VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
NGUYỄN NGỌC THÙY VÂN
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NGỌC THÙY VÂN
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
NGÀNH HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,
TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
KHÓA 1-2018
Hồ Chí Minh, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NGỌC THÙY VÂN
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,
TỈNH ĐỒNGNAI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
Người hướng dẫn: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN
Hồ Chí Minh, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn Thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực.
Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trong các công
trình khoa học khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN ...................................................... 8
1.1. Những vấn đề lý luận về các tội cướp giật tài sản...8
1.2. Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội cướp
giật tài sản......21
CHƯƠNG 2: THỰC TIÊN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH
ĐỒNG NAI......26
2.1. Thực tiễn định tội danh cướp giật tài sản tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai...........26
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản tại Thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai......34
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản tại Thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai .............................................................................. 42
CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN .......... 49
3.1. Yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản 49
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội
cướp giật tài sản................................................................................................... 55
KẾT LUẬN ................................................................................................ 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 68
1
MỞ ĐẤU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình tội cướp giật tài sản đang diễn biến hết sức phức tạp, trở thành
vấn đề nhức nhối ở khắp các tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt là các thành phố
lớn. Đối với thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, điều đó cũng không phải là
ngoại lệ. Biên Hòa là một thành phố đô thị loại I; là đầu mối giao thông quan
trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có sông Đồng Nai chảy qua, cách
trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh 30 km, cách thành phố Vũng Tàu 90 km; là
trung tâm kinh tế của tỉnh Đồng Nai; gồm 6 khu công nghiệp và rất nhiều cụm
công nghiệp thu hút vốn đầu tư rất nhiều của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Bên cạnh những thành tựu mà công cuộc đổi mới và nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mang lại, tình hình vi phạm pháp luật, tình hình tệ nạn
xã hội, tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng
vốn là hệ lụy của mặt trái nền kinh tế thị trường làm phát sinh các mâu thuẫn xã
hội chưa được giải quyết tốt cũng tăng nhanh chóng theo tiến độ phát triển kinh
tế của thành phố Biên Hòa và của các thành phố lớn trong khu vực Đông Nam
Bộ.
Hành vi cướp giật tài sản không chỉ gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của
các nạn nhân mà còn gây ra tâm lý hoang mang, lo sợ cho người dân, ảnh hưởng
tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội và không ít những hệ lụy khác. Không những
vậy, ở các thành phố lớn như Biên Hòa còn xảy ra tình trạng cướp giật tài sản
của khách du lịch, của người nước ngoài gây ảnh hưởng xấu về hình ảnh con
người, đất nước Việt Nam, gây tâm lý bất an đối với người dân trong nước và
người nước ngoài đến Việt Nam. Chính bởi lẽ đó, đảng, chính quyền các cấp tại
thành phố Biên Hòa đã và đang tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và tội cướp giật tài sản nói riêng.
Trong 5 năm từ năm 2015 đến năm 2019, các cơ quan chức năng tại thành
phố Biên Hòa đã tích cực phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử 176 vụ với
237 bị cáo phạm tội cướp giật tài sản. Các bản án tuyên phạt đối với các bị cáo
2
phạm tội cướp giật tài sản nhìn chung nhận được sự đồng tình của dư luận xã
hội bởi tính nghiêm minh, công khai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, trong quá trình
giải quyết vụ án cướp giật tài sản tại thành phố Biên Hòa, vẫn xảy ra tình trạng
thiếu thống nhất trong định tội danh, nhất là các trường hợp có tình tiết định
khung tăng nặng trách nhiệm hình sự như: phạm tội có tổ chức, gây hậu quả
nghiêm trọng, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Trong quyết định hình phạt
vẫn còn những sai sót như bỏ quên một số tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách
nhiệm hình sự hoặc vận dụng không đúng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách
nhiệm hình sự, thậm chí là nhầm lẫn trong việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ,
tăng nặng trách nhiệm hình sự mà lẽ ra áp dụng đối với riêng người phạm tội
trong trường hợp phạm tội có tổ chức để áp dụng chung cho tất cả nhũng người
phạm tội dẫn đến kết quả là quyết định hình phạt không chính xác.
Tình trạng nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có
sự nhận thức chưa thật đầy đủ và thống nhất những vấn đề lý luận về tội cướp
giật tài sản; sự chưa thật đầy đủ và chính xác trong điều chỉnh pháp luật hình sự
đối với tội này; sự nhận thức chưa thật thống nhất và chuẩn các quy định của
pháp luật hình sự nhìn từ phía cơ quan, người áp dụng pháp luật hình sự đối với
tội cướp giật tài sản...Điều đáng nói là cho đến nay, chưa có một công trình
nghiên cứu khoa học nào tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nghiên
cứu tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam dưới góc độ luật hình
sự và tố tụng hình sự, đã ảnh hưởng ít nhiều đến tình trạng nói trên.
Xuất phát từ tình trạng nói trên và với tư cách là người con sinh ra và lớn lên
tại thành Phố Biên Hòa, học viên mong muốn thông qua việc nghiên cứu những
vấn đề lý luận, pháp luật hình sự Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật hình sự
Việt Nam đối với tội cướp giật tài sản tại Biên Hòa, qua đó đề xuất các giải
pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản trên
địa bàn nơi mình sinh sống và công tác. Đó cũng chính là lý do mà học viên lý
3
giải cho tính cấp thiết của đề tài " Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai" mà mình lựa chon và thực hiện.
2.Tình hình nghiên cứu
Tội cướp giật tài sản thường được đề cập chung với các loại tội phạm như
trộm cắp tài sản, cướp tài sản....trong một số công trình nghiên cứu khoa học về
luật hình sự; trong các tập bình luận khoa học về luật hình sự, các luận văn thạc
sĩ; tiến sĩ của một số tác giả nghiên cứu các nội dung liên quan đến đề tài các tội
phạm xâm phạm sở hữu như : bài “Thay đổi định tội danh:Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn”,trên tạp chí TAND số 11+12/2003 và bài “Thay đổi định tội
danh:Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”trên tạp chí TAND số 8/1001 của
PGS.TS Võ Khánh Vinh. Bài “Các tội phạm sở hữu trong bộ luật Hình sự năm
1999” của TS Trương Quang Vinh, trên tạp chí Luật Học (Trường Đại học Luật
Hà Nội) số 4/2000.Luận văn Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Ngọc Chí năm 2000
về “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm sở hữu”.Tội cướp giật tài sản
cũng được nghiên cứu khá kĩ càng; cụ thể trong một số công trình,bài viết như :
“Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội cướp giật tài sản qua một số
tình huống thực tiễn” của Trịnh Tiến Việt trên tạp chí khoa học pháp lý số
4/2000. “Khía cạnh nạn nhân trong nguyên nhân và điều kiện của tội cướp giật
tài sản trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa” của luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Ngọc Lệ.
“Tội cướp giật tài sản- Những vấn đề Lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Việt Hà
năm 2009.Luận văn thạc sỹ năm 2004 của Lê Thị Thu Hà “Tội cướp giật tài sản
theo luật hình sự Việt Nam một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học”
Như vậy, ở các cách tiếp cận và các mức độ khác nhau, các công trình
khoa học đã công bố nêu trên về hoặc có liên quan đến tội cướp giật tài sản đã
đề cập nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự và thực
tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản tại những địa
bàn khác nhau của nước ta. mặc dù vậy, cho đến nay, như đã nhấn mạnh chưa có
một công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề lý luận và
pháp luật hình sự Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối
4
với tội cướp giật tài sản trên địa bàn TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên,
các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố trên đây giúp
học viên rất nhiều về cách tiếp cận, về lý luận, về điều chỉnh pháp luật, nhất là
về mô tả và đánh giá áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản,
trong quá trình làm luận văn này.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc làm lý luận, pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản tại TP Biên Hòa từ năm 2015 đến
năm 2019, Luận văn đề xuất các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình
sự đối với tội cướp giật tài sản trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn thực hiện các nhiệm vụ
sau đây:
- Phân tích những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật
tài sản.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội
cướp giật tài sản tại Thành Phố Biên Hòa.
- Lập luận các yêu cầu và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp
luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam hiện hành về tội cướp giật tài sản và thực tiễn định tội danh và áp
dụng hình phạt đối với tội này tại thành phố Biên Hòa làm đối tượng nghiên cứu.
