Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dạy học văn tế nghĩa sĩ cần giuộc của nguyễn đình chiểu ở sách giáo khoa ngữ văn...

Tài liệu Dạy học văn tế nghĩa sĩ cần giuộc của nguyễn đình chiểu ở sách giáo khoa ngữ văn 11 theo đặc trưng thể loại

.PDF
124
675
149

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------ ------- VŨ THỊ THU HÀ DẠY HỌC “VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC ” CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU Ở SGK NGỮ VĂN 11 THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC THÁI NGUYÊN - 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------ ------- VŨ THỊ THU HÀ DẠY HỌC “VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC ” CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU Ở SGK NGỮ VĂN 11 THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học Văn - Tiếng việt Mã số: 60.14.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HUY QUÁT THÁI NGUYÊN - 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Huy Quát - Người thầy đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học trường ĐHSP Thái Nguyên đã nhiệt tình giúp đỡ và động viên em trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường. Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn BGH các trường THPT Mai Sơn, THPT Hoàng Văn Thụ của tỉnh Yên Bái, những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian qua. Thái Nguyên , ngày 10 tháng 8 năm 2011 Tác giả Vũ Thị Thu Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Vũ Thị Thu Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục ............................................................................................................... i Danh mục ký hiệu, các chữ viết tắt ...................................................................................... iii A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 1 B. PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................... 9 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .............. 9 1.1 Cơ sở lí luận......................................................................................... 9 1.1.1 Thể loại văn tế trong hệ thống thể loại văn học Trung đại Việt Nam ...... 9 1.1.2 Đặc trưng của văn tế về mặt nội dung ............................................ 15 1.1.3. Đặc trưng của văn tế về mặt hình thức .......................................... 21 1.2. Cơ sở thực tiễn.................................................................................. 29 1.2.1. Giáo viên với việc dạy bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” .............. 29 1.2.2. Học sinh với việc học bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ............... 47 CHƢƠNG 2. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC BÀI “VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC” THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI ..................................................................................... 53 2.1. Những vấn đề liên quan đến nội dung và nghệ thuật bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu. ................................................................................. 53 2.1.1 Bối cảnh thời đại ............................................................................ 53 2.1.2. Về tác gia Nguyễn Đình Chiểu ..................................................... 56 2.2. Xác định nội dung dạy học “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” từ đặc trưng thể loại của tác phẩm ............................................................................. 59 2.2.1 Giá trị nội dung............................................................................... 59 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2.2.2 Giá trị nghệ thuật ............................................................................ 