ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
VÀ NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ HOA
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THÍCH ỨNG NGHỀ NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
SƠN LA
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Hà Nội - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
VÀ NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ HOA
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THÍCH ỨNG NGHỀ NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
SƠN LA
CHUYÊN NGÀNH: ĐO LƯỜNG VÀ ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC
MÃ SỐ: CHUYÊN NGÀNH ĐÀO TẠO THÍ ĐIỂM
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THỊ MINH LOAN
Hà Nội - 2009
1
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sỹ chuyên ngành “Đo lường và đánh giá trong giáo dục”
với đề tài “Đánh giá mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên trường cao
đẳng sư phạm Sơn La” được tác giả nghiên cứu lần đầu tiên tại trường cao
đẳng sư phạm Sơn La. Kết quả, số liệu nghiên cứu được trích dẫn và giới
thiệu trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của tôi. Những kết quả này chưa từng công bố trong bất cứ
một công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Hoa
2
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
1
Lời cam đoan
2
Mục lục
3
Danh mục các chữ viết tắt
5
Danh mục các bảng
6
Danh mục các biểu đồ
7
MỞ ĐẦU
8
1. Lý do chọn đề tài
8
2. Mục đích nghiên cứu
9
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
9
4. Giả thuyết nghiên cứu
9
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
10
6. Phương pháp nghiên cứu
11
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
12
1.2. Một số khái niệm cơ bản
16
1.3. Thích ứng nghề nghiệp của sinh viên sư phạm.
33
1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên
35
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
41
2.1 Mẫu nghiên cứu.
41
2.2. Nội dung và tiến trình nghiên cứu
43
2.3. Phương pháp nghiên cứu.
45
2.4. Các biểu hiện và cách đánh giá mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên
48
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
52
3.1. Thích ứng thể hiện ở tâm thế nghề nghiệp
52
3.2. Thích ứng với nội dung học tập ở trường cao đẳng
55
3.3. Thích ứng với phương pháp học tập ở trường cao đẳng
62
3.4. Thích ứng với việc rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp
67
3.5. Thích ứng với điều kiện, phương tiện học tập ở trường cao đẳng
75
3
3.6. Thích ứng với các mối quan hệ ở trường cao đẳng
80
3.7. Tổng hợp mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên
84
3.8. Kết quả phỏng vấn sâu một số trường hợp
94
3.9. Một số yếu tố cơ bản tác động đến mức độ thích ứng nghề nghiệp của 97
sinh viên
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
106
1. Kết luận
106
2. Kiến nghị
107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
110
PHỤ LỤC
113
4
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
TT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1
CĐSP
Cao đẳng sư phạm
2
ĐTB
Điểm trung bình
3
ĐK, PTHT
Điều kiện, phương tiện học tập
4
HSSV
Học sinh, sinh viên
5
KNNN
Kỹ năng nghề nghiệp
6
KQHT
Kết quả học tập
7
MQH
Mối quan hệ
8
NDHT
Nội dung học tập
9
PPHT
Phương pháp học tập
10
SD
Độ lệch chuẩn
11
TB
Trung bình
12
TTNN
Tâm thế nghề nghiệp
13
TĐHT
Thái độ học tập
14
TƯ
Thích ứng
15
TƯNN
Thích ứng nghề nghiệp
5
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1:
Cơ cấu khách thể nghiên cứu
Bảng 3.1:
Cách tìm hiểu về ngành học của sinh viên
Bảng 3.2:
Sự kiên định của sinh viên trong lựa chọn ngành học
Bảng 3.3:
Đánh giá của sinh viên về các khối kiến thức
Bảng 3.4:
Tâm trạng của sinh viên trong các giờ học
Bảng 3.5:
Thái độ của sinh viên đối với các môn học
Bảng 3.6:
Thích ứng của sinh viên với khối lượng kiến thức ngành học
Bảng 3.7:
Cách lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch học tập của sinh viên
Bảng 3.8:
Cách ghi bài của sinh viên trên lớp
Bảng 3.9:
Cách tìm kiếm tài liệu học tập của sinh viên
Bảng 3.10:
Thích ứng của sinh viên với kỹ năng soạn và giảng bài
Bảng 3.11:
Thích ứng của sinh viên với kỹ năng đặt câu hỏi
Bảng 3.12:
Thích ứng của sinh viên với kỹ năng kiểm tra, đánh giá KQHT của học sinh
Bảng 3.13:
Thích ứng của sinh viên với việc tham gia các hoạt động tập thể
Bảng 3.14:
Thích ứng của sinh viên với việc sử dụng các phương tiện học tập
Bảng 3.15:
Thích ứng của sinh viên với các điều kiện học tập, sinh hoạt
Bảng 3.16:
Thích ứng của sinh viên với các mối quan hệ ở trường CĐSP
Bảng 3.17:
Thích ứng của sinh viên với MQH bạn bè
Bảng 3.18:
Thứ hạng các chỉ số thích ứng với ngành học của sinh viên
Bảng 3.19:
Mối quan hệ giữa mức độ TƯNN và kết quả học tập của sinh viên
Bảng 3.20:
Mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên theo năm học
Bảng 3.21:
Mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên theo vùng miền
Bảng 3.22:
Mối quan hệ giữa thái độ học tập và mức độ TƯNN
6
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1:
Mức độ TƯNN thể hiện ở tâm thế nghề nghiệp
Biểu đồ 3.2:
Mức độ thích ứng của sinh viên với nội dung học tập
Biểu đồ 3.3:
Mức độ thích ứng của sinh viên với phương pháp học tập
Biểu đồ 3.4:
Mức độ thích ứng của sinh viên với việc rèn luyện các KNNN
Biểu đồ 3.5:
Mức độ thích ứng của sinh viên với ĐK, PTHT
Biểu đồ 3.6:
Mức độ thích ứng của sinh viên với các MQH ở trường CĐSP
Biểu đồ 3.7:
Mức độ thích ứng với ngành học của sinh viên
Biểu đồ 3.8:
Mối quan hệ giữa mức độ TƯNN và KQHT của sinh viên
Biểu đồ 3.9:
Mức độ TƯNN của sinh viên theo năm học
Biểu đồ 3.10: Mức độ TƯNN của sinh viên theo vùng, miền
7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỷ 21, với xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, chất
lượng nguồn nhân lực là lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia và là động lực
chủ yêú đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi nước. Do đó, nhu cầu cấp
thiết của tất cả các quốc gia là phải không ngừng nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, mà trách nhiệm đó trước hết thuộc về giáo dục đào tạo, đặc biệt là
giáo dục đại học, cao đẳng. Trong những năm gần đây, giáo dục nước ta mặc
dù đã có nhiều cố gắng và đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng chất
lượng và hiệu quả giáo dục vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất
nước. Phần lớn học sinh, sinh viên ra trường hạn chế về năng lực thực hành,
khả năng tư duy sáng tạo, điều này phần nào nói lên khả năng thích ứng nghề
nghiệp (TƯNN) của sinh viên còn hạn chế.
Quá trình TƯNN phải được thực hiện liên tục từ trường phổ thông, trong
suốt thời gian sinh viên học tập ở trường cao đẳng, đại học và trong quá trình
hành nghề sau này. Khả năng TƯNN giúp sinh viên có thể nhanh chóng hoà
nhập và thực hiện hoạt động nghề nghiệp có chất lượng và hiệu quả cao sau
khi ra trường.
Trường CĐSP Sơn La là trung tâm văn hoá - giáo dục của tỉnh. Hơn 40
xây dựng và phát triển, nhà trường đã đào tạo hàng ngàn giáo viên, đáp ứng
nhu cầu về đội ngũ giáo viên cho các ngành học như: Mầm non, tiểu học và
THCS của tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ giáo viên còn có
những hạn chế, bất cập. Một trong các nguyên nhân đó là sự kém thích ứng
của sinh viên với ngành học trong quá trình học tập tại trường CĐSP, dẫn tới
tình trạng lúng túng, thiếu linh hoạt, hiệu quả thấp trong việc thực hiện các
hoạt động dạy học và giáo dục ở trường phổ thông sau khi tốt nghiệp.
Sinh viên của trường CĐSP Sơn La đến từ 11 huyện, thị của tỉnh với
12 dân tộc khác nhau, trong đó có xã, bản thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Sinh
viên các dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số sinh viên của trường.
8
Mặt khác, sự khác biệt giữa môi trường trung học phổ thông và môi trường
đại học và cao đẳng làm cho các em gặp phải không ít khó khăn khi vào học
trường cao đẳng. Với mong muốn làm rõ thực trạng vấn đề thích ứng của sinh
viên với ngành học trong quá trình học tập ở trường CĐSP Sơn La và đề xuất
các biện pháp giúp sinh viên có khả năng thích ứng tốt hơn với ngành học
đang được đào tạo, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: " Đánh giá mức độ
thích ứng nghề nghiệp của sinh viên trường cao đẳng sư phạm Sơn La".
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng mức độ TƯNN của sinh viên, trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp giúp sinh viên có khả năng thích ứng cao hơn với ngành học,
nghề nghiệp tương lai của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên trường CĐSP Sơn La.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu mức độ TƯNN của
sinh viên các chuyên ngành sư phạm của trường CĐSP Sơn La gồm 231 sinh
viên thuộc 3 chuyên ngành với số lượng cụ thể như sau:
- Ngành CĐSP Toán-Lý: 85 SV
- Ngành CĐSP Văn-Sử: 68 SV
- Ngành CĐSP Mầm non: 78 SV.
Đó là những SV đang học ở 3 khoá: Năm thứ nhất: 69 sinh viên, năm
thứ hai: 83 sinh viên, năm thứ ba: 79 sinh viên.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Nhìn chung mức độ TƯNN của sinh viên trường CĐSP Sơn La còn
thấp. Mức độ TƯNN của sinh viên tương quan thuận với KQHT của sinh viên
và có sự khác biệt về mức độ TƯNN giữa sinh viên các khoá học và sinh viên
các vùng miền khác nhau.
Có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến mức độ TƯNN của sinh
viên, nhưng trong đó yếu tố chủ quan ảnh hưởng mạnh nhất đó là động cơ,
9
thái độ học tập của sinh viên.
Từ giả thuyết nghiên cứu trên, chúng tôi có các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Liệu những sinh viên có mức độ TƯNN cao có KQHT tốt hơn các sinh
viên có mức độ TƯNN thấp hay không?
- Mức độ TƯNN của sinh viên năm thứ ba có cao hơn sinh viên năm thứ
nhất và năm thứ hai hay không?
- Liệu những sinh viên sống ở khu vực thành thị có mức độ TƯNN cao
hơn sinh viên sống ở khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa hay không?
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận: Tổng hợp các công trình nghiên cứu về thích
ứng nói chung và thích ứng nghề nghiệp nói riêng để từ đó xây dựng khái
niệm công cụ của đề tài: Thích ứng, nghề nghiệp, thích ứng nghề nghiệp của
sinh viên sư phạm.
5.2. Chỉ ra thực trạng mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên các
chuyên ngành sư phạm trong quá trình học tập tại trường CĐSP Sơn La.
5.3. Phân tích một số yếu tố tác động chủ yếu và những nguyên nhân
ảnh hưởng đến mức độ TƯNN của sinh viên.
5.4. Đề xuất những kiến nghị nhằm giúp sinh viên các ngành CĐSP nói
riêng và sinh viên nói chung thích ứng tốt hơn với nghề nghiệp tương lai của mình.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập và phân tích các tài liệu lý
luận cơ bản liên quan đến vấn đề TƯNN của sinh viên. Trên cơ sở đó, xác
định rõ những nội dung của vấn đề đã được nghiên cứu, những tài liệu để xây
dựng cơ sở lý luận của đề tài.
6.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Tìm hiểu thực trạng mức độ
TƯNN của sinh viên chuyên ngành sư phạm trường CĐSP Sơn La.
6.3. Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn 20 sinh viên và 20 giảng
viên học tập và giảng dạy tại các lớp mà đề tài nghiên cứu để thu thập những
thông tin cần thiết nhằm làm rõ hơn các nội dung nghiên cứu trong đề tài.
6.4. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
10
Chọn một sinh viên có mức độ thích ứng tốt, một sinh viên có mức độ
thích ứng trung bình và một sinh viên có mức độ thích ứng kém để nghiên
cứu sâu và mô tả quá trình thích ứng của họ trong quá trình học tập ở trường
cao đẳng.
6.5. Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của một số chuyên gia đã
và đang nghiên cứu về sự thích ứng nghề nghiệp của sinh viên để xác định
các biểu hiện và tiêu chí đánh giá mức độ TƯNN của sinh viên.
6.6. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng kết quả học tập như là sản phẩm
của hoạt động học tập và so sánh kết quả này với mức độ TƯNN của sinh viên.
6.7. Phương pháp thống kê toán học: Xử lý các kết quả nghiên cứu bằng
phần mềm SPSS 13.0
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
7.1. Ý nghĩa khoa học: Đề tài nghiên cứu thành công sẽ góp phần vào
việc hệ thống hoá các tài liệu, các công trình nghiên cứu về vấn đề thích ứng
nghề nghiệp của sinh viên nói chung và mức độ TƯNN của sinh viên sư phạm
nói riêng, qua đó làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu này. Mặt khác,
đề tài góp phần vào việc xây dựng hệ thống các chỉ số để đánh giá mức độ
TƯNN của sinh viên.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở khảo sát mức độ TƯNN của sinh
viên trong quá trình học tập ở trường cao đẳng sư phạm Sơn La, đưa ra các
chỉ số đánh giá cụ thể, rõ ràng để làm rõ thực trạng của vấn đề này. Từ đó, tìm
ra những nguyên nhân, hạn chế và đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng
cao mức độ TƯNN của sinh viên, giúp sinh viên nhanh chóng hoà nhập với
hoạt động nghề nghiệp sau khi ra trường, đáp ứng với yêu cầu của cơ sở tuyển
dụng và xã hội.
11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Vấn đề TƯNN nói chung và thích ứng của sinh viên trong môi trường
cao đẳng, đại học nói riêng từ lâu đã được quan tâm nghiên cứu trên thế giới
và Việt Nam. Các nghiên cứu về lĩnh vực này thường tập trung vào giải quyết
vấn đề khái niệm thích ứng và những vấn đề lý luận có liên quan. Các tác giả
cũng tập trung nghiên cứu thích ứng với nghề nghiệp và học tập của sinh viên
trong quá trình học tập ở trường cao đẳng, đại học và sau khi ra trường.
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới
Các nghiên cứu về sự thích ứng của sinh viên đại học, cao đẳng đã được
các nhà Tâm lý học nước ngoài quan tâm từ những năm 60 của thế kỷ 20
Năm 1968, một số tác giả người Nga như N.D.Carsev, L.N. Khadecva
và K.D. Pavlov đã nêu ra các tiêu chuẩn sinh lý của sự thích ứng nghề nghiệp,
trong đó họ đã nghiên cứu khá sâu sắc cơ sở sinh lý của sự thích ứng ở học
sinh với chế độ học tập và rèn luyện trong nhà trường. Những phản ứng sinh
lý, những biến đổi của các hệ số tương quan đặc biệt là hệ tuần hoàn và hệ
thần kinh được tác giả quan tâm và chỉ ra những biến đổi cụ thể.
Năm 1969, E.A. Ermoleava nghiên cứu "Đặc điểm thích ứng xã hội và
nghề nghiệp ở sinh viên đã tốt nghiệp trường sư phạm". Tác giả đã đưa ra
khái niệm "thích ứng là quá trình thích nghi của người lao động trong tập thể
nhất định" và đã đưa ra chỉ số cho sự thích ứng nghề nghiệp của sinh viên đã
tốt nghiệp trường sư phạm.
Năm 1971, X.A. Kughen và O.N. Nhicandov đã nghiên cứu sự thích ứng
với hoạt động lao động của các kỹ sư trẻ. Các tác giả này đã đưa ra nhiều mức
độ thích ứng khác nhau.
Năm 1972, D.A. Andreeva đã phân tích khá sâu sắc khái niệm thích ứng.
Tác giả đã nêu lên sự khác nhau cơ bản giữa thích ứng và thích nghi sinh học,
đặc biệt bà đã sử dụng nguyên tắc hoạt động theo quan điểm tâm lý học hiện
12
đại để nghiên cứu vấn đề thích ứng. Theo bà, thích ứng là sự thích nghi đặc
biệt của cá nhân với điều kiện,hoàn cảnh mới, là sự thâm nhập vào những
điều kiện mới một cách không gượng ép. Từ đó tác giả đưa ra định nghĩa về
thích ứng: " là một quá trình tạo ra một chế độ hoạt động tối ưu có mục đích
của nhân cách, tức là con người vừa thích nghi với điều kiện mới, vừa phải
chủ động thâm nhập vào những điều kiện đó để xây dựng một chế độ hoạt
động mới, phù hợp và đáp ứng những yêu cầu của điều kiện mới".
Ngoài ra, trong cuốn "Con người và xã hội ", D.A. Andreeva đã so sánh
khái niệm " thích ứng và xã hội hoá". Bà cho rằng, hai khái niệm này có sự
khác biệt về nội dung: thích ứng phản ánh quá trình thích nghi đặc biệt của
con người. Thích ứng nhấn mạnh vai trò tích cực của chủ thể với môi trường
mới. Còn "xã hội hoá", về cơ bản phản ánh sự tác động của xã hội tới cá nhân.
A.S. Serbacov và A.B. Mudric đã nghiên cứu "sự thích ứng nghề nghiệp
của người thầy giáo" và đã nêu lên quan niệm chung về sự thích ứng của
người thầy giáo. Những yếu tố chủ quan và khách quan có ảnh hưởng đến
hiệu quả của sự thích ứng đó".
Năm 1980, trong tập chí "Những vấn đề tâm lý học" số 4, A.A. Krintreva
đã trình bày những nghiên cứu của mình về những đặc điểm tâm lý của sự
thích ứng đối với sản xuất ở những học sinh mới ra trường ở các trường trung
cấp kỹ thuật chuyên nghiệp và trường phổ thông trung học. Tác giả cho rằng:
thích ứng là quá trình làm quen với sản xuất, là quá trình gia nhập dần vào sản
xuất. A.A. Krintreva cũng đưa ra một số chỉ số đặc trưng của sự thích ứng nghề
nghiệp đó là:
- Sự thích ứng nhanh chóng nắm vững chuyên ngành sản xuất, các
chuẩn mực kỹ thuật.
- Sự phát triển tay nghề.
- Vị trí xã hội trong tập thể.
- Sự hài lòng đối với công việc và vị thế của mình trong tập thể.
Năm 1925, Harvey Carr cho rằng học tập là một công cụ quan trọng
được con người sử dụng để thích nghi với môi trường, nghề nghiệp. Ông đã
13
tập trung nghiên cứu hành vi thích nghi.Theo ông, hành vi thích nghi gồm 3
thành phần: 1/ Một động lực dùng như một kích thích cho hành vi (ví dụ: đói,
khát); 2/ Một khung cảnh môi trường hay hoàn cảnh mà sinh vật ở trong đó;
3/ Một phản ứng thoả mãn động lực kia (ví dụ: ăn, uống).
Năm 1971, V.I. Alaudie và A.L. Meseracov, trên cơ sở nghiên cứu quá
trình hình thành hoạt động học tập của các sinh viên thuộc khoa Tâm lý học Đại học tổng hợp Maxcơva đã đi đến kết luận: Việc thích ứng của sinh viên
đại học với hoạt động học tập thực chất là khả năng tổ chức quá trình phát
triển của người học, tiếp cận được với hệ thống tri thức và kinh nghiệm lịch
sử xã hội. Như vậy, thích ứng ở đây được hiểu là khả năng tự tổ chức học tập
của người học.
Năm 1986, A.V. Petrovxki và các đồng nghiệp nghiên cứu về vấn đề
thích ứng học tập của sinh viên. Ông cho rằng thích ứng học tập của sinh viên
là một quá trình phức tạp, diễn ra ở nhiều mặt như: 1/ Thích nghi với hệ thống
học tập mới; 2/ Thích nghi với chế độ làm việc và nghỉ ngơi; 3/ Thích nghi
với các mối quan hệ mới.
Năm 1990, B.P. Allen (Mỹ) đã tiếp cận vấn đề thích ứng học tập của
sinh viên thông qua hệ thống các tác động hình thành các kỹ năng học tập ở
trường đại học. Theo tác giả này, điều kiện cơ bản của sự thích ứng học tập
của sinh viên là hình thành ở họ các nhóm kỹ năng: 1/Kỹ năng sử dụng quỹ
thời gian cá nhân; 2/ Kỹ năng hình thành các hành động học tập và các phẩm
chất khác (như tâm thế, sự lựa chọn các hình thức, nội dung học tập); 3/ Kỹ
năng làm chủ các cảm xúc tiêu cực; 4/ Kỹ năng chủ động luyện tập và hình
thành các thói quen hành vi mang tính nghề nghiệp. Theo cách hiểu này, sự
thích ứng (hay không thích ứng) của sinh viên được giải thích chủ yếu do sinh
viên có (hay thiếu) một số kỹ năng nào đó, mà ít chú ý đến khía cạnh tổ chức
trong hệ thống giáo dục của nhà trường đại học.
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam
Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu bước đầu về những vấn đề cụ thể
của sự thích ứng học đường của sinh viên đại học.
14
Năm 1981, tác giả Bùi Ngọc Dung trong đề tài luận văn thạc sỹ "Bước
đầu tìm hiểu sự thích ứng nghề nghiệp của giáo viên tâm lý giáo dục" đã đưa
ra một số tiêu chí để đánh giá khả năng thích ứng nghề nghiệp của giáo viên
tâm lý - giáo dục.
Nguyễn Ngọc Bích (1982), khoa Tâm lý - giáo dục trường đại học sư
phạm Hà Nội có đề tài nghiên cứu mang tên: "Thích ứng học đường của sinh
viên sư phạm".
Nguyễn Thị Trang (1982), trường đại học sư phạm Hà Nội "Bước đầu
tìm hiểu sự thích ứng học tập của sinh viên khoa Tâm lý - giáo dục".
Hoàng Trần Doãn (1983), luận văn thạc sỹ "Sự thích ứng với hoạt động
học tập của sinh viên khoa Văn và Toán trường đại học sư phạm Hà Nội I".
Phạm Thị Ngần (1986), Luận văn tốt nghiệp cử nhân "Tìm hiểu sự thích ứng
học tập ở nữ sinh năm thứ nhất trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn".
Trịnh Ngọc Tân (1986) với đề tài "Bước đầu tìm hiểu kết quả của một số
biện pháp nâng cao tốc độ thích ứng học tập của sinh viên năm thứ nhất".
Lê Thị Hương (1998) với luận văn thạc sỹ Tâm lý học "Nghiên cứu sự
thích ứng với hoạt động học tập ở sinh viên năm thứ nhất trường CĐSP
Thanh Hoá".
Đỗ Mạnh Tôn với luận án PTS: "Sự thích ứng của sinh viên đối với học
tập và rèn luyện của học viên các trường sỹ quan quân đội".
Năm 2003, Trung tâm nghiên cứu về Phụ nữ đã tiến hành nghiên cứu đề
tài "Nghiên cứu sự TƯ của sinh viên năm thứ nhất Đại học Quốc gia Hà Nội
với môi trường đại học" do PGS.TS. Trần Thị Minh Đức là chủ nhiệm đề tài.
Vũ Mộng Đoá (2006) với luận văn thạc sỹ Tâm lý học " Sự thích ứng
với hoạt động học tập của sinh viên khoa Công tác xã hội và phát triển cộng
đồng trường đại học Đà Lạt"
Dương Thị Nga (2007), với luận văn thạc sỹ "Hình thành khả năng thích
ứng nghề cho sinh viên CĐSP qua giảng dạy học phần: Tâm lý học lứa tuổi
và tâm lý học sư phạm"
Nhìn chung, các nghiên cứu trong nước và nước ngoài tập trung vào
15
nghiên cứu thích ứng của sinh viên với hoạt động học tập, với môi trường đại
học và sự TƯNN của sinh viên đã tốt nghiệp đại học. Vấn đề TƯNN của sinh
viên trường CĐSP Sơn La chưa được làm rõ trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào. Vì vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mong muốn làm rõ thực
trạng TƯNN của sinh viên trong trường, qua đó tìm ra các biện pháp giúp họ
thích ứng tốt hơn với chuyên ngành được đào tạo.
1.2 Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1 Khái niệm thích ứng
1.2.1.1 Một số lý thuyết về sự thích ứng tâm lý
*) Thuyết Tâm Lý học hành vi về vấn đề thích ứng
Tâm lý học hành vi do J.Watson khởi sướng với luận điểm cơ bản: Tâm
lý học đích thực phải lấy hành vi làm đối tượng nghiên cứu chứ không phải là
ý thức. Theo quan điểm những người thuộc dòng phái này, về nguyên tắc, các
quy luật và cơ chế thích ứng ở người giống động vật, chỉ khác là môi trường
sống của con người có thêm một số yếu tố mới như ngôn ngữ và các quy tắc
xã hội. Sự thích ứng ở người có cơ chế và quy luật phức tạp hơn nhưng không
có sự khác biệt về chất so với động vật. Do đó, khi nghiên cứu sự thích ứng
của con người vẫn phải giữ lại những khái niệm cơ bản của tiến hoá sinh học:
thích nghi với môi trường và sống còn, liên kết và phân hoá các chức năng
của chúng, kinh nghiệm loài và cá thể … Sự thích ứng của con người chỉ
phức tạp hơn của động vật về mặt số lượng [7].
Thừa kế quan điểm của các nhà Tâm lý học động vật, J. Watson cho rằng
để tồn tại, cá nhân có một hệ thống hành vi, ứng xử có được là do học tập.
Trong đó từng hành vi cụ thể có cơ sở là các kinh nghiệm, hành vi cũ và động
lực là sự thích ứng. Đó là quá trình cá nhân học được những hành vi mới cho
phép nó giải quyết những yêu cầu, những đòi hỏi của cuộc sống. Sự kém thích
ứng là không học được hoặc hành vi học được không đáp ứng được yêu cầu
của môi trường. Việc học tập được J. Watson xem xét dưới góc độ hành thành
kinh nghiệm và hành vi cá thể (tập nhiễm) … Với lý luận hành vi, ông coi con
người là một cơ thể sống với một hệ thống kỹ xảo đã được học đáp ứng với
16
những đòi hỏi của môi trường xung quanh [7].
Sau này lý thuyết Hành vi còn có một xu hướng phát triển khác là tâm lý
học hành vi nhận thức mà tiêu biểu là W. Mischel. Trường phái này chú trọng
vai trò nhận thức của con người trong quá trình thích ứng. Ông đã nhìn nhận
hành vi thích ứng một cách đầy đủ toàn diện hơn. Cùng với việc chú ý đến vai
trò của yếu tố bên trong, W. Mischel đã phát hiện ra tính tích cực của chủ thể
thích ứng.
Mặc dù chưa vạch ra được bản chất đích thực của sự thích ứng tâm lý ở
người, nhưng chủ nghĩa hành vi đã có những đóng góp nhất định vào việc giải
quyết vấn đề này.
*) Tâm lý học nhân văn về vấn đề thích ứng
Đại diện tâm lý học Nhân văn là A. Maslow. Ngược lại với chủ nghĩa
Hành vi, trường phái này lấy nhân cách là đối tượng nghiên cứu, xem nhân
cách là một hiện tượng chỉ có ở người, là một hệ thống mở nhưng trọn vẹn và
tự thể hiện. Đó là năng lực bộc lộ tiềm năng sáng tạo, tin vào bản thân và
tương lai. Động lực thực sự của hành vi thích ứng là nhu cầu hướng thiện, vị
tha, vì xã hội. Thích ứng là những ứng xử tích cực của cá nhân với tư cách là
chủ thể với thế giới xung quanh và với chính mình.
A. Maslow coi thích ứng là sự thể hiện được những cái vốn có của cá
nhân trong những điều kiện sống nhất định. Sự không thích ứng chính là sự
không được tự thể hiện, sẽ tạo ra xung đột và ảnh hưởng tới sự phát triển nhân
cách. Tiền đề tạo ra sự thích ứng là một hệ thống nhu cầu của nhân cách,
được sắp xếp theo thứ bậc mà cao nhất là nhu cầu tự thể hiện - một nhu cầu
bẩm sinh nhưng có tính chất nhân văn, chỉ xuất hiện khi các nhu cầu bậc thấp
được thoả mãn [35]. Mặc dù không phủ nhận vai trò của cái vô thức, bản năng
(của Phân tâm học) hay quá trình học tập (của chủ nghĩa Hành vi), nhưng A.
Maslow có quan niệm khác về yếu tố quy định sự thích ứng. Theo ông, nhu
cầu "tự thể hiện" mong muốn phát triển hết mức khả năng vốn có của bản
thân và năng lực lựa chọn một cách có ý thức những mục tiêu hành động của
nhân cách là yếu tố quyết định sự thích ứng của con người.
17
Tâm lý học Nhân văn đã coi trọng tính tích cực lựa chọn và phẩm chất tự
đánh giá của nhân cách trong quan hệ cá nhân - xã hội. Điều này có ý nghĩa
quan trọng trong việc xây dựng biện pháp tác động đến sự thích ứng tâm lý
nói chung và sự thích ứng với nghề nghiệp nói riêng. Đó là tư tưởng tiến bộ
của dòng phái này.
*) Tâm lý học Nhận thức về vấn đề thích ứng
Đại diện trường phái này là J. Piaget. Trong cuộc sống con người, theo
J.Piaget có hai loại hoạt động gắn liền với nhau: Hoạt động tâm lý và hoạt
động sinh học. Trong đó, hoạt động tâm lý có nguồn gốc sinh học. Cá thể chỉ
tồn tại và phát triển trong mối tương tác giữa cơ thể và môi trường từ đó tạo
ra sự cân bằng giữa cơ thể và môi trường, và cuối cùng cơ thể thích ứng với
môi trường [19, 24]. Theo tác giả, thích ứng có 3 cấp độ:
- Thích ứng sinh học (thích ứng vật chất) làm cho cơ thể bằng xương
bằng thịt tồn tại và phát triển có thể nhận thức trực tiếp qua các giác quan.
- Thích ứng tâm lý (thích ứng chức năng) có nguồn gốc sinh học.
- Thích ứng trí tuệ: Theo J. Piaget, trí tuệ không phải là cái có ngay từ
đầu khi đứa trẻ mới sinh. Nó là kết quả của sự tương tác giữa cơ thể và môi
trường. Trong quá trình tương tác giữa cơ thể và môi trường, con người tạo ra
trí tuệ của mình. Mỗi người tương tác như thế nào thì trí tuệ được hình thành
và phát triển theo hướng đó. Tuy nhiên, J. Piaget luôn khẳng định, trí tuệ có
nguồn gốc sinh học, cái sinh học nó tương tác với môi trường tạo nên sự cân
bằng, thích ứng. Trí tuệ là sản phẩm của quá trình thích nghi của cơ thể với
môi trường.
J. Piaget đã có những đóng góp quan trọng vào lý luận về sự thích ứng
tâm lý ở con người và cơ chế phát triển của thích ứng nhận thức, về những
yếu tố ảnh hưởng đến nó. Tuy nhiên, J. Piaget đã nhìn nhận sự phát triển tâm
lý dưới góc độ thích nghi sinh học, ông chủ yếu chú ý tới mặt hình thức của
sự thích ứng mà chưa quan tâm đúng mức đến bản chất, nội dung xã hội - lịch
sử của sự thích ứng tâm lý người. Ông đã đánh giá quá cao yếu tố thành thục
trong sự thích ứng và sự thích ứng diễn ra như thế nào chứ chưa coi trọng vấn
18
đề làm thế nào để phát triển sự thích ứng ở trẻ em cũng như các giai đoạn lứa
tuổi khác.
*) Phân tâm học về vấn đề thích ứng
Phân tâm học là do S. Freud (người Áo) khởi xướng. Xuất phát từ cách
nhìn sinh vật học đối với nhân cách, cho rằng nhân cách là một cấu trúc tổng
thể trọn vẹn với 3 thành tố "cái nó" (Id), "cái tôi" (ego) và "cái siêu tôi"
(superego) có vai trò và chức năng khác nhau đối với đời sống con người.
Theo S.Freud, hành vi sống của con người có hình thức căn bản và được thúc
đẩy bởi bản năng, mà quyết định là bản năng tính dục và bản năng xâm chiếm
… Tuy nhiên, cái bản năng này luôn bị cấm đoán bởi cái xã hội (cái siêu tôi).
Để tồn tại, con người phải đạt được sự cân bằng, sự hài hoà giữa hai cái đối
lập "cái nó" và "cái siêu tôi" - đó chính là sự thích ứng. Sự thích ứng là sự
thoả mãn hợp lý các bản năng tình dục trong những điều kiện xã hội nhất
định. Sự phát triển "cái tôi" nhân cách là kết quả của sự thích ứng qua các giai
đoạn khác nhau của đời sống cá thể. Lý thuyết Phân tâm cổ điển của S. Freud
xuất phát từ quan điểm sinh vật luận nên không phát hiện được bản chất xã
hội - lịch sử của sự thích ứng ở con người.
Sau này, những người kế tục S. Freud đã xây dựng nên trường phái Phân
tâm hiện đại như: C. Jung, E. Fromm và E. Erikson. Các ông cho rằng S.
Freud quá đề cao "cái nó", cái bản năng trong hành vi con người. Theo họ,
"cái tôi" có vai trò quan trọng trong sự thích ứng cá nhân,là chủ thể của hành
vi chứ không chỉ là phương thức thoả mãn "cái nó". Khác với S. Freud, các
nhà Phân tâm học hiện đại đã coi trọng vai trò cua quan hệ xã hội đối với các
hành vi thích ứng của cá nhân. E. Fromm cho rằng: "Cần phải xem xét hành
vi thích ứng của cá nhân từ tính chất xã hội của môi trường". E. Erikson thì
nhấn mạnh thêm "sự thích ứng tâm lý là sự thiết lập các quan hệ xã hội của cá
nhân với những người xung quanh"[34].
Ứng dụng lý thuyết Phân tâm cũ và mới, các nhà tâm thần học theo
S.Freud chú ý tới giải thích bản chất và cơ chế của sự thích ứng tâm lý.Con
người không phải là một ngoại lệ sinh học. Ngay từ khi mới lọt lòng, đứa bé
19
- Xem thêm -