Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đánh giá nguồn than bùn và nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón chế biến từ than bù...

Tài liệu Đánh giá nguồn than bùn và nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón chế biến từ than bùn đến sinh trưởng, năng suất lúa tại lào cai

.PDF
117
831
58

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ---*--- ĐỖ HỒNG QUÂN ĐÁNH GIÁ NGUỒN THAN BÙN VÀ NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN BÓN CHẾ BIẾN TỪ THAN BÙN ĐẾN SINH TRƯỞNG, NĂNG SUẤT LÚA TẠI LÀO CAI ------------------ LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN - NĂM 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ---*--- ĐỖ HỒNG QUÂN ĐÁNH GIÁ NGUỒN THAN BÙN VÀ NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN BÓN CHẾ BIẾN TỪ THAN BÙN ĐẾN SINH TRƯỞNG, NĂNG SUẤT LÚA TẠI LÀO CAI ------------------ Chuyên ngành: Trồng trọt Mã số: 60.62.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. TS. Hoàng Hải 2. PGS.TS Đặng Văn Minh THÁI NGUYÊN – NĂM 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài: “Đánh giá nguồn than bùn và nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón chế biến từ than bùn đến sinh trưởng, năng suất lúa tại Lào Cai”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ quý báu, tận tình của giáo viên hướng dẫn khoa học; Lãnh đạo Nhà trường, tập thể cán bộ, giáo viên Khoa sau Đại học, giáo viên giảng dạy chuyên ngành các bộ môn Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, Lãnh đạo phòng Kinh tế huyện Bảo Thắng, UBND huyện Bảo Thắng, UBND huyện Bát Xát, Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Lào Cai, Ban giám đốc Xí nghiệp phân bón và hóa chất - Công ty TNHH MTV Apatit Việt Nam và sự cộng tác nhiệt tình của anh, chị em, bạn bè, đồng nghiệp cùng với sự nỗ lực của bản thân đã giúp tôi vượt qua khó khăn để hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và kính trọng đến PGS. TS Đặng Văn Minh, TS. Hoàng Hải, đã tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện, giúp đỡ nhiệt tình của Lãnh đạo Nhà trường, tập thể cán bộ, giáo viên Khoa sau Đại học, giáo viên giảng dạy chuyên ngành các bộ môn Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, Lãnh đạo phòng Kinh tế huyện Bảo Thắng, UBND huyện Bảo Thắng, UBND huyện Bát Xát, Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Lào Cai, Ban giám đốc Xí nghiệp phân bón và hóa chất - Công ty TNHH MTV Apatit Việt Nam trong quá trình tôi học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu tại trường cũng như tại địa phương. Tôi xin chân thành cảm ơn các anh, chị em, bạn bè, đồng nghiệp đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài này. Trân trọng cảm ơn! TÁC GIẢ Đỗ Hồng Quân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn chỉnh luận văn này đều đã được tác giả cảm ơn, các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đều đã được ghi rõ nguồn gốc./. TÁC GIẢ Đỗ Hồng Quân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn ii DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT < Nhỏ hơn = Bằng > Lớn hơn ≥ Lớn hơn hoặc bằng CT Công thức CV (%) Hệ số biến động (%) FAO Food and Agriculture Organization of the United (FAOSTAT) Nations (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc) IRRI: Internettional Rice Research Instiute (Viện nghiên cứu lúa Quốc tê) LSD05 Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở độ tin cậy 95% NSLT Năng suất lý thuyết NSTT Năng suất thực thu TB Trung bình TGST Thời gian sinh trưởng TNHH Trách nhiệm hữu hạn TNHH MTV Trách nhiệm hữu hạn một thành viên VSV Vi sinh vật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 Phần I MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Than bùn được tạo thành từ xác các loài thực vật khác nhau. Xác thực vật được tích tụ lại, được đất vùi lấp và chịu tác động của điều kiện ngập nước trong nhiều năm. Với điều kiện phân huỷ yếm khí các xác thực vật được chuyển thành than bùn [20]. Trong than bùn có hàm lượng chất vô cơ là 18 – 24%, phần còn lại là các chất hữu cơ. Theo số liệu điều tra của các nhà khoa học, trên thế giới trữ lượng than bùn có khoảng 300 tỷ tấn, chiếm 1.5% diện tích bề mặt quả đất [21]. Than bùn được sử dụng trong nhiều ngành kinh tế khác nhau. Trong nông nghiệp than bùn được sử dụng để làm phân bón và tăng chất hữu cơ cho đất. Trong than bùn có axit humic, có tác dụng kích thích tăng trưởng của cây. Hàm lượng đạm tổng số trong than bùn cao hơn trong phân chuồng gấp 2 – 7 lần, nhưng chủ yếu ở dưới dạng