65 2.3. Đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” theo đặc trưng thể loại. .................................................. 68 2.3.1. Khái niệm “hiệu quả” trong dạy học TPVC .................................. 68 2.3.2. Đề xuất các biện pháp dạy học cụ thể ........................................... 70 CHƢƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ................................................ 90 3.1 Thiết kế bài dạy: ................................................................................ 90 3.2. Tổ chức dạy thực nghiệm ............................................................... 103 3.2.1. Chọn lớp thực nghiệm và thời gian thực nghiệm ........................ 103 3.2.2. Tổ chức dạy học thực nghiệm và dạy học đối chứng.................. 103 3.2.3. Kết quả thực nghiệm (qua việc kiểm tra, đánh giá bài làm của HS và những ý kiến nhận xét của GV tham gia thực nghiệm sư phạm): ..... 104 C. PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................. 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 110 PHỤ LỤC Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn DANH MỤC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT THPT : Trung học phổ thông TPVC : Tác phẩm văn chương Nxb : Nhà xuất bản GS : Giáo sư GV : Giáo viên HS : Học sinh SGK : Sách giáo khoa PT : phổ thông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Về phương diện lí luận Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng loại thể đã được đặt ra từ những năm 70 của thế kỉ XX, được nhiều nhà nghiên cứu về phương pháp dạy học văn và GV văn học coi là một hướng tiếp cận có căn cứ để đạt hiệu quả trong dạy học văn. Nếu không nắm vững được đặc trưng thi pháp của các thể loại văn học và lấy nó làm điểm tựa soi sáng cho việc tiếp cận các tác phẩm thì khó đạt được hiệu quả trong dạy học TPVC. GS.Phan Trọng Luận đã chỉ ra một thực tế là “Do chưa phân biệt đầy đủ đặc trưng thi pháp của loại thể nên việc cắt nghĩa tác phẩm văn chương ở nhà trường đã có những hạn chế kéo dài nhiều năm qua chưa được khắc phục. Truyện cổ tích bị biến thành một truyện ngắn hiện đại, ca dao chuyển thành văn bản thơ ngày nay. Tác phẩm văn chương trung đại và hiện đại đồng nhất về thi pháp... Có không ít giờ giảng thơ mà giáo viên lại đi quá sâu vào nhân vật, cốt truyện; giảng tự sự lại coi nhẹ, bỏ quên cốt truyện, nhân vật, lời kể. Đó là kiểu giải thích dung tục về sáng tạo nghệ thuật, …”[20]. Thi pháp của một số thể loại văn học, đặc biệt là các thể loại văn học trung đại như: hát nói, phú, văn tế, cáo, chiếu,…còn gây nhiều khó khăn, lúng túng trong giảng dạy và học tập; mặc dù những năm gần đây, việc hình thành và rèn luyện năng lực đọc hiểu tác phẩm theo đúng đặc trưng thể loại đã được chú ý. Song đi vào tìm hiểu các tác phẩm cụ thể lại đòi hỏi có sự vận dụng sáng tạo để đạt hiệu quả mong muốn. Riêng thể loại văn tế thì việc tiếp cận nó theo đặc trưng thể loại như thế nào vẫn chưa được bàn đến đầy đủ về mặt lý thuyết. Do vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Dạy học “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”của Nguyễn Đình Chiểu ở Sách giáo khoa Ngữ văn 11 theo đặc trƣng thể loại” với mong muốn đóng góp một tiếng nói nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả dạy học bài văn này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 1.2. Về phương diện thực tiễn. Văn tế là một thể văn cổ, giàu sắc thái trữ tình và tính nhân văn sâu sắc. Nhiều bài văn tế thể hiện các cung bậc tình cảm sâu sắc của những tâm hồn lớn, gây xúc động mãnh liệt trong lòng người đọc và trở thành những tác phẩm văn