày càng phong phú đa dạng và phức tạp
hơn. Sự phân định chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ngày càng rõ ràng, cụ
thể hơn và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chúng ngày càng tiến bộ hơn.
Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một cơ chế cân đối và thống nhất
của các hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, được tổ chức hoạt động
theo nguyên tắc chung, bảo đảm cho nhà nước ta thực hiện mọi chức năng, nhiệm vụ của
mình và thực sự là cơ chế của dân, do dân và vì dân.
Vấn đề cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng, nó thể
hiện sức mạnh của nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho nhà nước thực hiện chức
năng và nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả nhất. Những bộ phận cấu thành của bộ
máy nhà nước là cơ quan nhà nước.
1.2
Cấu thành bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Về cơ bản qua thực tế cho thấy bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa bao gồm: nguyên
thủ quốc gia: chủ tịch nước (hội đồng nhà nước, đoàn chủ tịch xô viết tối cao…), do quốc
hội bầu là cơ quan đứng đầu nhà nước, thay mặt cho nhà nước về đối nội và đối ngoại
1
Cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan đại biểu nhân dân, cơ quan dân cử) bao gồm
quốc hội và hội đồng nhân dân.
Các cơ quan hành chính nhà nước (cơ quan quản lí bao gồm chính phủ, hội đồng nhân
dân các cấp).
Các cơ quan xét xử bao gồm tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân địa phương và
tòa án quân sự các cấp.
Các cơ quan kiếm sát bao gồm viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân
địa phương, viện kiểm sát quân sự các cấp.
Các cơ quan quốc phòng an ninh.
1.3 Vai trò của bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước là cơ quan đại diện bảo vệ lợi ích cho giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, tầng lớp trí thức và nhân dân lao động. Nó vừa là bộ máy hành chính cưỡng chế
vừa là bộ máy quản lí kinh tế, văn hóa xã hội, là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình. Các cơ quan trong bộ máy nhà nước có vai trò quản lí mọi mặt của
đời sống xã hội và làm cho xã hội ngày càng phát triển hoàn thiện.
2.
So sánh Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992
2.1. Về phân cấp hành chính và số lượng các cơ quan
a. Về tổ chức, phân cấp hành chính
Theo điều 113 Hiến pháp 1980 và Điều 118 Hiến pháp 1992 đơn vị hành chính của
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc TW và đơn vị hành chính tương đương.
Tỉnh chia thành huyện, thành phố trực thộc tỉnh và thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh
chia thành quận huyện xã.
Huyện chia thành xã và thị trấn; thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường và xã.
Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và UBND
Hiến pháp 1980 thực hiện tổ cức bộ máy nhà nước theo hướng chia nhỏ các bộ,
ngành cho phù hợp với chủ trương hoạt động chuyên sâu của các cơ quan quản lý. Ở cấp địa
phương, hiến pháp 1980 lại tổ chức theo hướng sáp nhập các đơn vị hành chính lại để củng
cố với quy mô lớn hơn( nhập tỉnh)(Bắc Thái, Nam Hà, Hà Bắc…).Bên cạnh đó ở ở Hiến
pháp 1980 còn bãi bỏ các khu tự trị; đổi tên gọi ủy ban hành chính bằng ủy ban nhân dân.
Hiến pháp 1992 lại có sự chia nhỏ đơn vị hành chính sự chia tách đã diễn ra như
(Vĩnh Phú thành Phú Thọ và Vĩnh Phúc; Bắc Thái thành Bắc Giang và Thái Nguyên...).
b. Về số lượng các cơ quan
So với Hiến pháp 1980 tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến Pháp 1992 có sự thay đổi
theo hướng luật định. Như cơ cấu tổ chức của Chính phủ bao gồm các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan của Chính phủ do Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, sáp nhập theo đề nghị
của Thủ tướng Chính phủ trong hiến pháp 1980 bằng.Còn cơ cấu tổ chức của Chính phủ bao
gồm các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan của Chính phủ do Quốc hội quyết định thành lập,
giải thể, sáp nhập theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
Như vậy bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1992 có sự thay đổi theo hướng gọn nhẹ
hơn và đề cao trách nhiệm cá nhân hơn trên tinh thần tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan. Số lương bộ, sở, phòng, ban giảm đi đáng kể
2
cũng như nhiều chức vụ được thay đổi hoặc bãi bỏ: Như trong chính phủ tù 1982-1987.
Trong hội đồng bộ trưởng có tới 1 chủ tịch và 17 phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và có tới
80 thành viên của chính phủ khác, ở mỗi bộ ngành lại có nhiều bộ trưởng thay phiên nhau
giữ chức. Còn với nhiệm kỳ chính phủ 2007 - 2011 chỉ có 1 thủ tướng chính phủ và 5 phó
thủ tướng, cùng 20 bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan ngang bộ khác.
2.2 Hệ thống cơ quan đai diện
Theo Hiến pháp 1980 gồm có: Quốc hội, Hội đồng nhà nước và hội đồng nhân dân
các cấp (tỉnh, huyện, xã và cấp tương đương)
Hệ thống cơ quan đại diện theo Hiến pháp 1992 gồm có: Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã và cấp tương đương).
Hệ thống cơ quan này theo Hiến pháp 80 và 92 đều được hình thành bằng con đường
bầu cử - do nhân dân trực tiếp bầu ra theo bốn nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và
kín.
a. Về Quốc hội
Hiến pháp năm 1980 đã có những quy định đầy đủ về vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền
hạn của Quốc hội nói riêng và cơ quan dân cử nói chung. Nếu theo hiến pháp 1959, Ủy ban
thường vụ là cơ quan thường trực của Quốc hội thì theo Hiến pháp 1980, cơ quan thường
trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nước. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
theo Hiến pháp năm 1980 về cơ bản không thay đổi so với Hiến pháp 1959, tiếp tục khẳng
định vị trí tối cao của cơ quan quyền lực cao nhất. Theo Hiến pháp 1980, Quốc hội nước ta
thống nhất về quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Trong Hiến pháp năm 1980, một chế định mới
được thiết lập đó là Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cơ quan này
vừa thực hiện chức năng của Ủy ban thường vụ Quốc hội, vừa thực hiện chức năng của chủ
tịch nước.
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục xác định tính chất của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (Điều 83). Mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào Quốc hội.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được quy định tập trung trong 14 điểm tại Điều
84 Hiến pháp 1992, theo đó Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp;
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, quốc phòng an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động
của công dân; Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước. Quốc hội còn có thểm một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như quyết định chương
trình xây dựng luật và pháp lệnh…Tuy nhiên, hiến pháp 1992 đã bỏ quy định: “Quốc hội có
thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết” ghi nhận trong
các bản Hiến pháp trước đây (bao gồm Hiến pháp 1980) để tránh hiểu lầm Quốc hội hoạt
động ngoài khuôn khổ Hiến pháp.
Cơ cấu tổ chức Quốc hội có những thay đổi, trước hết là việc thành lập lại Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Theo Hiến pháp năm 1980 thì chế định thường trực của Quốc hội được
kết hợp với chế định nguyên thủ quốc gia trong một cơ quan là Hội đồng nhà nước. Hội
đồng nhà nước vừa là cơ quan hoạt động thường xuyên của Quốc hội, vừa là chủ tịch tập thể
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực tiễn cho thấy cách tổ chức này có
nhiều điểm không phù hợp mà hạn chế lớn nhất là đã không phân định rõ nhiệm vụ, quyền
3
hạn của cơ quan thường trực của Quốc hội và nguyên thủ quốc gia. Việc lập lại Ủy ban
thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là nhằm mục đích đề cao vai trò trách nhiệm của
người đứng đầu Nhà nước cũng như của tập thể thay mặt cho Quốc hội giữa hai kỳ họp.
Theo Điều 90 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan
thường trực của Quốc hội”. Ủy ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội bầu ra, chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Số thành viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội là
do Quốc hội quyết định và các thành viên này không thể đồng thời là thành viên của Chính
phủ. Chủ tịch Quốc hội và Phó Chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy
ban thường vụ Quốc hội. Một số thành viên của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội
làm việc theo chế độ chuyên trách.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định tại điều 91 Hiến
pháp năm 1992. Đó là những nhiệm vụ, quyền hạn đặc trưng của cơ quan thường vụ, thường
trực. Bên cạnh đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội còn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn
được Quốc hội giao cho trong lĩnh vực lập pháp, hành chính nhà nước, giám sát và vì thế có
những mối quan hệ phân công và phối hợp với các cơ quan nhà nước cao cấp khác (Chủ tịch
nước, Chính phủ…)
Ngoài ra, theo quy định của Hiến pháp 1992, UBTVQH các Khóa IX, X, XI và XII đã
có sự thay đổi về số lượng và điều kiện làm việc. Số thành viên của UBTVQH đã được nâng
lên hoặc có dao động. Số thành viên của UBTVQH Khóa XII tăng lên 18 người. Nếu như ở
những khóa trước đây, các Ủy viên UBTVQH (hoặc Hội đồng Nhà nước) hầu hết hoạt động
kiêm nhiệm, thì Chủ tịch QH, các Phó chủ tịch QH và các Ủy viên UBTVQH, theo Hiến
pháp 1992 đều hoạt động chuyên trách. Đây là điều kiện thuận lợi để UBTVQH thực hiện và
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đối với các cơ quan khác của Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 cơ bản vẫn giữ nguyên
quy định về việc thành lập Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội và về cơ quan,
không có gì thay đổi lớn so với Hiến pháp năm 1980.