hữu cơ. Để bón cho cây, người ta không sử dụng than bùn để bón trực tiếp. Thường than bùn được ủ với phân chuồng, phân rác, phân bắc, nước giải, sau đó mới đem bón cho cây. Trong quá trình ủ, hoạt động của các loài vi sinh làm phân huỷ các chất có hại và khoáng hoá các chất hữu cơ tạo thành chất dinh dưỡng cho cây [34]. Hiện nay , ở Lào Cai , việc sử dụng than bùn vào chế biến phân bón vẫn còn nhiều hạn chế , hiện chỉ có Công ty TNHH một thành viên Apatit Việt Nam khai thác làm nền để sản xuất phân khoáng NPK , theo ước tí nh sơ bô, trữ lượng than bùn tại một số mỏ ở một số huyện như Bát Xát , Văn Bàn, Bảo Thắng vào khoảng trên 100.000 tấn, ngoài ra còn rất nhiều mỏ than bùn khác. Trong những năm trở lại đây , việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền , vận động người dân tăng cường sử dụng phân hữu cơ dần thay thế cho phân khoáng nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững đã được tỉ nh quan tâm chỉ đạo, song đa phần người dân do lợi í ch trước mắt , thường sử dụng phân bón hóa học để bón cho cây trồng , tuy phân bón hóa học có hiệu lực nhanh nhưng do người dân quá lạm dụng trong khi cây trồng ch ỉ sử dụng được một phần , phần còn lại nằm lại trong đất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 hoặc bị rửa trôi, phần nằm trong đất này không có tác dụng dinh dưỡng mà còn làm đất bị chai cứng, ô nhiễm đất. Để khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn hữu cơ sẵn có, nhằm phát huy lợi thế của địa phương , tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : “Đánh giá nguồn than bùn và nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón chế biến từ than bùn đến sinh trưởng , năng suất lúa tại Lào Cai”. 1.2. Mục tiêu của đề tài 1.2.1. Mục tiêu chung Đánh giá nguồn than bùn và nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón chế biến từ nguồn than bùn tự nhiên đến sinh trưởng , năng suất lúa tại Lào Cai nhằm tạo nguồn phân bón hữu cơ tại chỗ, góp phần giải quyết khó khăn về phân bón cho nông dân, nâng cao năng suất lúa và độ phì đất. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Điều tra tình hình khai thác sử dụng và trữ lượng than bùn tại một số huyện như Bát Xát, Văn Bàn , TP Lào Cai tỉnh Lào Cai . Đánh giá chất lượng than bùn vùng nghiên cứu (huyện Bát Xát). - Nghiên cứu biện pháp ủ than bùn kết hợp với s ử dụng chế phẩm vi sinh đ ể làm phân bón cho cây trồng. - Nghiên cứuảnh hưởng của phân bón ủ từ than bùn tới sinh trưởng , năng suất lúa. 1.3. Ý nghĩa khoa học và thƣ̣c tiễn của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa khoa học Từng bước đị nh hướng cho người dân đị a phương trong vi ệc cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng bằng con đường hữu cơ vi sinh, giảm dần và tiến tới thoát ly sự phụ thuộc vào phân hoá học để hướng tới một nền nông nghiệp bền vững, tạo ra sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao và an toàn. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của phân bón từ than bùn đến khả năng sinh trưởng của cây lúa s ẽ là tiền đề cho việc nghiên cứu và ứng dụng trên một số cây trồng khác trên đị a bản tỉ nh Lào Cai trong những giai đoạn tiếp theo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 Phần II TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Cơ sở khoa học của đề tài Phân bón là thức ăn của cây trồng, thiếu phân bón cây không thể sinh trưởng và cho năng suất, phẩm chất cao. Phân bón có vai trò rất quan trọng trong việc thâm canh tăng năng suất, bảo vệ cây trồng và nâng cao độ phì nhiêu của đất [6]. Phân hữu cơ là phân chứa những chất dinh dưỡng ở dạng những hợp chất hữu cơ, được hiểu rộng ra bao gồm phế phụ phẩm của cây trồng, gia súc, gia cầm ở các giai đoạn khác nhau của quá trình phân giải và được bón vào đất nhằm cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng, cải thiện tính chất đất. Các nguồn phân hữu cơ bao gồm phân chuồng; phế phụ phẩm của trồng trọt (sản phẩm dư thừa sau thu hoạch), lâm nghiệp (mùn cưa....); than bùn; rác thải công nghiệp từ các ngành sản xuất như ngành sản xuất giấy, đường, bùn cống rãnh và phế phụ phẩm từ ngành chế biến nông sản [27]. Các nguồn phân hữu cơ này, nếu để tự phân giải theo tự nhiên thành các chất vô cơ cho cây trồng có thể sử dụng được cần thời gian dài từ 6 - 7 tháng. Hiện nay, nhiều nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu và có nhiều thành công trong lĩnh vực sử dụng chế phâm vi sinh vật (VSV) để xử lý các nguồn phân hữu cơ làm rút ngắn thời gian phân hủy của các chất hữu cơ, bên cạnh đó còn làm tăng hàm lượng các chất dinh dưỡng, bổ sung VSV vào trong đất, kích thích quá trình sinh hóa trong đất, cải thiện lý tính đất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Lào Cai là một tỉnh miền núi , nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo, chiếm phần lớn trong tổng thu nhập GDP toàn tỉnh. Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp của người dân địa phương, chủ yếu phụ thuộc vào phân bón hóa học, chưa biết tận dụng tối đa nguồn hữu cơ sẵn có tại địa phương như: sản phẩm trồng trọt sau thu hoạch, phân của gia súc, gia cầm, than bùn, rác thải sinh hoạt.... Các nguồn hữu cơ này có thể sử dụng bằng cách xử lý nguyên liệu, ủ với chế phẩm vi sinh vật trong một thời gian nhất định sẽ tạo được một nguồn phân bón hữu cơ lớn tại địa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 phương, có tác dụng giải quyết vấn đề về phân bón cho nông dân, giảm sự lệ thuộc và phân bón vô cơ vốn giá thành đắt và ảnh hưởng không tốt tới môi trường, bên cạnh đó còn vai trò nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, tăng độ phì cho đất. Theo các kết quả nghiên cứu cho thấy , than bùn sau khi khử bitumic bằng nhiệt hoặc nước giải, bổ sung thêm vi sinh vật và bón kết hợp với phân khoáng ở một lượng vừa phải sẽ tạo thành một loại phân bón giàu chất dinh dưỡng cho cây trồng [34]. Theo đánh giá sơ bộ của Công ty TNHH một thành viên Apatit Việt Nam , là đơn vị khai thác và sử dụng than bùn làm phân bón tổng hợp NPK tại Lào Cai thì chỉ tỉnh riêng một số mỏ ở một số huyện như Văn Bàn , Bảo Yên, TP Lào Cai thì trữ lượng than bùn vào khoảng trên 100.000 tấn, ngoài ra còn có rất nhiều nguồn than bùn khác . Nếu biết tận dụng nguồn nguyên liệu này để sản xuất phân bón hữu cơ cho cây trồng thì sẽ nâng cao hiệu quả kinh tế , giảm thiểu ô nhiễm môi trường và tăng độ bền của đất. Hiện nay, tại một số tỉnh đã có nhiều hướng nghiên cứu sử dụng than bùn , bùn thải làm phân bón cho cây trồng như Công ty TNHH Non Côi Vĩnh Phúc, đã nghiên cứu và thủ nghiệm thành công loại phân bón từ than bùn kết hợp với một số chế phẩm vi sinh trên một số cây trồng như lúa , ngô, đậu tương và đều cho năng suất tốt, nâng cao chất lượng nông sản và tăng độ bền đất canh tác [20]. Ngoài ra, ở nước ta có nhiều đơn vị sản xuất nhiều loại phân hữu cơ vi sinh khác trên cơ sở than bùn, như: Biomix (Củ Chi), Biomix (Kiên Giang), Biomix (Plây Cu), Biofer (Bình Dương), Komix (Thiên Sinh), Komix RS (La Ngà), Compomix (Bình Điền II), phân lân hữu cơ sinh học sông Gianh và nhiều loại phân hữu cơ sinh học ở nhiều tỉnh phía Bắc. 2.2. Tình hình sản xuất, xuất khẩu lúa gạo trên thế giới và Việt Nam 2.2.1. Tình hình sản xuất, xuất khẩu lúa gạo trên thế giới Thống kế của tổ chức lương thực thế giới (FAO, 2008) cho thấy, trên thế giới có 114 nước trồng lúa, trong đó 18 nước có diện tích trồng lúa trên trên 1.000.000 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 ha tập trung ở Châu Á,....., 31 nước có diện tích trồng lúa trong khoảng 100.000 1.000.000 ha [7]. Bảng 1.1: Diện tích, năng suất và sản lƣợng lúa trên thế giới giai đoạn 1961-2009 Diện tích Năng suất Sản lƣợng (triệu ha) (tạ/ha) (triệu tấn) 1961 115,50 18,70 215,65 1970 133,10 23,80 316,38 1980 144,67 27,40 396,87 1990 146,98 35,30 518,23 2000 154,11 38,90 598,97 2001 151,97 39,40 598,03 2002 147,69 39,00 577,99 2003 149,20 39,10 583,00 2004 151,02 40.30 608,37 2005 155,03 40,92 634,39 2006 155,74 41,16 641,09 2007 155,95 42,12 656,81 2008 159,25 43,09 685,87 2009 161,42 42,04 678,69 (Nguồn: FAOSTAT, 2010 [4] và Nguyễn Ngọc Đệ (2008) [11]) Năm Qua bảng trên cho thấy, diện tích trồng lúa trên thế giới đã gia tăng rõ rệt từ năm 1961 đến 1980. Trong vòng 19 năm đó, diện tích trồng lúa trên thế giới tăng bình quân 1,53 triệu ha/năm. Từ năm 1980 - 2000, diện tích lúa thế giới có xu hướng tăng nhưng tăng chậm (bình quân 0,472 triệu ha/năm). Từ năm 2000 trở đi diện tích trồng lúa thế giới có biến động nhưng tương đối ổn định, đến năm 2005 diện tích lúa toàn thế giới ở mức 155,03 triệu ha. Từ năm 2005 đến 2009 diện tích lúa gia tăng liên tục (bình quân 1,6 triệu ha/năm), năm 2009 cả thế giới đạt 161,42 triệu ha, cao nhất kể từ năm 1961 tới nay. Về năng suất lúa chung của thế giới, qua bảng 1.1 cho thấy, bình quân từ 27,4 tạ/ha năm 1980 lên 38,9 tạ/ha/vụ năm 2000 và 42,04 tạ/ha năm 2009. Năng suất lúa tăng, đó là do sự cải tiến giống và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Nước có năng suất lúa cao nhất thế giới là Úc với 82 tạ/ha, sau đó là Bắc Triều Tiên 