học có giá trị như: Văn tế thập loại chúng sinh (Nguyễn Du), Văn tế chị (Nguyễn Hữu Chỉnh), Văn tế Trương Quỳnh Như (Phạm Thái), Văn tế Phan Châu Trinh (Phan Bội Châu),…Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu là một tác phẩm văn học độc đáo, tiêu biểu cho thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã khẳng định tác phẩm này là “Một trong những bài văn hay nhất của văn học Việt Nam”. Phạm Văn Đồng trong bài “Nguyễn Đình Chiểu- Ngôi sao sáng trong nền văn nghệ dân tộc” từng đặt bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ngang hàng với “Đại cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi, bởi một bên là bài ca về người anh hùng chiến thắng, một bên là bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang. Với nội dung trữ tình, ý nghĩa thời đại và sắc thái nhân văn, tác phẩm này đã được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 11 nhiều năm nay. Việc giảng dạy và học tập bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế nhất định đối với GV và HS, nhất là đối với HS dân tộc, miền núi. Bởi đây là một văn bản dài và khó, được kết cấu theo kiểu biền văn, với thể phú luật Đường có nhiều từ Hán Việt và điển cố văn học. Mặc dù SGK đã chú thích khá đầy đủ nhưng vẫn có những câu văn khó hiểu đối với cả người dạy và người học. Về phía GV, nhiều người lúng túng về việc tiếp cận sao cho đúng đắn nhất bài văn tế tiêu biểu này và chưa biết cách khai thác các yếu tố thi pháp thể loại của tác phẩm. Từ đó, dẫn đến việc giảng dạy chưa hay, chưa đạt hiệu quả, khiến phần lớn HS không có hứng thú tiếp nhận tác phẩm. Về phía HS, đa số các em không thích học văn, lại càng không thích một tác phẩm cổ có nhiều từ ngữ khó hiểu, nhiều điển tích, điển Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 cố. Đã từng xuất hiện “bài văn lạ” nói về bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là “cứng nhắc, khó hiểu”, khó có thể làm rung động học sinh vì “em đọc xong mà không hề có một chút xúc động hay thương xót” (Nguyễn Phi ThanhTHPT Việt Đức- Hà Nội, năm học 2005- 2006). Thực trạng ấy càng thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài này. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu thể loại văn tế Cuốn sách đầu tiên viết về văn tế phải kể đến “Văn tế cổ và kim” ( 1960). Đây là một cuốn sách có giá trị, nhưng rất tiếc là trong quá trình thu thập tài liệu, chúng tôi không có được văn bản gốc. Các công trình nghiên cứu như:“Việt Nam văn học sử yếu”(Dương Quảng Hàm), “Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX ( Nguyễn Lộc), “Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam” (Trần Đình Sử ) tuy mới chỉ nghiên cứu ở mức độ khái quát nhưng đã đưa ra những nhận xét, đánh giá có tính định hướng quan trọng trong việc tìm hiểu một cách toàn diện và hệ thống thể loại văn tế. Đặc biệt, Dương Quảng Hàm trong cuốn “Việt Nam văn học sử yếu” đã tìm hiểu hình thức của thể loại văn tế ở cách đặt câu, gieo vần, bố cục, xác định yêu cầu về nội dung và hình thức nghệ thuật của văn tế. Cuốn “Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam” của Trần Đình Sử cũng tìm hiểu hình thức thể loại của văn tế ở các mặt như: bố cục, ngôn ngữ nhưng chưa đi sâu vào những chi tiết, cụ thể tiêu biểu. Đây là những tài liệu tham khảo vô cùng quý giá đối với đề tài của chúng tôi. 2.2. Vấn đề giảng dạy TPVC theo loại thể đã có một số công trình Từ những năm 70 của thế kỉ XX, vấn đề dạy học TPVC theo thể loại đã được bàn đến trong cuốn “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể” do Trần Thanh Đạm, Huỳnh lý, Hoàng Như Mai, Phan Sĩ Tấn, Đàm Gia Cẩn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 biên soạn, NXB GD, 1971. Công trình đề cập đến một số đặc trưng loại thể, thể loại và phương pháp giảng dạy các thể loại thơ, truyện, văn nghị luận, kí, kịch và những thể biền văn như: phú, cáo, văn tế,…Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về vấn đề dạy học TPVC theo loại thể, có đóng góp quan trọng đối với bộ môn phương pháp dạy học văn nói chung và phương pháp dạy học TPVC theo đặc trưng thể loại nói riêng. Cuốn sách đã trở thành tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học TPVC sau này, là nguồn tư liệu quan trọng cho GV dạy văn ở nhà trường phổ thông. Cuốn “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể)” của tác giả Nguyễn Viết Chữ, NXB ĐHSP, 2004 đã có những đóng góp nhất định về mặt lí luận dạy học TPVC theo đặc trưng thể loại. Tác giả đề cập những vấn đề chung liên quan đến phương pháp dạy học TPVC, đi sâu nghiên cứu phương pháp và biện pháp dạy học TPVC theo loại thể. Cuốn sách đã hệ thống lại cách nhìn môn văn, các phương pháp, biện pháp dạy học văn. Bên cạnh đó, còn rất nhiều bài viết về vấn đề giảng dạy TPVC theo loại thể được đăng trên các báo: Giáo dục thời đại, Nghiên cứu văn học, Tạp chí văn học,…Bài viết của tác giả Phạm Thị Thu Hương có nhan đề “Thi pháp học thể loại và việc đổi mới dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông” đã khẳng định :“Vận dụng thi pháp như một “chìa khóa” mở cánh cửa văn chương, đặc biệt là văn học trong nhà trường”[13]. Như vậy, vấn đề giảng dạy TPVC theo loại thể và thể loại ngày càng có sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều tác giả. Những tài liệu trên là cơ sở quan trọng để chúng tôi triển khai đề tài nghiên cứu này 2.3. Về dạy học thể loại văn tế và bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, cũng có các công trình sau đây bàn đến - SGV ngữ văn 11, tập I (bộ chuẩn) do GS Phan Trọng Luận tổng chủ biên[19] trong đó có bài đề cập đến việc dạy học bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, đồng thời hướng dẫn GV cách thức tổ chức HS chiếm lĩnh văn bản tác phẩm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 - SGV ngữ văn 11 , tập I (bộ nâng cao) do GS Trần Đình Sử tổng chủ biên [30] cũng có phần hướng dẫn GV tổ chức HS chiếm lĩnh văn bản “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu. - Thiết kế dạy học ngữ văn lớp 11 ( Nâng cao ) của tác giả Hoàng Hữu Bội [2] có viết khá chi tiết về dạy học bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” theo đặc trưng thể loại. - Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Mai Hương [12] với đề tài “Con đường hướng dẫn học sinh khám phá, chiếm lĩnh chiều sâu nghệ thuật của tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”(Nguyễn Đình Chiểu) để nâng cao hiệu quả dạy và học” đã đưa ra một số phương pháp, biện pháp giúp HS chiếm lĩnh chiều sâu nghệ thuật của tác phẩm như: phương pháp đọc, phương pháp đặt câu hỏi, phương pháp giảng bình, phương pháp so sánh,… Ngoài ra, còn có: - Thiết kế bài giảng ngữ văn 11 do Nguyễn Văn Đường chủ biên [5] - Kỹ năng đọc hiểu văn bản ngữ văn 11 do Nguyễn Kim Phong chủ biên [25] - Giới thiệu giáo án Ngữ Văn 11 tập I do Nguyễn Hải Châu chủ biên [3] - Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học 11 (nâng cao) do GS Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên [24 ] - Phân tích tác phẩm ngữ văn 11 do Trần Nho Thìn chủ biên [33] Các cuốn sách nêu trên đã có những đóng góp đáng kể về mặt lí thuyết và cách thức tiến hành dạy học bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ở SGK Ngữ Văn 11 theo đặc trưng thể loại. Đó cũng là những căn cứ khoa học để chúng tôi tham khảo khi tiến hành luận văn này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là : - Tìm ra con đường tiếp cận văn bản “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” theo đặc trưng thể loại. - Đề xuất những phương pháp, biện pháp tiến hành giờ học bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” theo đặc trưng thể loại, nhằm đạt hiệu quả mong muốn, phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học ở THPT hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Là hoạt động dạy –học của GV và HS trong giờ đọc- hiểu bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu (đặc biệt là hoạt động tiếp nhận của HS đối với văn bản tác phẩm và hoạt động tổ chức, hướng dẫn HS chiếm lĩnh tác phẩm đó của GV). 