LUẬT PHÁP QUỐC TẾ
Các cơ chế giải quyết tranh chấp về biển theo Công ước Luật biển 1982
(20/06/2012)
Giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia bằng các biện pháp hoà bình là một
trong các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế hiện đại. Nguyên tắc này cũng
đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc. Liên quan đến các tranh chấp
về biển, Công ước Luật Biển năm 1982 đã dành toàn bộ phần thứ XV với 21 điều
và 4 Phụ lục để nói về giải quyết các tranh chấp liên quan đến giải thích và thực
hiện các điều khoản của Công ước. Trước hết, Công ước quy định nghĩa vụ của các
bên là giải quyết các tranh chấp nảy sinh bằng các biện pháp hoà bình theo quy
định của Hiến chương Liên hợp quốc. Sau đó, khi đi vào các nghĩa vụ cụ thể, Công
ước nêu rõ nếu xảy ra tranh chấp liên quan đến việc giải thích và thực hiện Công
ước thì các bên phải ngay lập tức trao đổi ý kiến để giải quyết tranh chấp bằng
thương lượng hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác. Trong giai
đoạn này, các bên cũng có thể đưa các tranh chấp ra hòa giải. Nhưng nếu các thủ
tục thương lượng và hoà giải không đem lại kết quả thì tranh chấp phải được đưa
ra để giải quyết bằng Tòa án quốc tế hoặc Trọng tài quốc tế. Về thủ tục này, Công
ước quy định 04 cơ chế quốc tế để các bên tranh chấp lựa chọn. Đó là Tòa án quốc
tế La Hay, Tòa án quốc tế về Luật Biển, Trọng tài quốc tế và Trọng tài quốc tế đặc
biệt.
Tòa án quốc tế La Hay (International Court of Justice) ra đời cùng với sự xuất hiện
của Liên hợp quốc. Tòa án quốc tế là một trong các cơ quan chính của Liên hợp
quốc. Trụ sở của Tòa đặt tại La Hay, nên Tòa thường được gọi là Tòa án quốc tế
La Hay. Quy chế của Tòa án là một bộ phận của Hiến chương Liên hợp quốc. Tòa
án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia. Các thẩm phán của
Tòa án được Hội đồng Bảo an và Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu. Để trúng cử
ứng cử viên phải đạt đa số phiếu tuyệt đối ở cả hai cơ quan. Theo quy định, trong
nhiệm kỳ đầu, 1/3 thẩm phán có nhiệm kỳ 3 năm, 1/3 thẩm phán khác có nhiệm kỳ
6 năm và số còn lại có nhiệm kỳ 9 năm. Các thẩm phán bầu ra Chánh án và Phó
Chánh án với nhiệm kỳ 3 năm. Số ghế thẩm phán được các khu vực địa lý thống
nhất phân bổ. Các thẩm phán và trụ sở của Tòa án được hưởng các ưu đãi, miễn
trừ ngoại giao. Hiện nay, Chánh án của Tòa là ông P.Tomca (Xlô-va-kia) và các
thẩm phán là công dân Mê-hi-cô, Pháp, Nhật Bản, Niu Di lân, Ma rốc, Nga, Bờ
-ra-xin, Xô-ma-li, Anh, Trung Quốc, Mỹ, I-ta-li, U-gan-đa và Ấn Độ.
Không phải trong các vụ việc nào cũng phải đủ 21 thẩm phán. Đối với một số loại
vụ việc nhất định, ví dụ như các vụ liên quan lao động, quá cảnh và thông tin, Tòa
án quốc tế La Hay có thể lập các phòng xét xử gồm 03 thẩm phán trở lên. Tòa án
cũng có thể lập các phòng xét xử các vụ việc cụ thể với thành phần gọn nhẹ được
các bên chấp nhận. Cho đến nay đã có 6 trường hợp như vậy với 5 thẩm phán. Để
đẩy nhanh công việc xét xử hàng năm, Tòa án sẽ lập phòng xét xử với 5 thẩm phán
để tiến hành vụ kiện theo thủ tục rút gọn. Loại này cũng chưa vận dụng đến. Tòa
có 3 Uỷ ban là Uỷ ban Ngân sách và Tài chính (Chánh án, Phó Chánh án và 3 đến
4 thẩm phán), Uỷ ban Thủ tục với 6 thẩm phán và Uỷ ban Thư viện với 3 thẩm
phán.
Tòa án có thẩm quyền xét xử mọi tranh chấp do các bên đưa ra và mọi vấn đề được
quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc hoặc trong các điều ước quốc tế hiện
hành, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982. Điều kiện cần thiết ở đây là sự
đồng ý của các bên. Việc đồng ý chấp nhận ràng buộc của Tòa được thể hiện qua
tuyên bố đơn phưong hoặc qua thỏa thuận với nhau hoặc qua quy định trong văn
bản điều ước quốc tế liên quan. Khi xét xử các vụ kiện, Tòa áp dụng các điều ước
quốc tế, tập quán quốc tế, các nguyên tắc chung của pháp luật. Đồng thời Tòa cũng
sẽ vận dụng các phán quyết, học thuật của các học giả nổi tiếng như là các công cụ
hỗ trợ. Theo quy định, các thẩm phán của quốc gia tham gia vụ kiện trước Toà vẫn
có quyền tham gia xét xử. Trong trường hợp đó, nếu quốc gia khác tham gia vụ
kiện nhưng không có thẩm phán làm việc ở Toà thì có thể chọn một người nào đó
để tham gia với tư cách thẩm phán. Nếu cả 2 bên tranh chấp không có thẩm phán
nào ở Tòa thì cả 2 bên có quyền chọn thẩm phán cho mình.
Các phán quyết của Tòa án được thông qua bằng đa số phiếu. Tương tự như Toà án
quốc tế về Luật Biển, trong trường hợp số phiếu ngang nhau thì phiếu của Chánh
án là quyết định. Mọi phán quyết của Tòa là cuối cùng và không được kháng án.
Trong lịch sử 66 năm của mình, Tòa án quốc tế La Hay đã giải quyết hơn 60 tranh
chấp giữa các quốc gia. Trong đó có nhiều tranh chấp liên quan đến các vấn đề
biên giới, lãnh thổ đất liền và phân định các vùng biển giữa các quốc gia. Về phân
định ranh giới biển có các vụ như vụ kiện về thềm lục địa giữa Đức và Đan Mạch
năm 1967, vụ giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ kỳ năm 1976, vụ giữa Mỹ và Ca-na-đa năm
1981, vụ giữa U-crai-na và Ru-ma-ni năm 2010 v.v…Liên quan tranh chấp chủ
quyền đối với các đảo có các vụ như vụ kiện giữa In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a năm
1998, vụ kiện giữa Ma-lai-xi-a và Xing-ga-po năm 2003. Liên quan tranh chấp
biên giới trên đất liền có các vụ như vụ kiện về đền Prết-vi-hia giữa Căm-pu-chia
và Thái Lan năm 1957, vụ kiện giữa Li-bi và Sát năm 1990, vụ kiện giữa Bê-nanh
và Ni-giê năm 2002 v.v…Hiện nay, Tòa án quốc tế La Hay đang tiếp tục xem xét
13 vụ kiện giữa các quốc gia. Tòa án quốc tế La Hay cũng có thẩm quyền cung cấp
ý kiến tư vấn về các vấn đề pháp lý theo đề nghị của Đại hội đồng, Hội đồng Bảo
an và các cơ quan khác của Liên hợp quốc cũng như các tổ chức chuyên môn. Cho
đến nay, Tòa án đã cung cấp ý kiến tư vấn trong nhiều vụ việc. Đặc biệt đáng chú ý
là năm 1996 Toà đã ra ý kiến về vấn đề mà Đại hội đồng Liên hợp quốc khoá 49
nêu ra là theo luật pháp quốc tế việc đe doạ hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân có được
phép không. Toà án quốc tế La Hay đã kết luận việc đe doạ hoặc sử dụng vũ khí
hạt nhân là trái với các quy phạm của luật pháp quốc tế. Năm 2012, Tòa án cũng đã
xử lý vụ Tòa án Hành chính của Tổ chức Luơng thực và Nông nghiệp thế giới xin
ý kiến tư vấn.
Tòa án quốc tế về Luật Biển (International Tribunal for the Law of the Sea)là một
cơ chế tư pháp quốc tế rất mới. Quy chế của Tòa án này quy định ở ngay trong
Công ước Luật Biển năm 1982. Sự ra đời của nó gắn liền với bản Công ước và
được bắt đầu từ khi Công ước Luật Biển năm 1982 có hiệu lực. Thẩm quyền của
Tòa án hẹp hơn so với Tòa án quốc tế La Hay. Tòa án quốc tế La Hay không chỉ
giải quyết các vụ kiện liên quan luật biển quốc tế mà còn giải quyết các vụ kiện
liên quan luật ngoại giao, lãnh sự, hàng không, biên giới, lãnh thổ v.v…Trong khi
đó, Tòa án quốc tế về Luật Biển chỉ giải quyết những vấn đề thuộc Công ước Luật
Biển năm 1982. Theo quy định, nếu khi giữa các quốc gia xảy ra tranh chấp liên
quan việc giải thích và áp dụng Công ước thì Tòa án quốc tế về Luật Biển sẽ giải
quyết khi cả các bên tranh chấp đều chọn thủ tục đưa ra Tòa này. Nếu các bên lựa
chọn các thủ tục khác nhau thì vụ việc chỉ có thể đưa ra giải quyết tại cơ chế Trọng
tài theo Phụ lục VII dưới đây.
Các thẩm phán của Tòa án này do Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước Luật
Biển năm 1982 bầu với nhiệm kỳ 9 năm. Các khu vực địa lý được phân bổ số ghế
thẩm phán nhất định. Cuộc bầu cử đầu tiên diễn ra vào tháng 8-1996. Trong nhiệm
kỳ đầu tiên, 1/3 số thẩm phán có nhiệm kỳ 3 năm, 1/3 khác có nhiệm kỳ 6 năm và
1/3 còn lại có nhiệm kỳ 9 năm. Sau đó các thẩm phán bầu Chánh án với nhiệm kỳ
3 năm. Công ước Luật Biển năm 1982 quy định các thẩm phán của Toà án được
hưởng các ưu đãi, miễn trừ ngoại giao. Căn cứ vào quy định đó, các quốc gia thành
viên Công ước đã thông qua Hiệp định về ưu đãi miễn trừ của Toà án cũng như của
các thẩm phán. Thông thường, để tiến hành xét xử thì cần có 11 thẩm phán. Trong
cơ chế tổ chức của Toà án có Phòng xét xử các tranh chấp ở đáy đại dương gồm 11
thẩm phán với nhiệm kỳ 3 năm. Hàng năm, Tòa án lập phòng đặc biệt với 05 thẩm
phán. Ngoài ra, Tòa án cũng có thể lập các phòng gọn nhẹ để xét xử các loại tranh
chấp cụ thể. Tòa án quốc tế về Luật Biển ngoài việc chỉ giải quyết các tranh chấp
giữa các quốc gia, còn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia
với các thực thể khác liên quan các hoạt động ở đáy đại dương. Cho đến nay Tòa
án quốc tế về Luật Biển đã thụ lý 19 vụ việc, trong đó có 18 vụ kiện và 01 vụ cung
cấp ý kiến tư vấn. Vụ kiện đầu tiên mà Tòa giải quyết là vụ giữa Xanh Vin xen và
Gre-na-din và Ghi-nê vào năm 1997. Còn ý kiến tư vấn thì Tòa án đã thụ lý một vụ
việc do Cơ quan Quyền lực quốc tế về Đáy Đại dương đưa lên. Các phán quyết của
Tòa án được thông qua bằng đa số phiếu. Trong trường hợp phiếu thuận và phiếu
chống ngang nhau thì phiếu của Chánh án sẽ quyết định. Thực tiễn xét xử của
Toà án quốc tế về Luật Biển thời gian qua cho thấy trong nhiều trường hợp Tòa án
phải bỏ phiếu nhiều lần đối với các khía cạnh khác nhau. Ví dụ, trong vụ kiện giữa
Băng-la-đét và Mi-an-ma về phân định biển gần đây, Tòa đã bỏ phiếu 7 lần về các
nội dung khác nhau của phán quyết. Phán quyết của Tòa án quốc tế về Luật Biển là
cuối cùng và không được xem xét lại. Về chi phí, các quốc gia thành viên Công
ước Luật Biển năm 1982 khi đưa vụ việc ra Tòa để giải quyết thì không phải trả
các chi phí cho phiên Tòa. Các chuyên gia cho rằng về lâu dài thì các vụ việc sẽ
được các bên tranh chấp đưa ra Tòa án quốc tế về Luật Biển nhiều hơn.
Trọng tài quốc tế theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển năm 1982: Cơ chế
Trọng tài này có thẩm quyền giải quyết mọi tranh chấp liên quan Công ước, trừ
những vụ kiện liên quan đánh cá, bảo vệ môi trường biển, hàng hải và nghiên cứu
khoa học biển. Trọng tài quốc tế chung theo Phụ lục VII có 05 trọng tài viên. Mỗi
bên tranh chấp cử 01 trọng tài (có thể là công dân của mình) từ danh sách do Tổng
Thư ký Liên hợp quốc lập. Mỗi quốc gia thành viên Công ước được quyền tiến cử
04 cá nhân có trình độ về các vấn đề biển và có uy tín cao làm trọng tài viên để
Tổng Thư ký Liên hợp quốc đưa vào danh sách Trọng tài viên. Sau đó hai bên
cùng nhau chỉ định 03 trọng tài viên còn lại và chỉ định Chủ tịch của Trọng tài.
Nếu các bên không thể nhất trí về việc cử trọng tài viên hoặc Chủ tịch trong vòng
60 ngày thì Chánh án Tòa án quốc tế về Luật Biển sẽ cử. Các bên chịu mọi chi phí
cho Trọng tài, kể cả thù lao cho các trọng tài viên theo công thức 50/50. Các quyết
định của Trọng tài được thông qua bằng đa số. Nếu số phiếu thuận và chống ngang
nhau thì phiếu của Chủ tịch Trọng tài sẽ quyết định. Phán quyết của Trọng tài là
cuối cùng và không được kháng án. Tuy nhiên, nếu các bên tranh chấp có thỏa
thuận trước thì cũng có thể đưa ra xem xét lại. Tất cả các bên trong vụ tranh chấp
do Trọng tài xét xử phải tuân theo quyết định của Trọng tài. Nếu các bên có tranh
chấp trong việc giải thích hay thực hiện quyết định của Trọng tài thì bất cứ bên nào
cũng có quyền đưa ra Trọng tài đã ra quyết định để Trọng tài xem xét. Ngoài ra,
nếu tất cả các bên tranh chấp nhất trí thì tranh chấp đó có thể được đưa lên Tòa án
quốc tế La Hay hoặc Tòa án quốc tế về Luật Biển để giải quyết.
Trọng tài quốc tế đặc biệt theo Phụ lục VIII của Công ước Luật Biển năm
1982: Chức năng của Trọng tài này hẹp hơn so với Trọng tài chung theo Phụ lục
VII nêu trên. Trọng tài đặc biệt theo Phụ lục VIII của Công ước Luật Biển năm
1982 chỉ giải quyết các tranh chấp về giải thích và thực hiện các quy định của
Công ước liên quan đến 04 loại vụ việc. Đó là về đánh cá, bảo vệ mội trường biển,
nghiên cứu khoa học biển và hàng hải. Trước hết, Tổ chức Lương thực và Nông
nghiệp của Liên hợp quốc, Quỹ Môi trường của Liên hợp quốc, Ủy ban Hải dương
học liên Chính phủ và Tổ chức Hàng hải quốc tế lập 04 danh sách Trọng tài viên
thuộc chuyên ngành của mình. Mỗi quốc gia thành viên được quyền cử 02 chuyên
gia trong mỗi lĩnh vực. Cách thức tổ chức Trọng tài đặc biệt như sau: Thông
thường Trọng tài có 05 thành viên; mỗi bên tranh chấp chỉ định 02 Trọng tài viên
(trong đó có thể có một người là công dân nước mình); sau đó hai bên cùng nhau
chỉ định Trọng tài viên thứ năm làm Chủ tịch Trọng tài. Nếu trong vòng 30 ngày
hai bên tranh chấp không cử được Chủ tịch Trọng tài thì Tổng Thư ký Liên hợp
quốc sẽ cử. Công ước cũng quy định các bên chịu mọi chi phí cho Trọng tài, kể cả
thù lao cho các trọng tài viên theo công thức 50/50. Tương tự như Trọng tài theo
Phụ lục VII nói trên, các quyết định của Trọng tài đặc biệt cũng được thông qua
bằng đa số phiếu. Trong trường hợp số phiếu thuận và phiếu chống ngang nhau thì
phiếu của Chủ tịch Trọng tài sẽ quyết định. Phán quyết của Trọng tài đặc biệt là
cuối cùng và không được kháng án. Nhưng nếu các bên tranh chấp có thỏa thuận
trước về việc kháng cáo thì cũng có thể đưa ra xem xét lại. Tất cả các bên trong vụ
tranh chấp do Trọng tài xét xử phải tuân theo quyết định của Trọng tài. Nếu các
bên có tranh chấp trong việc giải thích hay thực hiện quyết định của Trọng tài thì
bất cứ bên nào cũng có quyền đưa ra Trọng tài đã ra quyết định để Trọng tài xem
xét. Ngoài ra, nếu tất cả các bên tranh chấp nhất trí thì tranh chấp đó có thể được
đưa lên Toà án quốc tế La Hay hoặc Toà án quốc tế về Luật Biển để giải quyết./.
Nguyễn Thanh Chương
- Xem thêm -