75 tạ/ha, Nam Triều Tiên 62 tạ/ha, Nhật Bản 59 tạ/ha, Trung Quốc 57 tạ/ha Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 [5]. Philippin là nước có năng suất lúa không ngừng được tăng lên nhờ ứng dụng các giống lúa mới của Viên nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI). Châu Âu mặc dù là khu vực có diện tích trồng lúa thấp nhất thế giới nhưng lại có năng suất bình quân cao hơn các Châu Lục khác. Tổng sản lượng thóc toàn thế giới đã phát triển từ 518,23 triệu tấn năm 1990 lên 598,97 triệu tấn năm 2000 và khoảng 678,69 triệu tấn năm 2009 (Bảng 1.1). Theo FAO (2008), tình hình xuất khẩu gạo năm 2008, Thái Lan vẫn là nước xuất khẩu gạo dẫn đầu thế giới (9 triệu tấn), Việt Nam đứng thứ 2 (3.8 triệu tấn). Thái Lan xuất khẩu gạo hơn Việt Nam về cả số lượng giá trị và chiếm 31% sản lượng xuất khẩu gạo thế giới, 38,8 % sản lượng xuất khẩu gạo của châu Á, mặc dù năng suất lúa chỉ khoảng 3 tấn/ha. Họ có ưu thế này là do có thị trường truyền thống rộng hơn, và chất lượng gạo cao hơn. Pakistan, Mỹ, Ấn Độ cũng là những nước xuất khẩu gạo quan trọng [7]. Trong số xuất bản gần đây nhất trong tháng 6 năm 2011 của Tổ chức Lương nông Thế giới (FAO) trên tạp chí “triển vọng sản xuất và tình hình lương thực” (Crop Prospects and Food Situation), tình hình sản xuất lúa gạo được FAO dự đoán là rất lạc quan. Năm 2011 sẽ chứng kiến sự tăng trưởng mạnh trong sản xuất lúa gạo của Ấn Độ, Trung Quốc, Bangladesh, Indonesia, Philippines và Việt Nam…, tuy nhiên việc canh tác lúa lại gặp khó khăn do điều kiện thời tiết khắc nghiệt tại một số quốc gia như Lào, Bắc Triều Tiên, Myanmar, Pakistan và cả nước xuất khẩu lúa gạo hàng đầu Thế Giới là Thái Lan nhưng do những tiến bộ vượt bật trong công tác giống, khuyến nông,… năng suất và sản lượng lúa năm 2011 vẫn sẽ thiết lập mốc kỷ lục mới [22]. FAO dự đoán sản lượng lúa Toàn Cầu năm 2011 sẽ tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2010 (tăng khoảng 12 triệu tấn nâng tổng sản lượng lên mức kỷ lục mới là 708 triệu tấn). Do điều kiện thời tiết được dự đoán là sẽ khá thuận lợi cho sản xuất tại các vùng sản xuất chủ lực của Châu Á, tổng sản lượng lúa dự kiến sẽ đạt 713 triệu tấn tương đương với 476 triệu tấn gạo trắng và thiết lập mức kỷ lục mới trong năm 2012, tăng 2,5% so với năm 2010. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 FAO cũng nhận định tình hình cung cầu trên thị trường lúa gạo năm 2011 là khá ổn định, nhưng do những bất ổn về chính trị trên chính trường Thái Lan (nước xuất khẩu gạo hàng đầu Thế Giới) cùng với những tuyên bố về tăng giá thu mua lúa gạo cho nông dân của Đảng đối lập trong vận động tranh cử. Trong trường hợp nếu Đảng đối lập giành thắng lợi thì giá thu mua lúa gạo tại Thái Lan sẽ tiếp tục tăng cao, FAO nhận định. Thêm vào đó, Ấn Độ hiện tại cũng có những chính sách giới hạn xuất khẩu nhiều loại gạo trừ loại gạo thơm Basmati. Gần đây nhất, chính phủ Philippine cũng tuyên bố sẽ thắc chặc việc xuất khẩu gạo của nước này. Trước tình hình này thì một số bạn hàng nhập khẩu gạo của Thái Lan, Ấn Độ, Philippine đã chuyển hướng sang Việt Nam, nơi mà giá lúa gạo không có nhiều biến động. Nhìn chung, sản xuất, xuất khẩu lúa gạo trên thế giới vẫn liên tục được phát triển. Sự phát triển của nền nông nghiệp trên thế giới vẫn tăng theo mức tăng dân số nhờ những tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật 2.2.2. Tình hình sản xuất, xuất khẩu lúa gạo ở Việt Nam Lúa là cây trồng cổ truyền của Việt Nam và là cây trồng quan trọng nhất hiện nay vì diện tích gieo trồng lúa chiếm đến 61% diện tích trồng trọt cả nước và 80% nông dân Viêt Nam là nông dân trồng lúa. Gạo là lương thực thiết yếu hàng đầu của người Việt Nam vì 100% của dân số 87 triệu người không ai không ăn gạo hàng ngày từ người thu nhập thấp đến người thu nhập cao, từ nông thôn đến thành thị [14]. Chính vì tầm quan trọng của lúa gạo, thời gian qua Chính phủ Việt Nam luôn luôn đặt phát triển lúa gạo là nhiệm vụ trung tâm của phát triển nông nghiệp và đã có những đầu tư thích đáng cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống thủy lợi, nhờ vậy chỉ trong vòng 30 năm đã biến nhiều vùng đất khó khăn trở thành những vùng đất trồng lúa trù phú cho đất nước, mà điển hình nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài đầu tư cơ sở hạ tầng, Nhà nước cũng đã quan tâm đầu tư về khoa học công nghệ và khuyến nông đối với cây lúa và các chính sách hỗ trợ nông dân. Nhìn lại 20 năm qua, sản xuất lúa ở Việt Nam đã có những tựu đặc biệt ấn tượng, mà dấu mốc lịch sử là năm 1989, khi Việt Nam, một nước thiếu lương thực lần đầu xuất hiện là nước xuất khẩu gạo với số lượng lến đến 1 triệu tấn và sau Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 đó, từ 1990 đến 2010 sản lượng lúa từ 19 triệu tấn tăng lên 40 triệu tấn, xuất khẩu gạo từ 1,6 triệu tấn tăng lên 6,7 triệu tấn, trong bối cảnh diện tích đất lúa năm 2010 đã giảm 380.000 ha nếu so với năm 2000. Năng suất lúa bình quân toàn quốc đã tăng từ 3,18 tấn/ha năm 1990 lên 5,3 tấn/ha năm 2010. Từ năm 2002 đến nay, năng suất lúa bình quân của Việt Nam luôn dẫn đầu các nước ASEAN và ít nhất trên nửa triệu ha năng suất lúa Việt Nam đạt trên 7 tấn/ha trong vụ Đông Xuân là mức năng suất lúa tiên tiến của thế giới hiện nay [5]. Theo thống kê của FAO năm 2008 [7], Việt Nam có diện tích lúa khoảng 7,4 triệu ha đứng thứ 7 sau các nước có diện tích lúa trồng nhiều ở Châu Á theo thứ tự Ấn Độ (~44.0 triệu ha), Trung Quốc (~29.5 triệu ha), Indonesia (~12.3 triệu ha), Bangladesh (~11.7 triệu ha), Thái Lan (~10.2 triệu ha), Myanmar (~8.2 triệu ha). Việt Nam có năng suất 5,2 tấn/ha đứng thứ 24 trên thế giới sau Ai Cập (9,7 tấn/ha) Úc (9,5 tấn/ha) El Salvador (7,9 tấn/ha), đứng đầu khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 4 trong khu vực châu Á sau Hàn Quốc (7,4 tấn/ha), Trung Quốc (6,6 tấn/ha), Nhật (6,5 tấn/ha). Có mức tăng năng suất trong 8 năm qua là 0,98 tấn/ha đứng thứ 12 trên thế giới và đứng đầu của 8 nước có diện tích lúa nhiều ở Châu Á về khả năng cải thiện năng suất lúa trên thế giới. Việt Nam vượt trội trong khu vực Đông Nam Á nhờ thuỷ lợi được cải thiện đáng kể và áp dụng nhanh các tiến bộ kỹ thuật về giống, phân bón, và bảo vệ thực vật. Theo thống kế của FAO năm 2008 [7], Việt Nam mặc dù có tổng sản lượng lúa hàng năm đứng thứ 5 trên thế giới, nhưng lại là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 (5,2 triệu tấn) sau Thái Lan (9,0 triệu tấn), chiếm 18% sản lượng xuất khẩu gạo thế giới, 22,4% sản lượng xuất khẩu gạo của châu Á. Theo kết quả phân tích cho thấy, thị trường xuất khẩu gạo chính của VN trong 15 năm qua, thứ nhất là các quốc gia Đông Nam Á (chiếm khoảng 40-50% lượng gạo xuất khẩu, thứ hai là các quốc gia Châu Phi (chiếm khoảng 20-30%, một thị trường khá ổn định. Các thị trường khác là Trung Đông và Bắc Mỹ, nhưng lượng gạo xuất khẩu sang các nước này không ổn định. Yếu tố quan trọng ảnh hưởng các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam là ít kinh nghiệm nên thiếu khả năng duy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 trì và khai thác các thị trường nhiều biến động. Nếu có mối liên kết tốt hơn và tổ chức thị trường tốt, họ sẽ nâng cấp hạng ngạch và giá trị xuất khẩu gạo của VN [7]. 2.3. Một số vấn đề về nghiên cứu, sử dụng chế phẩm VSV xử lý nguồn hữu cơ làm phân bón 2.3.1. Sơ lƣợc về lịch sử phát triển phân bón và xu thế sử dụng phân bón trong nông nghiệp Trên thế giới, lịch sử nghiên cứu và sử dụng phân bón đã có từ rất lâu đời và được bắt đầu từ phân hữu cơ. Tại Trung Quốc, 1.500 năm trước công nguyên, người ta đã sử dụng cỏ, thân lá cây đậu và sau đó là phân chuồng để bón ruộng. Đến tận thế kỷ 18 loài người vẫn cho rằng cây hút thức ăn từ mùn trong đất vì vậy chỉ cần bón phân hữu cơ cho cây. Ở Châu Âu, ngay đầu thế kỷ thứ nhất đã có nhiều nghiên cứu về phân bón. Một số học giả đã đưa ra các thuyết khác nhau về “nguồn thức ăn”cho cây, trong đó có thạch cao, muối, nước, đất, mùn, không khí,… Đến năm 1840, nhà bác học người Đức - Liebig đã xuất bản cuốn sách nổi tiếng “Hóa học áp dụng trong ngành canh tác và sinh lý”, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Học thuyết của Liebig bác bỏ thuyết mùn mà khẳng định vai trò của muối khoáng trong dinh dưỡng thực vật, đồng thời đề ra lý thuyết cần thiết phải bón trả lại tất cả những chất khoáng mà cây trồng đã lấy đi mới đảm cho thu hoạch mùa màng. Việc khẳng định phân hữu cơ không cung cấp trực tiếp dinh dưỡng cho cây mà phải gián tiếp qua các chất khoáng - sản phẩm của quá trình phân giải chất hữu cơ đã tạo ra tiền đề vững chắc cho các công trình nghiên cứu sau này, làm bùng nổ nền công nghiệp phân bón hóa học trên toàn thế giới [28]. Theo FAO, nhu cầu sử dụng phân hóa học tăng lên với tốc độ vũ bão. Năm 1905, cả thế giới mới sử dụng 1,4 triệu tấn NPK thì đến các năm 1990 lượng phân hóa học đã sử dụng tới 138 triệu tấn, năm 2000 là 144 triệu tấn, năm 2005 là 150 triệu tấn và hiện nay nhu cầu sử dụng phân hóa học của thế giới lên tới 200 triệu tấn. Phải thừa nhận rằng nhu cầu sử dụng phân hóa học tăng nhanh là xu thế tất yếu để bảo đảm lương thực thực phẩm cho sự bùng nổ dân số trên hành tinh. Tuy nhiên, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 việc lạm dụng phân hóa học đã bộc lộ mặt trái của nó là gây ô nhiễm môi trường, làm suy thoái độ phì nhiêu đất, gia tăng tồn dư chất độc lên nông sản thực phẩm. Thực trạng này đã xảy ra phổ biến ở phạm vi toàn cầu và trở thành nghiêm trọng ở các nước đang phát triển. Sản xuất nông nghiệp Việt Nam đóng góp 24% GDP, 30% sản lượng xuất khẩu, tạo việc làm cho 60% lao động cả nước song rõ ràng sản xuất nông nghiệp lâu nay vẫn chưa chú trọng đúng mức việc bảo vệ môi trường. Sản xuất nông nghiệp sạch, nâng cao chất lượng nông sản nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và thân thiện với môi trường đang là mục tiêu phấn đấu của ngành nông nghiệp nói chung và nông dân nói riêng. Một trong những biện pháp hữu hiệu để sản xuất nông nghiệp sạch là ứng dụng rộng rãi các chế phẩm sinh học, sử dụng phân hữu cơ vi sinh nhằm thay thế các hoá chất bảo vệ thực vật và các loại phân hoá học có tác động xấu đến môi trường. Trong khi đó, nguồn phế phụ phẩm trong nông nghiệp thải ra trong quá trình sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản của Việt Nam ước tính trên 50 triệu tấn mỗi năm. Nguồn phế thải trong chăn nuôi gia súc gia cầm lên đến hàng ngàn tấn. Lượng phế thải này phần lớn là những hợp chất hữu cơ giàu carbon và các nguyên tố khoáng đa vi lượng. Đây là nguồn nguyên liệu có giá trị lý tưởng cho sản xuất các dạng chế phẩm sinh học cũng như phân hữu cơ sinh học chất lượng cao phục vụ sản xuất nông nghiệp [36]. Các nguồn nguyên liệu hữu cơ có thể sử dụng sản xuất phân bón cho cây trồng như: Phân chuồng, phân xanh, than bùn, phân tro, phân dơi, phế phụ phẩm nông nghiệp, rác thải sinh hoạt hữu cơ, bùn thải, các sản phẩm thải của ngành công nghệ chế biến nông lâm thủy sản.... Theo Phạm Tiến Hoàng và cộng sự (1999) [28], trong điều kiện nhiệt đới ẩm nước ta tốc độ khoáng hoá hữu cơ trong đất rất cao. Nếu không có biện pháp bổ sung chất hữu cơ cho đất thì độ phì nhiêu đất sẽ sụt giảm rất nhanh. Phân hữu cơ không chỉ trực tiếp cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng mà còn có tác dụng quyết định cải thiện các tính chất lý, hoá, sinh của đất, có tác dụng điều hoà dinh dưỡng trong cơ chế tăng hấp thụ của đất bằng việc tăng chất và lượng các hợp chất hữu cơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 khoáng trong đất, tạo cho đất có khả năng giữ chất dinh dưỡng, hạn chế sự mất dinh dưỡng do rửa trôi và bốc hơi. Chức năng điều hoà dinh dưỡng còn được biểu hiện ở khả năng chuyển hoá các hợp chất khó tan thành dễ tan cung cấp thêm dinh dưỡng cho cây trồng mà rõ nhất là chuyển hoá lân khó tiêu thành dễ tiêu (Lê Văn Tiềm, 1996 [29]). Bên cạnh đó, vai trò của quan trọng đặc biệt của chất hữu cơ đối với độ phì nhiêu của đất đã được thừa nhận một cách rộng rãi. Chất hữu cơ góp phần cải thiện đặc tính vật lý, hoá học cũng như sinh học đất và cung cấp nhiều dưỡng chất quan trọng cho cây trồng (Alesandrova, 1949; Whalen & Chang, 2002; Sheppherd & et al, 2002). Việc cung cấp các nguyên tố vi lượng, các dưỡng chất từ phân hữu cơ có ý nghĩa trong việc gia tăng phẩm chất nông sản, làm trái cây ngon ngọt và ít sâu bệnh hơn. Bón phân hữu cơ là nguồn thực phẩm cần thiết cho hoạt động của vi sinh vật đất: Các quá trình chuyển hoá, tuần hoàn dinh dưỡng trong đất, sự cố định đạm, sự nitrat hoá, sự phân huỷ tồn dư thuốc bảo vệ thực vật cũng như ức chế sự hoạt động của các loài vi sinh vật gây bất lợi cho cây trồng. Trước các mục tiêu vừa phải bảo đảm an ninh lương thực, vừa phải duy trì và cải thiện độ phì nhiêu quỹ đất canh tác có hạn đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng nông sản, tăng hiệu quả kinh tế và an toàn bền vững về môi trường, nền nông nghiệp thế giới đã mở ra theo hướng kết hợp nông nghiệp thâm canh cao với nông nghiệp hữu cơ mà hạt nhân là ứng dụng công nghệ sinh học. Vì vậy, ngay sau thành công của “cuộc cách mạng về công nghiệp phân hóa học” thì cuộc “cách mạng về công nghệ sinh học” đang phát triển với gia tốc lớn trên quy mô toàn cầu. 2.3.2. Vi sinh vật, vai trò của vi sinh vật trong sản xuất nông nghiệp, một số loại chế phẩm vi sinh vật và tình hình sử dụng chế phẩm VSV sản xuất phân bón hữu cơ tại Việt Nam 2.3.2.1. Vi sinh vật Vi sinh vật (VSV) được phát hiện từ thế kỷ 17 bởi các nhà khoa học châu Âu. Đến thế kỷ 19, khởi đầu bằng b ằng chế phẩm vi sinh cố định nitơ phân tử, ngành công nghệ vi sinh ngày càng phát