4.2 Phạm vi nghiên cứu Tình hình tổ chức dạy và học văn bản “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu (SGK Ngữ văn 11) ở một số trường THPT trên địa bàn huyện Lục Yên - tỉnh Yên Bái. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có những nhiệm vụ chính như sau : - Tìm hiểu bản chất và đặc điểm của thể loại văn tế. - Khảo sát thực tế về dạy học bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ở trường THPT - Đề xuất cách tiếp cận văn bản “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” theo đặc trưng thể loại và tổ chức hướng dẫn HS tìm hiểu bài văn tế theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học. - Tổ chức thực nghiệm sư phạm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành luận văn, chúng tôi áp dụng các phương pháp sau: 6.1 Phương pháp nghiên cứu lí luận Dùng phương pháp tổng hợp những vấn đề lí luận để làm cơ sở lí thuyết cho đề tài. 6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp thống kê : Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lí số liệu thu thập được trong quá trình điều tra khảo sát và quá trình thực nghiệm. - Phương pháp điều tra khảo sát: Khảo sát thực trạng dạy học bằng phiếu điều tra thăm dò ý kiến, phỏng vấn GV và HS, nghiên cứu giáo án của một số GV để có căn cứ thực tế cho đề tài nghiên cứu. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thiết kế giáo án và tiến hành thực nghiệm sư phạm, thực nghiệm đối chứng để đánh giá kết quả của những phương pháp, biện pháp dạy học do tác giả luận văn đề xuất. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài 1.1 Cơ sở lí luận 1.1.1.Thể loại văn tế trong hệ thống thể loại văn học Trung đại Việt Nam 1.1.2 Đặc trưng của văn tế về mặt nội dung 1.1.3 Đặc trưng của văn tế về mặt hình thức 1.2 Cơ sở thực tiễn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 1.2.1 GV với việc dạy bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” 1.2.2 HS với việc học bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” Chƣơng 2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” theo đặc trƣng thể loại 2.1 Những vấn đề liên quan đến nội dung và nghệ thuật bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu 2.1.1 Bối cảnh thời đại 2.1.2 Tác giả Nguyễn Đình Chiểu 2.2 Xác định nội dung dạy học “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” từ đặc trưng thể loại của tác phẩm 2.2.1 Giá trị nội dung 2.2.2 Giá trị nghệ thuật 2.3 Đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy và học bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” theo đặc trưng thể loại Chƣơng 3 : Thực nghiệm sƣ phạm 3.1 Thiết kế bài dạy 3.2 Tổ chức dạy thực nghiệm 3.2.1 Chọn lớp thực nghiệm và thời gian thực nghiệm 3.2.2 Tổ chức dạy học thực nghiệm và dạy học đối chứng 3.2.3 Kết quả thực nghiệm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 B. PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1 Cơ sở lí luận 1.1.1 Thể loại văn tế trong hệ thống thể loại văn học Trung đại Việt Nam * Nguồn gốc: Văn tế là một thể loại cơ bản trong văn học Việt Nam thời kì trung đại. Văn tế vốn có nguồn gốc lâu đời ở Trung Quốc, nhưng nó không phát triển thành một thể văn quan trọng trong văn học Trung Quốc. Chỉ đến khi