5
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tội cướp giật tài sản dưới góc độ luật hình sự và tố
tụng hình sự. Các số liệu phục vụ nghiên cứu được học viên thu thập từ thực tiễn
xét xử tội cướp giật tài sản tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai.
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản gồm nhiều
nội dung khác nhau, trong đó có định tội danh và quyết định hình phạt là hai nội
dung chính. Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ luật học vốn bị giới hạn bởi số
trang theo quy định, học viên chỉ tập trung phân tích đánh giá thực trạng định tội
danh và quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019. Bởi vậy, các số liệu phục vụ nghiên cứu
được học viên thu thập từ thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản tại Tòa án nhân
dân nói trên.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tội phạm nói chung, các
văn kiện Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước về quan điểm áp dụng
pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản
nói riêng, về bảo vệ công lý, quyền con người, về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp nghiên
cứu của khoa học luật hình sự như thống kê hình sự, phân tích lý luận và thực
tiễn, so sánh, tổng hợp...
Trong quá trình hoàn thành luận văn các phương pháp được sử dụng đan
xen trong một tổng thể tạo ra cái nhìn đa chiều để tạo ra kết quả nghiên cứu, rút
6
ra những kết luận và những ý kiến, kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự có
tính khả thi.
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nhận thức sâu hơn, đầy đủ hơn,
thống nhất hơn trong giới luật học về những vấn đề lý luận về tội cướp giật tài
sản, về nội dung điều chỉnh của các quy định của pháp luật hình sự về tội cướp
giật tài sản, về cách nhìn nhận và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội này, về hướng hoàn thiện
chính sách và pháp luật về tội cướp giật tài sản.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao kỹ năng nắm bắt, phân
tích và giải quyết vụ án cụ thể của các chủ thể áp dụng pháp luật hình sự, nhất là
kỹ năng định tội danh và kỹ năng quyết định hình phạt đối với tội cụ thể. Kết
quả nghiên cứu của luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập chuyên ngành luật hình sự và tố
tụng hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu
thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật
tài sản.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội cướp giật
tài sản tại Thành Phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Việt
Nam đối với tội cướp giật tài sản.
7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
1.1.Những vấn đề lý luận về tội cướp giật tài sản
1.1.1.Khái niệm tội cướp giật tài sản
Để xây dựng khái niệm tội cướp giật tài sản, trước hết cần tìm hiểu khái
niệm tội phạm nói chung. Mặc dù thể hiện nội hàm của khái niệm tội phạm có
khác nhau, song phần lớn các nhà luật học thừa nhận tội phạm có các dấu hiệu:
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó có tính trái pháp luật hình sự, hành
vi đó có tính có lỗi và hành vi đó có tính phải chịu hình phạt. Nhà làm luật Việt
Nam tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự hiện hành cũng ghi nhận khái niệm tội
phạm, theo đó,"Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của bộ luật này phải bị xử lý hình sự". Tại khoản 2 Điều luật nói trên, nhà
làm luật nước ta quy định "Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng
tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và
được xử lý bằng các biện pháp khác." [9,tr 13,14].
Với tính cách là một tội phạm cụ thể, tội cướp giật tài sản, trước hết có
những dấu hiệu của tội phạm nói chung, đó là tính nguy hiểm đáng kể cho xã
hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính phải chịu hình phạt. Tiếp đó,
với tính cách là một tội trong số các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt, tội cướp giật tài sản có khách thể loại là các quan hệ sở hữu. Nói chính xác
hơn, các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt xâm phạm quyền sở hữu của
chủ sở hữu đối với tài sản. Các tội phạm này được thực hiện một cách cố ý
hướng đến mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác. Tuy nhiên, các tội xâm
8
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt phân biệt nhau bởi tính chất, đặc điểm của
hành vi chiếm đoạt. Đối với tội cướp giật tài sản, đó là hành vi công khai chiếm
đoạt tài sản một cách nhanh chóng để tránh sự phản kháng của chủ tài sản.
Chính các dấu hiệu công khai và nhanh chóng (chiếm đoạt và tẩu thoát) là đặc
trưng của hành vi cướp giật tài sản cho phép phân biệt hành vi cướp giật tài sản
với các dạng hành vi chiếm đoạt tài sản khác. Nói cách khác, khi xác định một
hành vi chiếm đoạt tài sản có là cướp giật tài sản hay không cần chú ý đến dấu
hiệu công khai và nhanh chóng, theo đó: luat su k
* Công khai, là hình thức thực hiện cho phép chủ tài sản có khả năng biết ngay
khi hành vi này xảy ra, có nghĩa rằng người phạm tội có ý thức công khai và
không có ý thức che đậy hành vi phạm tội đó. luật sư hình sự, ật ữa
* Bất ngờ và nhanh chóng là lợi dụng sơ hở của chủ tài sản (sơ hở này có thể
sẵn có hoặc do người phạm tội chủ động tạo ra), nhanh chóng tiếp cận, nhanh
chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng lẩn tránh. Thủ đoạn bất ngờ, nhanh
chóng chiếm đoạt tài sản có thể diễn ra ở nhiều hình thức khác nhau, phụ thuộc
vào đặc điểm của tài sản chiếm đoạt, vị trí, cách thức giữ tài sản cũng như
những hoàn cảnh bên ngoài khác, hình thức này có thể là nhanh chóng giật lấy
giành lấy và tẩu thoát….Với thủ đoạn như vậy người phạm tội muốn chủ tài sản
không thể kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của mình và không có ý định
dùng bất cứ thủ đoạn nào khác để đối phó với chủ tài sản.[23, tr2].Cướp giật tài
sản là một trong bốn tội phạm của nhóm tội chiếm đoạt có tính công khai về
hành vi khách quan cũng như về ý thức chủ quan của chủ thể. Trong đó, "cướp
giật tài sản là hành vi lợi dụng sơ hở của chủ tài sản (sơ hở sẵn có hoặc do chính
người cướp giật tự tạo ra) nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng lẩn
tránh. Thủ đoạn, bất ngờ nhanh chóng lẩn tránh trong thực tế thường là nhanh
chóng tẩu thoát".[21, tr1]. Trong một khoảng thời gian rất ngắn, thường chỉ
trong một vài giây là đã thực hiện xong hành vi chiếm đoạt, làm cho người bị
hại không kịp ứng phó. Đồng thời ngay sau khi đoạt được tài sản từ tay người bị
hại, người phạm tội cũng nhanh chóng tẩu thoát nhằm tránh khỏi việc truy đuổi
của người bị hại.
9
Từ những điều phân tích khái quát trên đây có thể hiểu "Tội cướp giật tài
sản là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình
sự cố ý thực hiện một công khai, bất ngờ, nhanh chóng nhằm chiếm đoạt tài sản
của người khác". Nói theo cách khác, tội cướp giật tài sản là hành vi công khai
chiếm đoạt tài sản của người khác một cách nhanh chóng và bất ngờ rồi tẩu
thoát để tránh sự phản kháng của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.
1.1.2.Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
Việc quy định tội phạm và hình phạt không mang mục đích tự thân mà hướng
vào những mục đích cụ thể, trong đó có định tội danh và quyết định hình phạt
đúng đối với tội phạm và người phạm tội cụ thể. Bởi vậy, để có thể giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự, ngoài việc nắm vững những dấu hiệu chung của tội
phạm (nói chung) cần phải nắm vững các dấu hiệu pháp lý của tội cụ thể. Những
dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản với tính cách là tội cụ thể có trong 4
yếu tố cấu thành tội phạm này gồm khách thể của tội phạm, mặt khách quan của
tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm.
- Khách thể của tội cướp giật tài sản
Khách thể của tội phạm được hiểu “là quan hệ xã hội cụ thể hoặc một nhóm
quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một tội
phạm trực tiếp xâm hại"[23,tr147]. Như vậy, khách thể của tội cướp giật tài sản
là quan hệ sở hữu về tài sản mà đối tượng tác động là những tài sản nhỏ, gọn, dễ
mang đi do tính chất của hành vi là nhanh chóng chiếm đoạt tài sản.
- Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản
Mặt khách quan của tội phạm được hiểu “là mặt bên ngoài của tội phạm, bao
gồm các biểu hiện của tội phạm diễn ra trong thế giới khách quan"[23,tr159].
Theo cách hiểu đó, mặt khách quan của tội cướp giật tài sản là mặt bên ngoài
của tội này được đặc trưng bởi hành vi công khai chiếm đoạt tài sản một cách
10
bất ngờ, nhanh chóng. Công khai có nghĩa là người phạm tội không có ý thức
che dấu hành vi phạm tội của mình và khi thực hiện việc chiếm đoạt cho phép
chủ tài sản biết ngay có hành vi chiếm đoạt xảy ra. Hành vi chiếm đoạt thông
thường là giật lấy, đoạt lấy, giành lấy...tài sản. Bất ngờ, nhanh chóng có nghĩa là
người phạm tội đã có thủ đoạn lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu hoặc người quản
lý tài sản hoặc tội phạm chủ động tạo ra sơ hở rồi bất ngờ, nhanh chóng tiếp cận,
nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát. Tội cướp giật tài sản là tội có
cấu thành hình thức, vì vậy, tội hoàn thành ngay khi người phạm tội thực hiện
hành vi cướp giật tài sản, không phụ thuộc vào việc tài sản đã bị hay chưa bị
chiếm đoạt.
- Chủ thể của tội cướp giật tài sản
Theo luật hình sự Việt Nam hiện hành, tùy từng trường hợp mà chủ thể của
tội phạm là thể nhân (cá nhân) hoặc pháp nhân thương mại có đủ các yếu tố
(điều kiện) của chủ thể. Đối với tội cướp giật tài sản, chủ thể của tội phạm chỉ có
thể là cá nhân, là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi
nhất định thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Đó là những người mà theo Điều
12 BLHS năm 2015 là người từ đủ 14 tuổi trở lên nếu hành vi phạm tội thuộc
các khoản 2,3 và 4 của điều luật hoặc là người từ đủ 16 tuổi trở lên nếu hành vi
phạm tội thuộc khoản 1 của điều luật.
- Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm được hiểu “là mặt bên trong của tội phạm, là
thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và với
hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc đối với khả năng gây ra hậu quả
đó"[23,tr197]. Như vậy, mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản là mặt bên ngoài
của tội này với biểu hiện của các dấu hiệu lỗi và mục đích phạm tội (là những
dấu hiệu bắt buộc, tức là những dấu hiệu định tội) và dấu hiệu động cơ phạm tội
(không phải là dấu hiệu bắt buộc). Lỗi của người phạm tội cướp giật tài sản là
lỗi cố ý (trực tiếp). Mục đích của tội cướp giật tài sản là chiếm đoạt tài sản, là
11
kết quả trong ý thức chủ quan của người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực
hiện hành vi phạm tội. Động cơ của tội cướp giật tài sản được hiểu là động lực
bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của
người khác một cách cố ý. Tuy nhiên, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu
bắt buộc trong mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản.
1.1.3. Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số tội khác
1.1.3.1. Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội cướp tài sản
Theo điều 168 của BLHS năm 2015 có sửa đổi bổ sung năm 2017 thì tội
cướp giật tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc
có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống
cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
Tội cướp tài sản có các dấu hiệu pháp lý sau:
- Khách thể của tội cướp tài sản: tội cướp tài sản đồng thời xâm phạm quan hệ
xã hội là quan hệ sở hữu (đối với tài sản) và quan hệ nhân thân (quyền được bảo
vệ sức khỏe). Đối tượng tác động của tội cướp tài sản là tài sản và con người
(chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản được ủy quyền quản lý). Chính trong
một tổng thể, hai quan hệ nói trên mới thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã
hội của tội cướp tài sản.
- Mặt khách quan của tội cướp tài sản
Từ quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 có thể thấy tội cướp tài
sản có ba dạng hành vi, đó là: Hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản;
Hành vi đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản; Hành vi
(khác) làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được
nhằm chiếm đoạt tài sản.
Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi dùng sức mạnh (có hoặc không có
công cụ, phương tiện phạm tội) tác động vào người khác để họ không thể hoặc
12
không dám chống cự lại việc chiếm đoạt. Hành vi dùng vũ lực phải là hành vi
nhằm vào con người. Những hành vi không nhằm vào con người đều không phải
là hành vi dùng vũ lực theo quy định của điều luật. Người bị hành vi dùng vũ lực
tác động có thể là chủ tài sản, là người có trách nhiệm quản lý hay bảo vệ tài sản
nhưng cũng có thể là người bất kỳ mà chủ thể thực hiện hành vi dùng vũ lực cho
rằng người này đang hoặc có khả năng sẽ ngăn cản việc chiếm đoạt của mình.
Hành vi dùng vũ lực có thể là đánh, chém, trói...
Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc được hiểu là hành vi (lời nói
hoặc bằng cử chỉ hoặc cả hai) dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại
việc chiếm đoạt. Vũ lực đe dọa sẽ thực hiện có thể nhằm vào chính người bị đe
dọa nhưng cũng có thể nhằm vào người khác có quan hệ thân thích với người bị
đe dọa. dấu hiệu "ngay tức khắc" ở đây có ý nghĩa quan trọng để phân biệt hành
vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cướp với hành vi đe dọa "sẽ" dùng vũ lực ở tội
cưỡng đoạt tài sản. Dấu hiệu này vừa dùng để chỉ sự nhanh chóng về mặt thời
gian (xảy ra ngay tức khắc) và vừa dùng để chỉ sự mãnh liệt của hành vi đe dọa.
Hành vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cướp tài sản có tính chất mãnh liệt nhằm làm
cho người bị đe dọa thấy rằng vũ lực sẽ xảy ra ngay, họ không hoặc khó có điều
kiện tránh khỏi. Sự đe dọa này có khả năng làm tê liệt ý chí của người bị đe dọa.
- Chủ thể của tội cướp tài sản
Chủ thể của tội cướp tài sản được quy định là chủ thể bình thường và theo Điều
12 BLHS là người từ đủ 14 tuổi trở lên.
- Mặt chủ quan của tội cướp tài sản
Cả ba dạng hành vi khách quan nói trên của tội cướp tài sản được thực hiện
với lỗi cố ý (trực tiếp). Khi thực hiện hành vi, chủ thể biết rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự cấm, thấy trước hậu quả nguy
hiểm cho xã hội của hành vi của mình tất yếu sẽ xảy ra, vẫn thực hiện và mong
muốn cho hậu quả xảy ra.
13
Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội cướp tài
sản
Trong thực tế, có thể có trường hợp chủ thể đã chiếm đoạt được tài sản bằng
hành vi trộm cắp tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, cướp giật tài sản...nhưng
ngay sau đó đã bị phát hiện và người phạm tội đã dùng vũ lực tấn công lại người
ngăn cản (bằng những thủ đoạn của tội cướp) nhằm giữ bằng được tài sản vừa
chiếm đoạt trước đó. Hành vi dùng vũ lực tấn công lại hoặc đe dọa dùng ngay
tức khắc vũ lực nhằm giữ bằng được tài sản vừa chiếm đoạt được xét về bản
chất là hành vi cướp tài sản. Do vậy, cả lý luận và thực tiễn đều thừa nhận
trường hợp này là trường hợp chuyển hóa từ một số hành vi (hình thức) chiếm
đoạt tài sản thành hành vi (hình thức) cướp tài sản. Như vậy, những hành vi
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hay hành vi làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm mục đích giữ tài sản
vừa chiếm đoạt được cũng bị coi là cấu thành tội cướp tài sản.
Từ những điểm khái quát trên đây có thể thấy giữa tội cướp giật tài sản và
tội cướp tài sản có những điểm giống nhau và khác nhau. Cụ thể là:
* Những điểm giống nhau:
Cả hai tội đều là tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt; đều giống nhau về
khách thể, đối tượng tác động của tội phạm, chủ thể, lỗi và mục đích phạm tội.
* Những điểm khác nhau:
Hai tội khác nhau chủ yếu là hành vi khách quan, cụ thể là:
Cướp giật tài sản (Điều 171)
Cướp tài sản:(Điều 168)
Hành vi khách quan: người phạm tội Hành vi khách quan: người phạm tội
không sử dụng vũ lực, không đe dọa dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực
sử dụng vũ lực, hoặc bất cứ thủ đoạn ngay tức khắc hoặc có thủ đoạn khác
nào khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt là cho người bị tấn công lâm vào tình
sự kháng cự của nạn nhân để chiếm trạng không thể chống cự được, nhằm
14
đoạt tài sản mà chỉ lợi dụng sự sơ hở chiếm đoạt tài sản của họ.
của nạn nhân, nhanh chóng chiếm đoạt
và nhanh chóng lẫn tránh.
"[4,tr 26]
1.1.3.2.Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Tại khoản 1 Điều 172 của BLHS năm 2015 có sửa đổi năm 2017 nhà làm luật
miêu tả quy định tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
"1.Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000
đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi
phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,
169, 170,171, 173,174,175, và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng đến xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d)Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình
họ".[2,tr130]
Theo khoản 1 của điều luật nói trên, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có các dấu
hiệu pháp lý sau:
- Khách thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Tội này xâm phạm quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản. Nói cách
khác, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản xâm phạm quyền sở hữu tài sản được
pháp luật bảo vệ. Đối tượng tác động của tội này là tài sản dưới những hình thức
tồn tại của nó.
15
- Mặt khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thừa nhận hành vi khách quan của tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn
cản, công khai chiếm đoạt tài sản của họ. Theo đó, dấu hiệu hành vi khách quan
của tội phạm này là hành vi chiếm đoạt tài sản như ở tội cướp giật tài sản. Dấu
hiệu phân biệt hành vi chiếm đoạt ở tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội
cướp giật tài sản cũng như với một số tội phạm khác là các đặc điểm sau của
hành vi chiếm đoạt:
Hành vi chiếm đoạt tài sản có tính công khai như ở hành vi cướp giật hành
vi này xảy ra trong hoàn cảnh người chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản.
Do vậy, người phạm tội không cần và không có ý định sử dụng thủ đoạn nào
khác để đối phó với chủ tài sản. Người phạm tội không dùng vũ lực, không đe
dọa dùng vũ lực, không uy hiếp tinh thần cũng như không nhanh chóng chiếm
đoạt và nhanh chóng lẩn tránh.
- Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định là chủ thể bình
thường và theo Điều 12 BLHS là người từ đủ 16 tuổi trở lên vì tội này không
thuộc các tội mà tội các tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở
lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS.
- Mặt chủ quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Lỗi trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là lỗi cố ý. Mục đích của người
phạm tội là chiếm đoạt tài sản. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành tội phạm."[5,tr 288 đến 292]
Qua việc phân tích khái quát về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có thể thấy
giữa tội cướp giật tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có những điểm
giống và khác nhau như sau:
16
*Những điểm giống nhau:
Cả hai tội đều là tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Nói cách khác
chúng giống nhau về mục đích phạm tội. Ngoài ra chúng còn giống nhau về
khách thể, đối tượng tác động và lỗi cố ý, chủ thể. Cả hai tội đều giống nhau có
hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai.
*Những điểm khác nhau:
Cướp giật tài sản (Điều 171)
Công nhiên chiếm đoạt tài sản:(Điều
Hành vi khách quan: người phạm tội 172)
không sử dụng vũ lực, không đe dọa Hành vi khách quan: người phạm tội
sử dụng vũ lực, hoặc bất cứ thủ đoạn công nhiên chiếm đoạt tài sản chỉ lợi
nào khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt dụng tình trạng người quản lý tài sản
sự kháng cự của nạn nhân để chiếm không có khả năng ngăn cản, điều kiện
đoạt tài sản mà chỉ lợi dụng sự sơ hở để chống trả, bảo vệ...để công khai
của nạn nhân, nhanh chóng chiếm đoạt chiếm đoạt tài sản của họ, người phạm
công khai, người phạm tội biết rõ chủ tội không cần nhanh chóng chiếm đoạt
tài sản hoàn toàn có khả năng ngăn cũng như không cần nhanh chóng lẩn
cản việc chiếm đoạt, có khả năng lấy trốn và cũng không sợ bị bắt giữ vì
lại tài sản nên ngay sau khi chiếm đoạt người chủ tài sản không có khả năng
được tài sản, người phạm tội nhanh ngăn cản việc chiếm đoạt.
chóng tẩu thoát.
"[4,tr 27]
1.1.3.3.Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người khác
quản lý trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000
đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp:
"a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi
phạm;
17
- Xem thêm -