Nhiệm vụ của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được tăng cường, vai trò
được đề cao. Trong cơ cấu tổ chức của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội có
điểm mới là việc quy định số đại biểu Quốc hội chuyên trách là thành viên của các cơ quan
này. Đây là những quy định mới nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Các Hội đồng và Ủy ban thường trực của Quốc hội cũng có thay đổi. Hội đồng và Ủy
ban là những cơ quan của Quốc hội có nhiệm vụ giúp Quốc hội trong việc thẩm tra các dự án
luật, các kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác; thẩm tra các báo cáo được
Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao…
Thêm vào đó, Hiến pháp năm 1992 quy định rõ ràng hơn về nhiệm vụ, quyền hạn, đề
cao vai trò của đại biểu Quốc hội nhằm nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu Quốc hội
nói riêng của của Quốc hội nói chung. Điều này giúp cho QH thực sự đại diện cho khối đại
đoàn kết dân tộc, bảo đảm tính đại diện tiêu biểu của các tầng lớp nhân dân, của các cơ quan
nhà nước, cơ quan Đảng, đoàn thể, đại biểu của các lực lượng vũ trang nhân dân, các ngành,
lĩnh vực, các địa phương. Cơ cấu, thành phần ĐBQH theo Hiến pháp 1992 tương đối đạt yêu
cầu theo dự kiến. ĐBQH là phụ nữ đạt tỷ lệ cao hơn. Số đại biểu là người dân tộc thiểu số,
đại biểu trẻ tuổi và người ngoài Đảng cũng đạt tỷ lệ tương đối so với dự kiến. Hầu hết
ĐBQH trẻ tuổi có trình độ đại học, trên đại học. Cơ cấu ĐBQH đã có những thay đổi khá
toàn diện so với trước đây.
4
b. Về hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, là cơ quan
đại diện cho nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra.
Về tổ chức HĐND theo Hiến pháp 1992 cũng có một số thay đổi. Theo Luật tổ chức hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, thường trực HĐND được thành lập ở cả ba cấp tỉnh cấp
huyện và cấp xã (gồm chủ tịch, phó chủ tịch HĐND). Thành viên của thường trực HĐND
phải là đại biểu của HĐND và không đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp. Nhiệm kì
của thường trực HĐND theo nhiệm kì của Quốc hội.
Các ban chuyên môn của HĐND được thành lập nhằm đảm bảo hoạt động tập thể.
Theo quy định, các ban chuyên môn của HĐND chỉ được thành lập ở 2 cấp: cấp tỉnh và cấp
huyện. Còn HĐND cấp xã (phường) không có ban chuyên môn. HĐND cấp tỉnh được thành
lập 3 ban bao gồm: ban kinh tế, ngân sách; ban văn hóa xã hội; ban pháp chế (có thể thành
lập thêm ban dân tộc). HĐND cấp huyện được thành lập 2 ban: ban kinh tế và ban pháp chế.
Các ban được thành lập tại kì họp thứ nhất của HĐND và thành viên của các ban phải là
thành viên của HĐND; không đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp.
2.3 Hệ thống cơ quan hành chính
Khái
quát
sự ra
đời và
phát
triển
của
chính
phủ
nước
Chính cộng
phủ
hòa
XHC
N Việt
Nam.
Hiến pháp năm 1980
Hiến pháp năm 1992
Sau chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử năm 1975, nước nhà
thống nhất, tình hình mọi
mặt của đời sống xã hội có
nhiều biến đổi, đứng trước
yêu cầu tăng cường hiệu lực
quản lí của Bộ máy nhà nước
trong đó đặc biệt quan tâm
đến hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước, Hiến pháp
năm 1980, Luật tổ chức Hội
đồng bộ trưởng ngày
4/7/1981 đã khẳng định: Hội
đồng bộ trưởng là cơ quan
chấp hành và hành chính của
Quốc hội – quy định này chi
phối đến việc xác định vị trí,
chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, trật tự hình thành và chế
độ chịu trách nhiệm của Hội
đồng bộ trưởng trong bộ
máy nhà nước.
Hiến pháp 1992 ra đời, với nhận thức
mới về chủ nghĩa xã hội và những kinh
nghiệm tích lũy được trong thực tiễn tổ
chức quyền lực nhà nước, bộ máy nhà
nước đã có những cải cách phù hợp, đặc
biệt là hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước. Hội đồng bộ trưởng được đổi tên
thành Chính phủ, quy định tại Chương
VIII Hiến pháp năm 1992 và cụ thể hóa
trong Luật tổ chức Chính phủ 30/9/1992.
Sau 10 năm thực hiện, Hiến pháp năm
1992 được sửa đổi năm 2001, trong đó
những quy định tại các điều 112, 114,
116 về Chính phủ đã được sửa đổi, bổ
sung. Đây là cơ sở cho Quốc hội khóa X,
kì họp thứ 10 thông qua Luật tổ chức
chính phủ ngày 25/12/2001.
5
Vị trí,
tính
chất
và
chức
năng
nhiệm
vụ
quyền
hạn.
Theo Hiến pháp năm 1980
và Luật tổ chức Hội đồng bộ
trưởng năm 1981: “Hội đồng
bộ trưởng là chính phủ của
nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, là cơ quan
chấp hành và là cơ quan
hành chính cao nhất của cơ
quan quyền lực nhà nước
cao nhất” (Điều 104). Hội
đồng bộ trưởng chỉ được xác
định là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của Quốc
hội. Điều đó thể hiện sự khác
biệt so với những quy định
về Chính phủ trong Hiến
pháp năm 1926 và năm
1959. Thành viên của Hội
đồng bộ trưởng đều do Quốc
hội bầu, bãi nhiệm và miễn
nhiệm. Hội đồng bộ trưởng
không chỉ chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước
Quốc hội mà trong thời gian
Quốc hội không họp chịu
trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Hội đồng nhà nước.
Hiến pháp năm 1992 đổi tên Hội đồng bộ
trưởng thành Chính phủ và xác định lại
vị trí của Chính phủ: “Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước
CHXHCN Việt Nam” (Điều 109).
Khẳng định Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội nhưng là cơ quan
hành chính nàh nước cao nhất của nước
CHXHCN Việt Nam nhằm chỉ rõ tính
chất của chính phủ và mối quan hệ giữa
Chính phủ và Quốc hội. Chính phủ do
Quốc hội thành lập ra, nhiệm kì theo
nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết
nhiệm kì thì chính phủ tiếp tục hoạt động
đến khi bầu ra chính phủ mới. Thành
viên của Chính phủ có thể bị Quốc hội
bãi nhiệm, miễn nhiệm và cách chức
theo qui định của pháp luật. Với thẩm
quyền của cơ quan có thẩm quyền cao
nhất, Quốc hội quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước như kế hoạch,
ngân sách, các loại thuế, ban hành Hiến
pháp và luật…Để triển khai được các
nghị quyết đó, chính phủ phải tổ chức
thực hiện triển khai có hiệu quả. Trên cơ
sở cụ thể hóa bằng các văn bản dưới luật,
chính phủ đề ra biện pháp thích hợp,
phân công, chỉ đạo thực hiện các văn bản
đó trên thực tế. Tuy nhiên, Chính phủ là
cơ quan hành chính cao nhất của nhà
nước CHXHCN Việt Nam, đây là quan
điểm có sự đổi mới so với Hiến pháp
năm 1980, nhằm đề cao vị trí của Chính
phủ trong hoạt động quản lý nhà nước.
6
Hiến pháp 1980 quy định
Hội đồng bộ trưởng gồm có:
Cơ
Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội
cấu tổ đồng bộ trưởng, các bộ
chức trưởng và chủ nhiệm ủy ban
của nhà nước. Tại kì họp thứ
Chính nhất Quốc hội khóa VII đã
phủ thành lập 28 bộ và 8 ủy ban
nhà nước
Ủy
ban
nhân
dân
Hiến pháp 1992 qui định cơ cấu tổ chức
của Chính phủ gồm có bộ và cơ quan
ngang bộ.
Trên cơ sở quy định Hiến pháp năm
1992 và luật tổ chức Chính phủ 2001, tại
kì họp thứ nhất Quốc hội khóa XI bầu ra
Thủ tướng, bổ nhiệm 3 Phó thủ tướng,
thành lập 20 bộ và 6 cơ quan ngang bộ.
Thủ tướng chính phủ do Quốc hội bầu,
bãi nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị
của Chủ tịch nước. Thủ tướng trình Quốc
hội phê chuẩn đề nghị việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối
với Phó thủ tướng, bộ trưởng, thủ trưởng
cơ quan ngang bộ.
UBND cùng được thành lập ở 3 cấp; tỉnh, huyện, xã nhưng có sự
thay đổi nhất định giưa hp 1980 và hp 1992
Nhiệm vụ, quyền hạn của chủ tịch UBND trong quuy định của hp
1992: vai trò được đề cao hơn, có niều quyền hơn. một số nhiệm vụ,
quyền hạn của chủ tịchUBND được chuyển giao cho thường trực
HĐND, điều hoà phối hợp hoạt động của các ban thuộc HĐND…
Cơ cấu tổ chức của UBND theo hp 1992: gon nhẹ hơn. Không có
thường trực UBND, số lượng các sở, phòng, ban, ngành cũng giảm đáng
kể so với hp 1980.
2.4. Chủ tịch nước
Chế định nguyên thủ quốc gia là cá nhân trong Hiến pháp năm 1959 đã trở thành
nguyên thủ quốc gia tập thể dưới hình thức Hội đồng Nhà nước trong Hiến pháp 1980. Hội
đồng nhà nước là Chủ tịch nước tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây
là mô hình tổ chức nguyên thủ quốc gia chung của các nhà nước xã hội chủ nghĩa mà ở đó
nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được vận dụng đậm nét. Với cách tổ chức này thì các
hoạt động của Nhà nước đều được trực tiếp thực hiện bằng cơ quan đại diện cao nhất của
nhân dân - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất… Bản thân Chính phủ (hội đồng bộ
trưởng) cũng được tổ chức gắn liền với Quốc hội. (Hội đồng bộ trưởng là cơ quan chấp hành
và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất). Đối với nước
ta, đến đây có thể coi là hoàn thành quá trình xây dựng bộ máy nhà nước theo mô hình xã
hội chủ nghĩa thuần túy. Đó là sự phát triển logic. Tuy nhiên quá trình thực hiên thể chế Hội
đồng nhà nước đã bộc lộ nhiều hạn chế. Bên cạnh một số tiện lợi như các vấn đề thuộc
quyền hạn nguyên thủ quốc gia đều được phối kểt hợp giữa Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước, được thảo luận tập thể, quyết định theo đa số thường chắc chắn và tránh được những
ngẫu nhiên: bộ máy gọn nhẹ hơn và đơn giản các thủ tục làm việc, thì cũng có những điểm
khiếm khuyết như: mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể và quyết định theo đa số; không phận
định rõ hoạt động tập thể của cơ quan thường trực của Quốc hội và chức trách cá nhân trong
7
việc thực hiện các hoạt động đại diện Nhà nước… Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải tổ chức
lại chế định này và đã được sửa đổi tại Hiến pháp 1992
Theo Hiến pháp 1992, thiết chế chủ tịch nước được xây dựng lại. Mô hình lần này
vừa tiếp thu những ưu điểm của mô hình Chủ tịch nước của Hiến pháp 1959 và 1946, vừa
giữ được sự gắn bó giữa Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc
thực hiện các chức năng nguyên thủ quốc gia trong thể chế Hội đồng Nhà nước. Đồng thời
có thêm những điểm mới. Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Ủy ban
thường vụ quốc hội, các vấn đề mà Quốc hội trao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội giải quyết
giữa hai kì họp cần phải có sự thông qua của Chủ tịch nước. Chủ tịch nước được bổ sung
một số quyền hạn mới như: quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp
lệnh, quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm thẩm phán các cấp và kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chủ tịch nước lần này cũng không bổ nhiệm Thủ tướng
và Thủ tướng không chịu trách nhiệm trước Chủ tịch nước. Tóm lại, sự đổi mới tổ chức chế
định Chủ tịch nước nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung trong Hiến pháp 1992 thể hiện
quan điểm cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Đảng đề ra.s
2.5. Hệ thống cơ quan xét xử
Giống nhau: Hệ thống cơ quan toà án được đều được thành lập theo 3 cấp: trung ương,
địa phương, huyện.
Khác nhau: Trong tổ và hoạt động của toà án có sự thay đổi như sau:
Tiêu chí so sánh
Hệ thống cơ quan toà án
Hiến pháp năm 1980.
Hiến pháp năm 1992.
Gồm toà hình sự và toà Ngoài 2 toà hình sự và dân sự thì
dân sự.
có thêm toà kinh tế, toà hành
chính, toà lao động.
2. Chế độ bầu cử thẩm - Bầu
- Bổ nhiệm.
phán
3. Tiêu chuẩn của thẩm
- Đòi hỏi phải cao hơn.
phán.
4. Công tác thi hành án dân - Chuyển giao cho hội - Được chuyển giao cho cơ quan
sự.
đồng bộ trưởng ( Bộ tư thuộc Chính phủ.
pháp).
Nguyên nhân của sự khác nhau đó:
Do điều kiện, hoàn cảnh của đất nước nên phải thay đổi cơ cấu cho phù hợp.
Do sự thay đổi của cấp hành chính đấn đến sự phân cấp xét sử cũng có sự thay đổi
theo.
Do yêu cầu của việc xét sử theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường yêu cầu xét sử cao
hơn để đáp ứng yêu cầu mới nên tổ chức cơ cấu của hệ thống cơ quan xét xử phải thay đổi.
2.6.
Hệ thống cơ quan kiểm sát
Điểm giống:
8
Trong hai bản Hiến pháp hệ thống cơ quan kiểm sát đều được thành lập ở 3 cấp:
VKSND tối cao, VKSND tỉnh, VKSND huyện với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
viện kiểm sát về cơ bản giống nhau:
“Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của các bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan
chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà
nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất. Các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện Kiểm sát quân sự
kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của
mình” (Điều 138 Hiến pháp 1980)
“Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ
quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công
tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát
nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực
hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định” (Điều 137 Hiến pháp 1992).(1).
Điểm khác:
Tuy hệ thống cơ quan kiểm sát được quy định trong Hiến pháp 1992 về cơ bản không
thay đổi so với Hiến pháp 1980 nhưng tập trung hơn vào chức năng công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp (không kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính-kinh
tế.
Mối quan hệ giữa viện trưởng với tập thể ủy ban kiểm sát được điều chỉnh lại để kết
hợp giữa tính sáng tạo của tập thể và vai trò cá nhân của viện trưởng: Điều 138 Hiến pháp
1992:
“Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự
lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Việc thành lập Uỷ ban kiểm sát, những vấn đề Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có
quyền quyết định, những vấn đề quan trọng mà Uỷ ban kiểm sát phải thảo luận và quyết
định theo đa số do luật định.
Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương
và Viện kiểm sát quân sự các quân khu và khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức”
Quan hệ giữa viện trưởng và hội đồng nhân dân cùng cấp cũng được điều chỉnh lại:
đặt viện trưởng dưới sự giám sát của hội đồng nhân dân cùng cấp: Điều 140 Hiếp pháp
1992: “Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước
Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại
biểu Hội đồng nhân dân”
Trong khi Hiến pháp 1980 quy định: viện trưởng đặt dưới sự quy định của Quốc hội.
“Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Hội đồng Nhà nước” (Điều 141 Hiến pháp 1980).
9
3.
Đánh giá điểm kế thừa và thay đổi của Hiến pháp 1992
Xuất phát từ những yêu cầu của thời kì đổi mới, Quốc hội đã quyết định sửa đổi hiên pháp
1980 để ban hành một hiến pháp mới là hiến pháp 1992. Hiến pháp năm 1992 đã có nhiều
quy định về đổi mới bộ máy nhà nước, về nguyên tắc hoạt động cũng như mối quan hệ giữa
các cơ quan nhà nước, nhằm hoàn thiện và phát huy hiệu quả hoạt động của nhà nước Việt
Nam trong thời kì đổi mới.
Trong hiến pháp 92, bộ máy nhà nước lại một lần nữa được củng cố lại. Việc phân cấp
quản lí hành chính nhà nước cũng giống như hiến pháp năm 80 đã quy đinh: gồm 4 cấp
(trung ương; tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương; huyện, quận và tương đương; xã,
phường và tương đương) nhưng xu hướng tách rời các đơn vị hành chính lớn thành các đơn
vị hành chính nhỏ hơn cho phù hợp với trình độ quản lí và điểu kiện địa lí… Bộ máy nhà
nước theo hiến pháp 92 gồm 4 hệ thống: hệ thống cơ quan đại diện, hệ thống cơ quạn chấp
hành, hệ thống cơ quan tòa án, hệ thống cơ quan viện kiểm sát.
Tuy nhiên, bộ máy nhà nước theo quy định của Hiến pháp 1992 cũng đã có nhiều thay đổi so
với Hiến pháp 1980. Uỷ ban thường vụ Quốc hội được thành lập, chế độ chủ tịch tập thể
được bãi bỏ và thay thế là chế định chủ tịch nước; chính phủ được quy định là cơ quan chấp
hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Nhưng nhìn chung về cơ bản vẫn giữ nguyên khung như Hiến pháp
1980.
BMNN ở hiến pháp 1992 đã kế thừa được những mặt tích cực mà bộ máy nhà nước ở hiến
pháp 1980 có được, đó là sự gắn bó giữa Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội với chủ
tịch nước trong thực hiện chức năng nguyên thủ Quốc gia. Hiến pháp 1992 còn là sự phát
triển, thể hiện sự đổi mới mang tính tiến bộ. Cụ thể: Hiến pháp 1992 đã tách chủ tịch nước
thành một thiết chế riêng chứ không phải là một cơ cấu nằm trong Quốc hội như hiến pháp
1980. Ngoài ra chủ tịch nước còn bổ sung thêm một số quyền hạn mới như: quyền đề nghị
xem xét lại một số pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy
định tại các điểm 8, 9 của điều 91 Hiến pháp 1992…Sự đổi mới đó quán triệt nguyên tắc:
Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền hành pháp, tư pháp, lập pháp.
Có thể thấy rằng những nguyên tắc cơ bản cũng như mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy nhà
nước theo quy định hiến pháp 1992 là phù hợp. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu và phù hợp
với tình hình mới, hiến pháp năm 1992 cũng đã kịp thời được những bổ sung, sửa đổi những
điều cần thiết, mà chủ yếu là điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
quan trọng trọng bộ máy nhà nước. Những sửa đổi bổ sung này cho thấy Đẳng và nhà nước
ta luôn luôn có tư tưởng và ý thức đổi mới, không bảo thủ nhưng cũng không cực đoan tởi
mức phủ định những gì hợp lí, hiệu quả đã được thực tế chứng minh.
Như vậy, nhưng thay đổi của hiến pháp 1992 là một bước cải cách lớn về tổ chức bộ máy
nhà nước, giảm thiểu được những hạn chế của bộ máy nhà nước theo mô hình của hiến pháp
1980. Thể hiện được một cách rõ nét hơn vai trò cá nhân của những người đứng đầu cơ quan
nhà nước, làm tăng vai trò quản lí điều hành của bộ máy nhà nước, nhất là trong giai đoạn
đẩy mạnh công cuộc đổi mới như hiện nay vì nhiều vấn đề được quyết định nhanh chóng, có
thể tận dụng các điều kiện và cơ hội có lợi cho sự phát triển của đất nước.
Tóm lại, vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước là vấn đề cơ bản và phức tạp của mọi quốc gia.
Những vấn đề hôm nay là phu hợp thì ngày mai có thể cần thay đổi. Vì vậy những sửa đổi
10
của hiến pháp 1992 có thể là cần thiết nhưng chắc chắn chưa phải là cuối cùng. Lý luận và
thực tiễn bộ máy nhà nước ở Việt nam đang là vấn đề thời sự thu hút sự quan tâm của các
nhà khoa học, các nhà quản lí. Với ý thức không ngừng đổi mới, chắc chắn tổ chức bộ mày
nhà nước Việt Nam sẽ ngày càng hoàn thiện hơn.
Nguyên nhân của sự thay đổi về bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980
và hiến pháp 1992
4.
Nói đến sửa đổi Hiến pháp và pháp luật không thể trở lại với điểm xuất phát đích thực của
nó đó là đường lối đổi mới do đảng ta khởi sướng từ đại hội VI năm 1986. Từ đó đến nay
thực tiễn và những chính sách của Đảng và nhà nước làm sâu sắc thêm đường lối đúng đắn
trên cả mặt kinh tế- chính trị, văn hoá - xã hội, đối nội - đối ngoại.
4.1 Nguyên nhân về mặt lịch sử - kinh tế và xã hội
Vào những năm cuối thập kỉ 80 của thế kỉ XX sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở
Liên xô và Đông Âu đã đặt ra yêu cầu đổi mới kinh tế và chính trị ra đạt ra những thách thức
mới cho nước ta.Đứng trươcs yeu cầu đó Đại hội Đảng khoá VI đã đề ra đường lối đổi mới
cả về kinh tế chính trị.
Năm 1986 đất nước đổi mới, chính sách kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có
sự quản lí của Nhà nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội là nhân tố cơ bản đã đưa lại
những thành tựu về kinh tế. Vì chính sách đó đã khơi dậy những khả năng ta lớn để phát huy
nhưng tiềm năng trí tuệ, mọi tiềm lực kinh tế và xã hội, khắc phục được cơ chế tập trung bap
cấp.
Cơ chế thị trường đã đòi hỏi tăng cường vai trò quản lí của nhà nước về kinh tế xã hội để
phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế đó. Nhưng ở
đây vai trò điều tieet vĩ mô đã tỏ ra yếu kém, công tác kế hoạch hoá, sử dụng phát luật kinh
tế, haotj động của hệ thống tài chính, ngân hang còn tiêu cuwcj,tình trạng thất thoát láng phí
tài sản công và nguồn vốn nhà nước.
Về chính trị xã hội và dân chủ xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nhưng thành tựu về kinh tế, ảng
và nhà nước ta chủ trương từng bước đổi mới hệ thống chính trị khẳng định hơn nữa quyền
lực nhân dân, do nhân dân vì nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình tăng cwongf vai trò quản
lí của nhà nuwocwc nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước trong điều hành kinh tế vĩ
mô cũng như tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nahf nước còn nhiều bất
cập. Nhược điểm còn tồn tại từ lâu vẫn chưa được khắc phục như tình trạng dân chủ hình
thức, chuyên aquyeenf độc đoán, xem thường kỉ cương pháp luật cảu nhiều cấp qwuanr lí đã
đặt ra yêu cầu xây dụng một bộ máy nhà nước mới cho phù hợp với tình hình mới cung như
kiện toàn bộ máy nhà nước là một yêu cầu cấp thiết cho Hiến pháp 1992.
4.2 Nguyên nhân về mặt tư tưởng.
Chính sự thay đổi về lịch sử và kinh tế xã hội đã tạo những tiền đề cho sự thay đổi về tư
tưởng trong việc tổ chức bộ máy nhà nước. Quan điểm mới về chủ nghĩa xã hội cũng như
yêu cầu mới trong cơ chế thực hiện quyền lực của nước ta theo hưóng tăng cưòng tính độc
lập vê nhiệm vụ quyền hạn của các hệ thống cơ quan đã làm cho tư tưỏng mới về một mô
hình nhà nước mới để đảm bảo việc thực hiện vai trò quản lí đời sống kinh tế xã hội của kinh
tế đổi mới
Sự thay đổi trong quan niệm về nhà nước pháp quền xã hội chủ nghĩa khi nghiên cứu đã chỉ
ra rằng bất kì bộ máy nhà nước nào đều không ngưng hoàn thiện và biến đổi phù hợp với mộ
hạ tầng kinh tế xã hội nhất định. Chính vì vậy mà việc thay đổi bộ máy nhà nươcs là một tất
11
yêus của thời đại điều quan trọng là chúng ta nghiên cứu và vận dụng như thế nào đẻ xây
dựng bộ máy nhà nước cho phù hợp với nhu cầu quản lí trong nền kinh tế thị trường có
nhiều biến đổi mau lẹ.Vì vậy quan niện về tổ chức bộ máy nhà nước mới theo hướng đề cao
vai trò và trách nhiệm cá nhân nhằm phát huy tính chủ độnh và sang tạo của mỗi cá nhân là
phù hợp đó là cơ sở lí luận quan trọng thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước qua hai abnr
Hiến pháp.
KẾT LUẬN
Sự thay đổi về tổ chức bộ máy nhà nước theo hai bản Hiến Pháp 1980 và 1992 là một tất
yếu lịch sử, là yêu cầu đòi hỏi khách quan của hiện thực xã hội khi đất nước đang chuyển
mình khi xây dựng nền kinh tế thị trừơng định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù ở mỗi Hiến
pháp tổ chức bộ máy nhà nước có những ưu điểm và hạn chế nhất định song nó đã đánh dấu
sự phát triển của tổ chức bộ máy nhà nước. Vấn đề hoàn thiện bộ máy nhà nước là một vấn
đề cơ bản và quan trọng nhất trông mỗi bản Hiến pháp của bất kì quốc gia nào vì vậy tổ chức
bộ máy nhà nước qua hai bản Hiến pháp chúng ta đang đề cập đã để lại nhưng giá trị lí luận
nhất định và những hạt nhân hợp lí và tiến bộ của nó sẽ được nghiên cứu và phát triển để
hoàn thiện bộ máy nhà nứớc xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội.NXB Tư pháp
2006.
2. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Khoa Luật Đại học Quốc Gia.
3. Hội thảo khoa học “Vấn để hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước trong thời kì công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước” - Trường đại học Luật Hà Nội 2008.
4. Bình luận Hiến pháp 1992, NXB Khoa học xã hội, 1997.
5. Từ điển tiếng Việt, NXB.Khoa học xã hội - trung tâm từ điển học
6. Hỏi đáp về Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXb chính trị quốc
gia. 2005.
7. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992; năm 1992 (sửa đổi,
bổ sung năm 2001).
8. Bùi Xuân Đức, Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay, Nxb,
Tư pháp, Hà Nội, 2004
12
9. Website: www.na.gov.vn; www.dangcongsan.vn; www.sinhvienluat.vn.
13
- Xem thêm -