tri ển mạnh mẽ. Từ 1964, hàng loạt chế phẩm vi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 sinh vật được nghiên cứu sản xuất: các chế phẩm VSV cố định đạm, chế phẩm VSV phân giải cellulose , chế phẩm VSV phân giả i lân, chế phẩm VSV đa chức năng và nhiều loại chế phẩm VSV xử lý môi trường đất , bảo vệ thực vật được ứng dụng rộng rãi [28]. Vi sinh vật có thể sống được ở khắp nơi , nhưng tập trung nhiều nhất ở trong đất. Hệ vi sinh vậ t đất rất phong phú về chủng loại cũng như số lượng , bao gồm 4 nhóm chính là vi khuẩn , xạ khuẩn, nấm, vi khuẩn lam và tảo . Đặc điểm chung của VSV là kí ch thước rất nhỏ , khả năng hấp thụ và chuyển hóa vật chất mạnh , tốc độ sinh sản rất nhanh. Trong 1 gam đất trồng trọt có tới 104-107 VSV khác nhau, trong đó tỷ lệ VSV có ích chiếm đại đa số. Hầu như mọi hoạt động tuần hoàn vật chất trong đất đều có sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của VSV hình thành nên độ phì nhiêu đất, tăng năng suất và chất lượng nông sản: cố định nitơ phân tử, chuyển hóa cacbon, phân giải xenlulo, phân giải lân, kali, lưu huỳnh, chuyển hóa sắt, nhôm, mangan,… Ngoài ra, các hoạt động VSV trong đất còn sản sinh ra hàng lo ạt các sản phẩm sinh học có giá trị như vitamin, chất kích thích sinh trưởng, enzyme, chất kháng sinh có tác dụng làm tăng khả năng sinh trưởng phát triển của thực vật và tham gia phòng chống sâu bệnh hại. Theo TS. Phạm Văn Toản [11]: Cùng với chất hữu cơ, vi sinh vật (VSV) sống trong đất, nước và vùng rễ cây có ý nghĩa quan trọng trong các mối quan hệ giữa cây trồng, đất và phân bón. Hầu như mọi quá trình xảy ra trong đất đều có sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của VSV (mùn hoá, khoáng hoá chất hữu cơ, phân giải, giải phóng chất dinh dưỡng vô cơ từ hợp chất khó tan hoặc tổng hợp chất dinh dưỡng từ môi trường.v.v.). Vì vậy từ lâu vi sinh vật đã được coi là một bộ phận của hệ thống dinh dưỡng cây trồng tổng hợp. Hiện nay công nghệ vi sinh đã phát triển thành một ngành độc lập, tạo ra các sản phẩm có giá trị phục vụ đắc lực cho sản xuất và đời sống. Các quá trình sinh tổng hợp xảy ra ở VSV được con người can thiệp và điều khiển theo hướng tích cực . Trong lĩ nh vực sản xuất phân bón, công nghệ vi sinh đã tạo ra các chế phẩm vi sinh, phân vi sinh vật, phân hữu cơ sinh học, phân hữu cơ vi sinh ở quy mô công nghiệ.p Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 2.3.2.2. Vai trò của chế phẩm sinh học (VSV) trong sản xuất nông nghiệp Vai trò của chế phẩm sinh học, trong đó có vi sinh vật trong sản xuất nông nghiệp được thừa nhận có các ưu điểm sau đây: - Không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng. Không gây ô nhiễm môi trường sinh thái. - Có tác dụng cân bằng hệ sinh thái (vi sinh vật, dinh dưỡng …) trong môi trường đất nói riêng và môi trường nói chung. - Ứng dụng các chế phẩm sinh học không làm hại kết cấu đất, không làm chai đất, thoái hóa đất mà còn góp phần tăng độ phì nhiêu của đất. - Có tác dụng đồng hóa các chất dinh dưỡng, góp phần tăng năng suất và chất lượng nông sản phẩm. - Có tác dụng tiêu diệt côn trùng gây hại, giảm thiểu bệnh hại, tăng khả năng đề kháng bệnh của cây trồng mà không làm ảnh hưởng đến môi trường như các loại thuốc BVTV có nguồn gốc hóa học khác. - Có khả năng phân hủy, chuyển hóa các chất hữu cơ bền vững, các phế thải sinh học, phế thải nông nghiệp, công nghiệp, góp phần làm sạch môi trường. Qua đó cho thấy chế phẩm vi sinh vật nói có vai trò to lớn đối với cây trồng nói riêng và nông nghiệp nói chung, việc sử dụng các chế phẩm vi sinh vật sẽ là cơ sở, tiền để để xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ bền vững. 2.3.2.3. Một số loại chế phẩm vi sinh vật và ứng dụng chế phẩm VSV trong sản xuất phân bón tại Việt Nam 2.3.2.3.1. Một số loại chế phẩm vi sinh vật Hiện nay nhiều chế phẩm vi sinh làm phân bón được sản xuất theo nhiều hướng khác nhau, nhiều dạng khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế , công nghệ. Thành phần vi sinh vật trong các chế phẩm làm phân hữu cơ ở mỗi cơ sở sản xuất khác nhau. Có hai dạng chế phẩm chủ yếu là chế phẩm nấm (ít phổ biến hơn do khó bảo quản và dễ bị nhiễm tạp) và các chế phẩm vi khuẩn rất phổ biến trên thị trường. Hiện nay các chế phẩm vi khuẩn được sản xuất theo nhiều dạng với những ưu nhược điểm khác nhau : dạng trên môi trường thạch , dạng dịch thể , dạng khô , dạng đông khô , Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 nhưng phổ biến nhất hiện nay trên thế giới là dạng bột chất mang. VSV được tẩm vào chất mang , cư ngụ và được bảo vệ chức năng chuyên tí nh cho đến khi sử dụng . Nguồn chất mang có thể dùng là than bùn , bã mía, bột xenlulo hoặc rác thải hữu cơ nghiền. Việt Nam đang sử dụng các chất mang phổ biến là than bùn , mùn mía, cám trấu,… có thể kể đến một số chế phẩm vi sinh hiện đang được cung ứng, sử dụng rộng rãi tại Việt Nam như: Chế phẩm Emuniv (Công ty cổ phần ứng dụng vi sinh Hà Nội); Chế phẩm Compost marker (Viện nông hóa thổ nhưỡng); Chế phẩm EMIC (Công ty cổ phần công nghệ vi sinh và môi trường); Chế phẩm EM, Bio – Ems (Công ty TNHH Vi sinh môi trường TP HCM) và rất nhiều chủng loại chế phẩm vi sinh khác có nhiều chủng loại vi sinh vật có khả năng phân giải cellulose, cố định đạm, phân giải lân... phân hủy các chất hữu cơ tạo nguồn phân bón hữu ích cho cây trồng, cải tạo lý tính, sinh tính đất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường... Bên cạnh đó, nhiều viện nghiên cứu về nông nghiệp trong nước như Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Vi ệt Nam, Viện Sinh học Nhiệt đới,… đã phân lập , tuyển chọn, nhân nuôi trong môi trường thanh trùng các chế phẩm VSV cố đị nh đạm , phân giải lân , phân giải xenlulo có mật đ ộ VSV rất cao, hoạt lực mạnh cung cấp cho sản xuất và chế biến phân hữu cơ đạt kết quả tố t. Ngoài ra, trên thị trường còn có rất nhiều đơn vị cung ứng các chế phẩm vi sinh vật được nhập khẩu từ nước ngoài có khả năng ứng dụng tốt trong lĩnh vực xử lý chất thải hữu cơ, sản xuất phân bón hữu cơ cho cây trồng hoặc xử dụng trực tiếp trên cây trồng để chống nấm, bệnh, tăng khả năng sinh trưởng.... 2.3.2.3.2. Ứng dụng chế phẩm vi sinh vật để sản xuất phân bón hữu cơ tại Việt Nam Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội , trong nhiều thập kỷ qua , các nhà khoa học đã không ngừng ngh iên cứu, sản xuất ra nhiều loại phân bón hóa học góp phần kích thích sinh trưởng , tăng năng suất cây trồng , tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa , đẩy nhanh quá trì nh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Song sự phá t triển như vũ bão của công nghệ hóa học đồng nghĩ a với nó là mối đe dọa lớn đối với môi trường toàn cầu , đặc biệt là vấn đề ô nhiễm sản xuất đất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 nông nghiệp , Việt Nam cũng không tránh khỏi điều đó . Theo ước tí nh của Bộ NN&PTNT, chỉ tính riêng vụ hè thu năm 2008, cả nước tiêu thụ trên 400.000 tấn ure và 200.000 tấn phân bón các loại [21], cho thấy, mức độ sử dụng phân bón hóa học trong sản xuất nông nghiệp của người dân là rất lớn mà gần như quên đi vai trò của phân bón hữu cơ , là nguồn phân bón sẵn có trong tự nhiên , có nhiều chủng vi sinh vật có tác dụng cải tạo đất , cung cấp đầy đủ các yếu tố dinh dưỡng đa lượng , trung lượng, vi lượng và tăng khả năng ph òng chống sâu, bệnh cho cây trồng, tạo ra những sản phẩm nông nghiệp sạch, có lợi cho sức khỏe con người [20]. Phân bón hữu cơ có chứa các chủng vi sinh vật sống đã qua tuyển chọn, có hoạt tính sinh học cao, góp phần tạo nên độ phì nhiêu của đất, cung cấp chất dinh dưỡng dưới dạng dễ tiêu( P, N, K...) và các hợp chất sinh học khác để tăng năng suất cây trồng, chất lượng sản phẩm thông qua hoạt động sống của chúng.(Nguyễn Ngọc Nông và cs, 2006) [16] Nhận thức được vấn đề đó, trong nhiều năm qua, các nhà khoa học của nước ta đã tập trung nghiên cứu, tạo ra nhiều quy trình sản xuất phân bón hữu cơ nhằm định hướng cho người dân khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn hữu có tại đị a phương (than bùn , rác thải , phế phụ phẩm nông nghiệp… ), kết hợp với các chế phẩm vi sinh, tạo ra nguồn phân bón có lợi cho cây trồng và cải thiện môi trường đất. Các Trung tâm Sinh học Thực nghiệm tại nhiều tỉnh đã tiến hành nghiên cứu xử lý phế thải thực vật trên đồng ruộng sử dụng chế phẩm vi sinh vật phân hủy chất hữu cơ thành phân bón tại chỗ cho cây trồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chất lượng và hiệu quả tác động của phân bón hữu cơ có bổ sung chế phẩm vi sinh vật khi đem so sánh với loại phân hữu cơ không bổ sung vi sinh vật và các loại phân khác cho thấy: phân hữu cơ được tái chế từ phế thải thực vật trên đồng ruộng không “thua kém” so với phân hữu cơ từ chất độn chuồng gia súc và các loại phân hữu cơ được chế biến từ các nguồn hữu cơ khác. Hiệu quả kinh tế của quy trình ủ phế thải thực vật khá cao, mặt khác còn giải quyết được cơ bản lượng phân chuồng thiếu hụt, đồng thời tiết kiệm được chi phí đầu tư phân bón. Loại phân hữu cơ này có độ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất