Phân tích nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc: “ Quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” trong giải quyết vụ việc dân sự.
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
ĐỀ TÀI SỐ 4:
Phân tích nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc: “ Quyền yêu cầu tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp” trong giải quyết vụ việc dân sự.
1
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT:
BLTTDS :
Bộ luật tố tụng dân sự
BLDS:
Bộ luật dân sự
MỤC LỤC :
A. MỞ ĐẦU:.......................................................................................4
B. NỘI DUNG:....................................................................................5
I. Khái quát về nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp:.........................................................................................................5
I. Nội dung của nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp:.........................................................................................................6
1. Cơ sở pháp lý:..........................................................................................6
2. Nội dung của nguyên tắc:.......................................................................6
2.1 Ghi nhận quyền yêu cầu Tòa án bảo về quyền và lợi ích hợp pháp
trong giải quyết các vụ việc dân sự:..........................................................6
2.2 Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa
có điều luật để áp dụng:............................................................................9
2.2.1 Quy định mới được bổ sung dựa trên quy định của BLTTDS
2004( sửa đổi, bổ sung 2011):...............................................................9
2.2..2 Việc giải quyết vụ việc dân sự khi chưa có điều luật cụ thể được
thực hiện theo phương thức quy định tại Điều 43 đến Điều 45 của
BLTTDS như sau:................................................................................12
II. Ý nghĩa của nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp khi áp dụng vào giải quyết vụ, việc dân sự:.........................13
1. Bắt đầu cho mọi đối tượng trong xã hội có quyền tiếp cận công lý,
Tòa án một cách không hạn chế và công bằng:......................................13
2
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân một cách
kịp thời và triệt để, ngay cả trong trường hợp tranh chấp dân sự đó
chưa có quy định của pháp luật điều chỉnh:...........................................14
3. Tạo tiền đề cho tập quán, án lệ, tương tự pháp luật, lẽ công bằng,
các nguyên tắc được áp dụng một cách triệt để hơn:.............................15
4. Loại bỏ được những trường hợp Tòa án thoái thác do không có điều
luật để áp dụng:.........................................................................................16
5. Thể hiện bước chuyển biến đối với quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta:..............................................................................17
C. KẾT LUẬN:.................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:........................................19
A. MỞ ĐẦU:
Bộ luật TTDS 2015 là một trong những văn bản có ý nghĩa hết sức to lớn đối
với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Từ đó ta thấy được
một trong những nguyên tắc cơ bản và quan trong của BLTTDS 2015 đó là
nguyên tắc: “ Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” . Về cơ
bản nguyên tắc này dựa trên cơ sở của BLTTDS 2004( sửa đổi, bổ sung 2011)
có bổ sung thêm quy định về việc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc
dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Đó là một quy định rất mới, nhằm
bảo vệ quyền lợi ích của đương sự và nâng cao trách nhiệm của Tòa án.
Việc lựa chọn đề tài : “Phân tích nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc: “
Quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” trong giải quyết vụ
việc dân sự” sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nội dung, ý nghĩa và thực tiễn áp
dụng quy định này của pháp luật TTDS Việt Nam.
3
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
B. NỘI DUNG:
I. Khái quát về nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp:
Nguyên tắc của một ngành luật hiểu chung nhất là những nguyên lý, tư tưởng
pháp lý chỉ đạo, định hướng cho hoạt động xây dựng và thực hiện các quy định
của ngành luật đó. Vì vậy, khi xây dựng và soạn thảo các văn bản quy phạm
pháp luật của một ngành luật thì vấn đề hết sức quan trọng phải được xác định
đó là những nguyên tắc cơ bản của ngành luật đó. Các nguyên tắc của một
ngành luật được ghi nhận thông qua các quy định tại một hoặc một số điều luật
cụ thể của ngành luật đó. Khi những nguyên lý, tư tưởng pháp lý đã được ghi
nhận bằng các quy phạm pháp luật thì sẽ có giá trị bắt buộc và được bảo đảm
thực thi trên thực tế.
Luật tố tụng dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Vì
vậy, việc xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp luật tố tụng dân sự phải dựa
trên những tư tưởng, nguyên lý nhất định xuất phát từ việc xác định nhiệm vụ
của Luật tố tụng dân sự là thể chế hoá được các quan điểm, đường lối của Đảng
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, xây dựng một trình tự, thủ tục
tố tụng dân sự khoa học trên cơ sở bảo đảm cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động
tố tụng dân sự. Các tư tưởng, nguyên lý đó được quy định trong các văn bản
pháp luật tố tụng dân sự
Nguyên tắc của Luật TTDS Việt Nam là những nguyên lý, tư tưởng pháp lý
chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự và
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật TTDS.
Các nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS Việt nam được quy định khá đầy đủ
và toàn diện tại các điều, từ Điều 3 đến Điều 24 của BLTTDS năm 2004, bao
gồm 22 nguyên tắc. Trong đó, nguyên tắc “Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp” là một trong những nguyên tắc cơ bản góp phần bảo đảm
cho quyền và lợi ích của đương sự.
I. Nội dung của nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp:
4
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
1. Cơ sở pháp lý:
Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể vừa là mục đích, vừa là động cơ
thúc đẩy các chủ thể tham gia các quan hệ dân sự. Nhà nước công nhận và bảo
hộ các quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể. Khi các quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể bị xâm phạm thì pháp luật ghi nhận cho các chủ thể có thể
khởi kiện hoặc yêu cầu Toà án xét xử buộc người có hành vi vi phạm phải chấm
dứt hành vi vi phạm, buộc người vi phạm phải bồi thường thiệt hại hoặc công
nhận hay không công nhận về một sự kiện pháp. Nguyên tắc “ Quyền yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” được quy định tại Điều 4 BLTTDS
2015. Là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo đảm bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp cho các chủ thể trong các quan hệ pháp luật.
2. Nội dung của nguyên tắc:
2.1 Ghi nhận quyền yêu cầu Tòa án bảo về quyền và lợi ích hợp pháp trong
giải quyết các vụ việc dân sự:
Khoản 1, Điều 4 BLTTDS 2015 có quy định như sau: “Cơ quan, tổ chức, cá
nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải
quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. Theo đó khi quyền và lợi
ích hợp pháp của mình hoặc của người khác bị xâm hại thì cá nhân, cơ quan, tổ
chức do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện VADS, yêu cầu giải quyết việc
dân sự tại Tòa án có thẩm quyền.
Về quyền khởi kiện được quy định tại BLTTDS như sau: Thứ nhất: Các
chủ thể khởi kiện VADS để tự bảo vệ mình được bao gồm: Cơ quan, tổ chức
khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức; Cá nhân khởi kiện
VADS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình. 1Thứ hai, các chủ
1 Điều 186, BLTTDS năm 2015
5
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
thể khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích của người khác, lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng.2
Về quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự: cơ quan, tổ chức, cá nhân không
có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhân một
sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại.3
Các chủ thể trên được quy định trong BLTTDS năm 2015 được quyền yêu
cầu Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp đó. Khi các tranh chấp, hoặc
các yêu cầu diễn ra nếu các bên đương sự không thể tự mình thỏa thuận thì có
quyền nộp đơn khởi kiện hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục chung
hoặc thủ tục rút gọn. Sau khi chủ thể có quyền khởi kiện, yêu cầu tòa án giải
quyết vụ án, vụ việc thì Chánh án Tòa án có Thẩm quyền có trách nhiệm phân
công Thẩm phán xem xét hồ sơ vụ án, sau khi xem xét xong nếu xét thấy cần bổ
sung chứng cứ thì Thẩm phán yêu cầu đương sự bổ sung chứng cư tài liệu kèm
theo, nếu xét thấy không đúng thẩm quyền thì chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có
thẩm quyền xem xét giải quyết. Nếu xét thấy vụ việc thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo ngay cho người khởi kiện,
người yêu cầu biết để họ đến làm thủ tục tạm ứng án phí, lệ phí trong trường
hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí. Thẩm phán tiến hành thụ lý vụ việc
người khởi kiện, người yêu cầu nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí theo
Luật định.
Đây là một quyền dân sự cơ bản của cá nhân, cơ quan, tổ chức đã được
BLTTDS quy định thành một nguyên tắc nhằm bảo đảm cho cá nhân, cơ quan,
tổ chức, được Nhà nước bảo vệ khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Cá
2 Điều 187, BLTTDS năm 2015
3 Điều 361, BLTTDS năm 2015
6
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
nhân, cơ quan, tổ chức khi yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
chính mình hoặc của người khác, khi quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm đồng
thời các quyền và lợi ích đó phải hợp pháp và yêu cầu đó phải được thể hiện
bằng văn bản : là đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, phải tuân theo các thủ tục do
BLTTDS quy định,chỉ có như vậy, Tòa án mới có thể thực hiện được việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Một vấn đề cần lưu ý
là Tòa án (hay Nhà nước) chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại mà
thôi. Bất cứ quyền, lợi ích nào không hợp pháp, tức quyền và lợi ích đó không
được pháp luật quy định, không phù hợp với pháp luật hoặc trái pháp luật thì
không được Tòa án bảo vệ.
Nguyên tắc trên đã được quy định cụ thể trong BLTTDS và được thể hiện
qua các giai đoạn của quá trình TTDS từ khi khởi kiện, yêu cầu cho đến giai
đoạn thi hành án, công nhận và cho thi hành bản án quyết định, công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự. Dù là ở bất kì giai đoạn nào cơ quan, tổ chức, cá
nhân được BLTTDS quy định đều được thực hiện quyền năng này,
Đây chính là một trong những nguyễn tắc cơ bản và xuyên suốt của
ð
BLTTDS. Theo đó nâng cao trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Và từ đó nâng cao vai trò của Tòa án, tạo
niềm tin cho nhân dân trong TTDS.
Ví dụ: Để làm rõ nội dung trên được thể hiện trong các giai đoạn của vụ án
dân sự. Khi có sự vi phạm về hợp đồng giữa hai công ty A và B, mà hai công ty
trên không thể tự tiến hành thỏa thuận được với nhau. Thì một trong hai bên có
quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết mâu thuẫn về hợp đồng. BLTTDS đã
quy định rất rõ về chủ thể có quyền khởi kiện tại Điều 186 và Điều 187. Sau khi
đã tiến hành thụ lý vụ án BLTTDS đã quy định cụ thể về việc phải nộp cho Tòa
án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yếu cầu của nguyên đơn, bị đơn có
quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
7
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
quan có yêu cầu độc lập” thể hiện Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn( Điều 200);
Quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan(Điều 201).
Sau khi vụ án đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định của Tòa án
BLTTDS đã quy định về quyền kháng cáo trong thủ tục xét xử phúc thẩm. Hoặc
nếu bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị thì được thi hành theo
đúng quy định của pháp luật. Đây chính là sự cụ thể hóa của nguyên tắc trên, thể
hiện tinh thần của pháp luật TTDS Việt Nam.
2.2 Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có
điều luật để áp dụng:
2.2.1 Quy định mới được bổ sung dựa trên quy định của BLTTDS 2004( sửa
đổi, bổ sung 2011):
Khoản 2, Điều 4 BLTTDS 2015 quy định như sau: “Tòa án không được từ
chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.
Vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi
điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh
và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp
dụng.
Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản này được thực hiện theo
các nguyên tắc do Bộ luật dân sự và Bộ luật này quy định.”
Sau khi trải qua rất nhiều phiên họp lấy ý kiến về dự thảo BLTTDS năm
2015, với sự xuất hiện của hai luồng ý kiến khác nhau:
- Ý kiến thứ nhất cho rằng: Việc bổ sung quy định Tòa án không được từ
chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do không có điều luật để áp dụng tại
Điều 4 là cần thiết để bảo đảm thể chế hóa quy định của Hiến pháp về Tòa án
thực hiện quyền tư pháp, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân thì đối với những tranh chấp dân sự mà luật không quy định thuộc thẩm
8
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
quyền giải quyết riêng biệt của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giải quyết thì Tòa
án phải giải quyết. Khi chưa có điều luật cụ thể để áp dụng, thì Tòa án áp dụng
tinh thần của Hiến pháp, tập quán, áp dụng nguyên tắc chung của luật, áp dụng
án lệ, áp dụng nguyên tắc tương tự pháp luật và lẽ công bằng để giải quyết vụ
án. Nếu Tòa án từ chối giải quyết các tranh chấp dân sự vì lý do chưa có điều
luật cụ thể thì không có cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết. Việc Tòa án từ
chối thụ lý, giải quyết sẽ không bảo đảm thực hiện đầy đủ chức năng của mình
theo quy định của Hiến pháp.
- Ý kiến thứ hai: không nên bổ sung quy định nguyên tắc Tòa án không
được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì các lý do sau đây: .4
Thứ nhất, việc quy định như vậy sẽ dẫn đến tình trạng người dân tùy tiện
khởi kiện, hoặc một số người lợi dụng quy định này khởi kiện hoặc lôi kéo, kích
động một số người nhẹ dạ để gây mất trật tự, bất ổn cho xã hội.
Thứ hai, việc quy định như vậy sẽ tạo điều kiện để Toà án tùy tiện trong xét
xử, gây nên tình trạng bất nhất trong việc xét xử đối với những vụ việc có nội
dung tương tự.
Thứ ba, việc quy định như vậy là trái với quy định Tòa án xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật đã được ghi nhận trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân.
Trải qua quá trình tranh luận trong các cuộc họp về Dự thảo BLTTDS 2015
cùng với việc lấy ý kiến về dự thảo Bộ luật cuối cùng thì Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội đã thông qua và lựa chọn ý kiến thứ nhất. Đây là quy định mới của
BLTTDS năm 2015 được bổ sung trên quy định của BLTTDS năm 2004( Sửa
đổi, bố sung năm 2011) qua đó nhằm thể chế hóa tinh thần cải cách tư pháp về
Tòa án phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền
con người;
4 Theo tờ trình Bộ luật tố tụng Dân sự (sửa đổi) của Tòa án nhân dân tối cao
9
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013 đó là: các quyền con người, quyền
công dân về dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật.5
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 về vai trò của Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp cho nên mọi tranh chấp, khiếu kiện của
cá nhân, cơ quan, tổ chức về dân sự Tòa án phải có trách nhiệm giải quyết. 6
Việc bổ sung vấn đề này cũng để đồng bộ với quy định của BLDS năm 2015
đó là: tại Điều 5 và Điều 6 BLDS 2015 , quy định là trong trường hợp phát sinh
quan hệ tranh chấp trong lĩnh vực dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp
luật cũng không có quy định trực tiếp để áp dụng thì Tòa án có thể áp dụng tập
quán để giải quyết. Trường hợp tập quán cũng không có thì Tòa án áp dụng quy
định pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự (tương tự pháp luật) để giải
quyết. Và ngay cả trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật được thì
Tòa án phải áp dụng những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự,án lệ và lẽ
công bằng để giải quyết. Đặc biệt BLDS 2015 còn đề cập đến việc áp dụng án lệ
để xem xét và giải quyết tranh chấp dân sự. Việc áp dụng linh hoạt các nguồn
căn cứ được Bộ luật dân sự cho phép như trên sẽ góp phần xóa đi những “lỗ
hổng” có thể phát sinh trong quá trình giải quyết vụ, việc dân sự do Tòa án tiến
hành, đồng thời bảo vệ tối đa các quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, cơ
quan, tổ chức.
Tuy nhiên, để tránh việc giải quyết tràn lan, không phải mọi khởi kiện, mọi
yêu cầu nào của cơ quan, tổ chức, cá nhân Tòa án cũng thụ lý giải quyết, Bộ luật
tố tụng đã giới hạn vụ việc chưa có điều luật để áp dụng mà Tòa án phải thụ lý
giải quyết là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự
nhưng tại thời điểm vụ việc đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu
Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng. Như vậy, Tòa án chỉ giải quyết
các tranh chấp, các yêu cầu đối với quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của
5 Điều 14 Hiến pháp 2013
6 Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015
10
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự
do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (gọi chung là quan hệ dân sự);
còn các tranh chấp, các yêu cầu khác không phải là dân sự thì Tòa án sẽ không
thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.7
2.2..2 Việc giải quyết vụ việc dân sự khi chưa có điều luật cụ thể được thực hiện
theo phương thức quy định tại Điều 43 đến Điều 45 của BLTTDS như sau:
- Thẩm quyền của Tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp
chưa có điều luật để áp dụng được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều
35 đến Điều 41 của BLTTDS8. Đó là thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo vụ
việc, theo cấp, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu
cầu. Việc áp dụng thẩm quyền của Tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự trong
trường hợp chưa có điều luật để áp dụng tương tự như các trường hợp áp dụng
khi đã có điều luật.
- Trình tự, thủ tục thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có
điều luật để áp dụng được thực hiện theo quy định của Bộ luật này.9
- Khi giải quyết Tòa án căn cứ theo thứ tự để áp dụng: Tập quán; nguyên tắc
tương tự; nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng. Được
quy định cụ thể tại Điều 45 BLTTDS như sau:
+ Áp dụng tập quán: Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự
trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định. Tập
quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định
của BLDS. Trường hợp các đương sự viện dẫn các tập quán khác nhau thì tập
quán có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân
sự.
+ Áp dụng tương tự pháp luật: Tòa án áp dụng tương tự pháp luật để giải
quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật
7 Khoản 2, Điều 4 BLTTDS năm 2015
8 Điều 43, BLTTDS năm 2015
9 Điều 44, BLTTDS năm 2015
11
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
không có quy định và không có tập quán được áp dụng. Khi áp dụng tương tự
pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định
rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có quy phạm pháp luật nào
điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân
sự tương tự.
+ Áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng:
Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng
để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật.
Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã
được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao lựa chọn và được Chánh án
Tòa án nhân dân Tối cao công bố.( Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng
trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố.
Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội
thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự.)
II. Ý nghĩa của nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp khi áp dụng vào giải quyết vụ, việc dân sự:
1. Bắt đầu cho mọi đối tượng trong xã hội có quyền tiếp cận công lý,
Tòa án một cách không hạn chế và công bằng:
Theo quy định cũ, thì Tòa án chỉ thụ lý những vụ án đã có luật áp dụng. Và
pháp luật Việt Nam chưa có quy định áp dụng án lệ, và quy định đó phù hợp với
nguyên tắc Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, đến
ngày 06 tháng 4 năm 2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành
Quyết định số 220/ QĐ-CA quyết định về việc công bố án lệ. Cổng thông tin
điện tử Tòa án nhân dân tối cao đã đăng tải 06 án lệ đã được Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016. Trong đó có bốn án lệ
về các vụ án dân sự. Từ đó trên tinh thần quy định mới BLTTDS đã mở rộng
hơn về vai trò của Tòa án đối với đương sự, người có quyền yêu cầu. Quy định
12
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
trên để thể chế hóa của Hiến pháp về tòa án thực hiện quyền tư pháp. Vì sao lại
giao cho tòa án? Bởi tòa án là cơ quan tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, bảo vệ quyền công dân ... Giao cho tòa án là phù hợp. Thực
tiễn, các thôn, bản không có luật nhưng già làng, trưởng bản làm tốt, hòa giải tốt
bởi vì người ta có niềm tin, bởi vì người ta làm rất khách quan, bởi vì có công
bằng lẽ phải. Vấn đề này giao cho tòa án khó ở chỗ tòa án phải đào tạo, bồi
dưỡng những thẩm phán phải có trách nhiệm cao, giải quyết công việc khách
quan và có niềm tin vào công lý và kiên quyết bảo vệ công lý. Để từ đó mở rộng
cho mọi đối tưởng trong xã hội tham gia vào TTDS, và mọi đơn kiện, đơn yêu
cầu của họ nếu vụ việc dân sự tại thời đểm đó chưa có điều luật để áp dụng thì
Tòa án không được từ chối. Nếu Tòa án – cơ quan tư pháp bảo vệ pháp luật mà
từ chối, không giải quyết thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức biết tìm ai để giải
quyết, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.
2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân một cách
kịp thời và triệt để, ngay cả trong trường hợp tranh chấp dân sự đó chưa có
quy định của pháp luật điều chỉnh:
Với hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện của chúng ta, không phải lúc nào
cũng dự lường được hết được những tình huống, quan hệ xã hội phát sinh trên
thực tế, nhất là quan hệ trong lĩnh vực dân sự không ngừng biến động và phát
triển. Do đó, nếu vì lý do chưa có quy định pháp luật điều chỉnh mà Tòa án từ
chối yêu cầu giải quyết của cá nhân, pháp nhân thì quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, pháp nhân không thể được bảo vệ một cách tốt nhất. Hơn nữa việc
áp dụng pháp luật tương tự đang được BLDS hiện hành quy định tại Điều 3 là:
“Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận
thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương
tự của pháp luật.”
Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã quy định rất rõ nhiệm vụ của Tòa án nhân
dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
13
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
chức, cá nhân. Do đó, BLTTDS quy định Tòa án không được từ chối yêu cầu
giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng là phù hợp với
quy định của Hiến pháp, tạo điều kiện cho việc triển khai thi hành các quy định
của Hiến pháp vào cuộc sống.
Ngoài ra, trong lĩnh vực dân sự, ở nhiều nước trên thế giới thường áp
dụng nguyên tắc “bất khẳng thụ lý”; tức là, Tòa án không được từ chối giải
quyết các vụ, việc dân sự kể cả trong trường hợp chưa có quy định của luật.
Nếu cho rằng việc quy định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc
dân sự thì cần phải giao cho Tòa án quyền “giải thích pháp luật”, để trong
trường hợp không có luật thì Thẩm phán, Hội thẩm căn cứ các nguyên tắc chung
của pháp luật, niềm tin nội tâm và lẽ công bằng để đưa ra phán quyết, là một đòi
hỏi thiếu thực tế.
3. Tạo tiền đề cho tập quán, án lệ, tương tự pháp luật, lẽ công bằng, các
nguyên tắc được áp dụng một cách triệt để hơn:
Cần phải hiểu pháp luật được ra đời từ thực tiễn, co con người tạo ra và được
tổng kết từ thực tiễn. Vì vậy, pháp luật luôn lạc hậu hơn thực tiễn đời sống.
Ngoài ra, pháp luật cũng không thể dự liệu hết tất cả các trường hợp xảy ra trong
cuộc sống. Việc tuân thủ pháp luật là cần thiết, nhưng với những trường hợp
chưa có điều luật điều chỉnh, thì cũng cần linh hoạt trong việc xét xử.
Quy định này góp phần mở đường cho việc hình thành án lệ, nâng cao chất
lượng, hiệu quả của việc xét xử, từ đó hình thành nên những quy định pháp luật
mới, rút ngắn khoảng cách giữa sự hạn chế của quy định pháp luật và sự đa
dạng, phong phú của các quan hệ xã hội.
Việc quy định này cũng góp phần tích cực trong việc hình thành hệ thống án
lệ theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW. Việc thừa nhận án lệ trong hệ
thống pháp luật góp phần to lớn vào việc bổ sung những khiếm khuyết, những
“lỗ hổng” của pháp luật, bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của người dân
14
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
và phù hợp với nền kinh tế thị trường, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, các quan hệ kinh tế, dân sự đang phát
triển từng ngày, từng giờ, vì vậy pháp luật không thể dự liệu được hết tất cả các
tình huống nảy sinh trong cuộc sống. Việc phát triển hệ thống án lệ không những
giải quyết kịp thời quyền lợi của người dân, mà còn phù hợp với thông lệ thế
giới, với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Đồng thời với quy định
này sẽ tạo điều kiện cho thẩm phán chủ động sáng tạo trong hoạt động xét xử.
Và muốn làm được điều này, thì thẩm phán, người tham gia xét xử phải có cơ sở
pháp lý để thực hiện, đáp ứng nhiệm vụ đó thì họ phải không ngừng nâng cao
trình độ chuyên môn và trau dồi đạo đức, sao cho phán quyết của mình phải bảo
đảm hợp pháp, hợp lý và hợp tình.
4. Loại bỏ được những trường hợp Tòa án thoái thác do không có điều
luật để áp dụng:
Không phải đến nay vấn đề xét xử khi không có luật mới được đặt ra. Thực
tế điều luật này chỉ là sự cụ thể hóa của Điều 3 BLDS năm 2005 quy định về
việc có thể áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật và tuân theo các
nguyên tắc bình đẳng, công bằng, trung thực, thiện chí… để giải quyết tranh
chấp khi không có quy định cụ thể của luật.Việc quy bổ sung thêm về tường hợp
Tòa án không được từ chối thụ lý vì lý do chưa có điều luật áp dụng trong
BLTTDS sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân một cách
kịp thời và triệt để, ngay cả trong trường hợp tranh chấp dân sự đó chưa có quy
định của pháp luật điều chỉnh. Do đó, nếu vì lý do chưa có quy định pháp luật
điều chỉnh mà Tòa án từ chối yêu cầu giải quyết của cá nhân, pháp nhân thì
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân không thể được bảo vệ một
cách tốt nhất ta. Đây là căn cứ để Tòa án nhận đơn, thụ lý vụ việc, tiến hành giải
quyết những tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội mà pháp luật chưa thể
dự liệu.. Đây là quy định về việc tòa án không từ chối trong trường hợp không
có điều luật, chứ không phải là không có pháp luật. Việc xét xử vẫn phải tuân
theo các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, tập quán pháp hay quy định
tương tự của pháp luật, chứ không phải xét xử một cách tùy tiện
15
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
5. Thể hiện bước chuyển biến đối với quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta:
Việc mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân bảo đảm thực hiện đầy
đủ chức năng của mình theo quy định của Hiến pháp năm 2013 về chức năng,
nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là “cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (khoản 1 Điều 102). Đồng thời đây
cũng là bước chuyển quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước
ta. Đây là căn cứ để Tòa án nhận đơn, thụ lý vụ việc, tiến hành giải quyết những
tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội mà pháp luật chưa thể dự liệu.
Ngoài ra, quy định này góp phần đảm bảo trật tự, an ninh xã hội. Thông
thường khi các bên tranh chấp không thể thỏa thuận về một việc, họ mới tìm đến
Tòa án như một phương án giải quyết cuối cùng. Tuy nhiên khi tòa án từ chối
việc giải quyết do không có điều luật điều chỉnh, khiến các bên buộc phải tự giải
quyết với nhau. Điều này không tránh khỏi những hệ lụy như “cá lớn nuốt cá
bé”, tùy tiện xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của các bên, cũng như
của bên thứ ba và đồng thời xâm hại đến an ninh quốc gia, an toàn xã hội.
16
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
C. KẾT LUẬN:
Trước khi BLTTDS có hiệu lực pháp luật thì vẫn còn rấ nhiều luồng ý kiến
trái chiều tranh cãi về quy định trên. Đúng vậy, mỗi sự vật hiện tượng đều có hai
mặt lợi và hại, do đó muốn nhìn rõ chúng thì phải đứng ở góc độ để chọn ra
được quy định hợp lý nhất. Theo quan điểm cá nhân em thì hoàn toàn đồng ý
với việc bổ sung thêm quy định tại khoản 2, Điều 4 BLTTDS năm 2015.
Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, trong việc giải
quyết vụ việc dân sự. Là một trong những nguyên tắc cực kì quan trọng của Bộ
luật Tố tụng dân sự 2015. Nguyên tắc trên đã được BLTTDS năm 2015 cụ thể
hóa bằng các quy định cụ thể. Việc bổ sung thêm trường hợp Tòa án không được
từ chối thụ lý trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng là hoàn toàn phù hợp,
và góp phần nào đưa pháp luật của nước ta đạt được bước cải cách mới và thông
qua đó quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức được đảm bảo và bảo vệ
một cách hữa hiệu.
17
Bài tập cá nhân môn Luật TTDS – Lý Thị Ngoan K2E
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Hiến pháp năm 2013;
- Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
- Bộ luật Tố tụng dân sự 2004( sửa đổi, bổ sung năm 2011);
- Bộ luật Dân sự 2015;
- Bộ luật dân sự 2005;
- Bình luận khoa học Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 (Thạc sĩ luật Đoàn
Tân Minh và Luật gia Nguyễn Ngọc Diệp biên soạn) Nhà xuất bản lao động;
- PHẦN II. TÀI LIỆU BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ (Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đã ký);
- Tập bài giảng Luật tố tụng dân sự trường Đại hoc Kiểm Sát Hà Nội;
- Quyết định số 220/ QĐ-CA quyết định về việc công bố án lệ;
- http://www.vietnamplus.vn/nhieu-y-kien-khac-nhau-ve-yeu-cau-toa-anbao-ve-quyen-va-loi-ich/324174.vnp
- http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/tin-tuc-su-kien/item/27802402bao-ve-quyen-va-loi-ich-hop-phap-cua-nguoi-dan.html...
18
- Xem thêm -