sang Việt Nam, nó đã phát triển thành một thể tài đặc sắc với nhiều bài văn tế có giá trị cao của các tác giả có tên tuổi. Ở Trung Quốc từng có sự phân biệt Điếu văn, Tế văn, Ai từ, Lỗi. Trước hết, Lỗi là bài văn chuyên kể công đức người chết, qua đó bày tỏ lòng xót thương đối với họ. Trịnh Huyền chú thích: “Lỗi nguyên là lũy, chồng chất các hành vi, mỹ đức của người chết lúc còn sống, đọc để làm thụy, nhưng chỉ có lời mà không có thụy (tức danh hiệu sau khi chết)…Lũy là thể văn người trên thương xót người dưới. Người tiện không được lũy người quý, người ấu không được lũy người trưởng. Đó là những quy định nghiêm ngặt, khắt khe” [31] Ai từ là loại văn ai điếu người chết. Đời Hán ở Trung Quốc có “ Lương Thị ai từ” của Ban Cố. Sau này, Hàn Dũ có “ Âu Dương sinh ai từ”. Điếu văn là văn viếng người đã chết, gọi là “điếu từ”, “điếu thư”, nếu làm theo thể thơ thì gọi là “điếu thi”. Điếu là “vấn chung”, tức là thăm hỏi người chết. Điếu là đến, khách đến an ủi chủ (là người đã mất). Theo Ngô Gia Nghị, điếu còn có ý tự gửi lời xót thương cho nên nặng về hoài cổ. “Điếu Khuất Nguyên” của Giả Nghị là bài điếu đầu tiên còn giữ lại được. Thể văn tế dùng để “tế trời đất, núi sông, còn gọi là kỳ văn hay chúc văn. Theo Ngô Tăng Kỳ đời Thanh, có văn tế sông núi của Vũ Thành Vân; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 văn tế cá sấu của Hàn Dũ. Về sau, văn tế là bài văn dùng để tế người chết. Từ Sư Tăng đời Minh cho rằng: văn tế là lời văn để tế thân hữu. Thời xưa, khi tế người chết chỉ mời về hưởng cỗ lộc, sau mới có thêm lời ca tụng đức hạnh để ngụ ý tiếc thương”[31]. Ở Việt Nam, khác với các thể loại cũng du nhập từ Trung Quốc như: thơ, phú, hịch,…thì văn tế ngay từ buổi đầu đã mang đậm bản sắc riêng so với thể loại văn tế ở cái nôi sinh thành. Nếu ở Trung Quốc, văn tế có sự phân chia khá phức tạp, chồng chéo thì ở Việt Nam, nó kiêm luôn cả Lỗi, Điếu văn, Ai từ. Nó không bắt buộc phải tuân theo khuôn phép, lễ nghi nào mà thực sự dân chủ, là phương tiện hữu hiệu bày tỏ niềm tiếc thương với người đã mất không hề phân biệt trên dưới, xa gần, thân sơ. Như vậy, các bài văn tế chính là một phần không thể thiếu được của các buổi tế lễ được tổ chức. Tế vốn là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian khá phổ biến trong xã hội phong kiến. Buổi tế thường được tổ chức ở ngoài trời, dựng đàn cao, khói hương nghi ngút, thu hút rất đông người tham dự với không khí vô cùng trang nghiêm, kính cẩn. Lễ tế có thể được tổ chức định kì theo tập tục truyền thống để tế sông núi, tế đất trời, tế thần linh, thành hoàng,…là dịp để người trần thế bày tỏ tấm lòng thành kính tới các đấng siêu nhiên. Ngoài ra, lễ tế còn được tổ chức để tế những người đã mất với tấm lòng thành kính và thương tiếc vô hạn. Gạt bỏ yếu tố mê tín thì tế lễ là hành vi ứng xử đẹp đẽ, là sinh hoạt tinh thần có tính nhân văn sâu sắc. Văn tế được dùng để đọc trong các buổi tế như vậy chính là một cách bắc nhịp cầu nối liền đôi bờ âm dương cách trở, đưa linh hồn người chết về cõi thanh cao, siêu thoát. Đó là cách an ủi vong linh người phận bạc và làm vơi nhẹ phần nào nỗi đau trong lòng người còn sống, để tôn vinh, ghi tạc hình bóng người đã khuất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 * Khái niệm: Theo sách “Việt Nam văn học sử yếu” (Dương Quảng Hàm) thì: “Văn tế, chữ Nho gọi là tế văn, là một bài văn đọc lúc tế một hoặc nhiều người chết để kể tính nết, công đức của người ấy, và tỏ tấm lòng kính trọng, thương tiếc của người đứng tế đối với người đã mất”[7]. Theo sách Thọ Mai (sách chép về lễ nghi cúng ngày xưa) thì văn tế có nghĩa rất rộng, bao gồm các loại văn dùng để tế thần, tế thánh (tế thánh Khổng Tử và học trò của ông), tế sống, tế ma, và cả các loại văn dùng để chúc mừng như chúc thọ, chúc việc thăng quan tiến chức,…Về sau, văn tế dùng theo nghĩa hẹp, chỉ với nghĩa là văn tế ma, gắn với phong tục tang lễ. Khi chôn cất người thân, người ta thường dùng văn tế để tưởng nhớ người đã mất. Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”:“Văn tế là một loại văn gắn với phong tục tang lễ, chủ yếu nhằm bày tỏ sự thương tiếc của tác giả và của những người thân đối với những người đã mất. Nội dung văn tế thường xoay quanh hai ý chính: một là kể về cuộc đời của người quá cố, hai là bộc lộ tình cảm, thái độ của người sống trong giờ phút vĩnh biệt. Mặc dù trong văn tế có những đoạn tự sự, kể lại cuộc đời của người quá cố, nhưng căn bản nó thuộc loại trữ tình. Âm điệu chung của văn tế là bi thương.”[16] Như vậy, văn tế là một thể loại trữ tình bày tỏ niềm thương tiếc đối với người đã mất mà không phân biệt trên dưới, xa gần, thân hữu. Những bài văn tế thể hiện những tình cảm lớn của những trái tim lớn, trái tim mang tình cảm của nhân dân, tình cảm tiên tiến của thời đại; thường là những tiếng khóc đời, khóc nước, khóc đồng chí, đồng bào của tác giả. Những bài văn tế như thế thường gây xúc động mãnh liệt trong lòng người đọc và trở thành những tác phẩm văn học có giá trị. Âm hưởng chung của văn tế là bi thương, nhưng sắc thái biểu cảm ở mỗi bài có thể khác nhau, mỗi bài một vẻ. Có bài chỉ thuần túy là một tiếng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 khóc (“Văn tế Trương Quỳnh Như” của Phạm Thái) nhưng cũng có bài mang tính sử thi bi tráng (“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, “Văn tế Phan Châu Trinh” của Phan Bội Châu). Ngoài văn tế trang nghiêm còn có văn tế mang tính chất trào phúng nhẹ nhàng. Đặc biệt, có khi văn tế còn được viết trong những hoàn cảnh khác, nhằm mục đích khác như dùng tế người sống. Chẳng hạn “Văn tế sống vợ” của Tú Xương có giọng hài hước dí dỏm để khen vợ và làm lành khéo với vợ vì sự chơi bời phóng túng của bản thân mình: “Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ; Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ. Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn; Người ung dung, tính hạnh khoan hòa, chỉ một nỗi hay gàn hay dở. …Mình đi tu cho thành Tiên thành Phật để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ; Tớ nuôi con cho có rể có dâu để trọn vẹn đạo chồng, nghĩa vợ…” Trong văn học Trung đại, đặc biệt là ở giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, văn tế cùng với hịch là những thể loại phát triển nhất, có tính chất đại chúng, thích hợp trong việc biểu đạt những tình cảm lớn. Nếu như hịch là để kêu gọi chiến đấu thì văn tế là để phúng viếng những người đã mất, những người hi sinh khi đất nước bị giặc Pháp đánh chiếm. Những bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu là những kiệt tác, tiêu biểu cho văn học giai đoạn đầu chống Pháp. Văn tế vốn có nhiều tính chất bi thương, nhưng ở giai đoạn này, vì được sáng tác trong các phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp rầm rộ nên không chỉ bi thương mà còn tuôn trào căm phẫn và khí thế hào hùng. Có bài văn tế để châm biếm bọn thực dân xâm lược như bài “Văn tế Cờ- ri- vi- ê” (tương truyền của Nguyễn Khuyến): Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 Hỡi ôi! Ông ở bên Tây, Ông qua bảo hộ. Cái tóc ông quăn, Cái mũi ông lõ. Đít ông cưỡi lừa, Miệng ông huýt chó. Lưng ông mang súng lục liên, Chân ông đi giày có mỏ. Ông dẹp thằng Đen, Để yên con đỏ. Ai ngờ: Nó bắt được ông, Nó chặt mất sỏ. Cái đầu ông đâu? Cái đít ông đó. Khốn khổ thân ông, Đ…mẹ cha nó. Nay tôi có: Chuối một buồng, Xôi một chõ, Rượu một be, Trứng một ổ. Vâng lời quan trên Cúng ông một cỗ … Để ông khỏi hổ, Ô hô! Thượng hưởng” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất