Pi
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
--------
LÊ THỊ BÍCH NGỌC
ĐỊNH TỐ ĐỘNG TỪ TRONG “THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI” CỦA
VŨ BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
THÁI NGUYÊN – 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Pii
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
--------
LÊ THỊ BÍCH NGỌC
ĐỊNH TỐ ĐỘNG TỪ TRONG “THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI” CỦA
VŨ BẰNG
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
THÁI NGUYÊN – 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Động từ (ĐT) - một từ loại chiếm số lượng lớn và có một vị trí quan
trọng trong hệ thống từ loại tiếng Việt cũng như trong cấu trúc ngữ pháp của
câu. Có thể tìm hiểu từ loại này từ nhiều góc độ, tuy nhiên, trong khuôn khổ
thời gian và khả năng cho phép, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu từ
loại ĐT ở góc độ chức vụ ngữ pháp mà ĐT có thể đảm nhận.
Định tố động từ (ĐTĐT) là một thành phần phụ trong danh ngữ (DN), bổ
nghĩa cho danh từ (DT). Tuy vậy, trong nhiều trường hợp nó lại là thành phần
không thể thiếu được hoặc khó có thể thiếu được bởi thiếu nó sẽ ảnh hưởng trực
tiếp tới cấu trúc, ý nghĩa, mục đích giao tiếp và giá trị thẩm mỹ của câu, của
ngôn bản.
Những vấn đề trên đặt người nghiên cứu trước một nhiệm vụ là phải lý
giải, làm sáng tỏ đặc trưng về cấu trúc và xác định rõ những chức năng mà
ĐTĐT có thể đảm đương trên các bình diện khác nhau.
1.2. Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng - được viết trong thời gian nhà
văn công tác tại Sài Gòn - là một tùy bút dạt dào tình cảm nhớ thương hướng về
người vợ tấm mẳn tần tảo, dịu hiền và miền Bắc thương yêu bốn mùa của ngon,
cảnh đẹp, phong tục hay. Tác phẩm là một tùy bút có sức hấp dẫn đặc biệt trong
nền văn học Việt Nam đương đại không chỉ ở phương diện nội dung mà còn ở
phương diện hình thức. Một trong những cái tạo nên sức hấp dẫn đó chính là
nghệ thuật sử dụng ngôn từ hết sức linh hoạt, sắc sảo và tinh tế. Đặc biệt, như
nhà văn Vũ Ngọc Phan đã phát hiện Thương nhớ mười hai Vũ Bằng có lối tả
cảnh và nhân vật rất riêng, chú trọng vào hành vi. Vậy nhưng, nghệ thuật ngôn
từ trong tác phẩm chưa được nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống. Đó
là nguyên nhân để chúng tôi lựa chọn nghiên cứu: Định tố động từ trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
“Thương nhớ mười hai” của Vũ Bằng. Hi vọng công trình sẽ góp phần làm rõ hơn
giá trị của tác phẩm ở phương diện nghệ thuật cũng như tài năng của tác giả.
1.3. Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy, nhưng lâu nay, ĐTĐT chưa
được các nhà Việt ngữ học thực sự quan tâm. Các nhà nghiên cứu như: Nguyễn
Kim Thản, Nguyễn Tài Cẩn, Đinh Văn Đức, Hồ Lê….đã ít nhiều quan tâm đến
định tố. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ chú trọng và tập trung nghiên cứu định
tố như một từ loại có ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp, khả năng đảm nhiệm
các chức vụ ngữ pháp trong câu. Khi bàn về chức năng ngữ pháp của ĐT, các
tác giả thường nói đến định tố như một vai trò ngữ pháp hoặc một trong những
vai trò giữ pháp mà ĐT có thể đảm nhiệm.
DN và thành phần định tố cũng đã được nghiên cứu trong những công
trình ngữ pháp của các tác giả như: Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Tài Cẩn. Bên
cạnh đó, hai tác giả Hoàng Dũng và Nguyễn Thị Ly Kha cũng đề cập đến việc
phân loại định tố trong cấu trúc DN dựa vào chức năng. Tuy nhiên, chưa xác
định rõ nét các chức năng ở bình diện ngữ nghĩa hay ngữ dụng của định tố. Gần
đây, công trình nghiên cứu Định tố tính từ trong tiếng Việt của TS. Nguyễn Thị
Nhung cũng đã nói đến định tố, nhưng tác giả đi sâu nghiên cứu định tố là tính
từ chứ không chuyên sâu về ĐTĐT.
Có thể nhận thấy rằng, về cơ bản, chưa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách chuyên sâu và có hệ thống về ĐTĐT. Chính vì thế, đây là
lý do để chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài: Định tố động từ trong “Thương
nhớ mười hai” của nhà văn Vũ Bằng.
1.4. Nghiên cứu ĐTĐT ở các lĩnh vực trên, luận văn sẽ góp phần giải
quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn sau:
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm hoàn
thiện hơn hệ thống tri thức về các phương diện của ĐTĐT và việc sử dụng
ĐTĐT trong tác phẩm văn chương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được ứng dụng
nâng cao hiệu quả tiếp nhận và sử dụng ĐTĐT trong tác phẩm văn chương nói
riêng và trong giao tiếp nói chung.
Có thể thấy, những vấn đề đặt ra ở trên đã khẳng định việc nghiên cứu
ĐTĐT trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng là thật sự cần thiết.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, đã có những công trình nghiên cứu về
ĐT và phân loại ĐT trong tiếng Việt. Đó là các công trình: Vị từ hành động và
các tham tố của nó của Nguyễn Thị Quý; Cụm động từ tiếng Việt của Nguyễn
Phú Phong; Động từ trong tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản; Ngữ nghĩa và cấu
trúc của động từ của Vũ Thế Thạch; và gần đây nhất là Kết trị của động từ
tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc. Các công trình này đã chỉ rõ ý nghĩa, khả năng
kết hợp, chức vụ ngữ pháp của từ loại ĐT và đề xuất các hướng phân loại từ
loại này. Nhưng các đặc trưng của ĐT khi nó đảm nhiệm một chức vụ ngữ pháp
như chức vụ định tố thì chưa công trình nào quan tâm nghiên cứu.
2.2. DN tiếng Việt và thành phần định tố của nó đã được đề cập ở nhiều
công trình nghiên cứu về ngữ pháp. Đó là: Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện
đại của Nguyễn Tài Cẩn; Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn Kim
Thản; Ngữ pháp tiếng Việt từ loại của Đinh Văn Đức; Cú pháp tiếng Việt của Hồ
Lê; Về các thành tố phụ sau trung tâm trong DN tiếng Việt của Hoàng Dũng và
Nguyễn Thị Ly Kha; Định ngữ là vị từ trong tiếng Việt (Luận văn ThS) của Đỗ
Thị Ngọc Mai; Định tố tính từ trong tiếng Việt (Luận án TS) của Nguyễn Thị
Nhung, Định tố danh từ trong tiếng Việt (Luận văn Th.S) của Nguyễn Thanh Nga.
Những công trình trên đã nghiên cứu DN và thành phần định tố ở các mức độ khác
nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chi tiết, hệ thống về đặc điểm
cấu trúc và chức năng của thành phần định tố có bản chất từ loại là ĐT.
1.3. Tác phẩm Thương nhớ mười hai của nhà văn Vũ Bằng là một tác
phẩm hay, có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Vì thế, đã có một số đề tài,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
tiểu luận viết về tác phẩm này như: Không gian hoài cổ trong Thương nhớ mười
hai của Vũ Bằng của Lê Thị Hải Vân; Nghệ thuật kết cấu Thương nhớ mười hai
của Vũ Bằng của Chế Diễm Trâm; Đặc trưng ngôn ngữ trong Thương nhớ mười
hai của Vũ Bằng của Hoàng Mai; Vẻ đẹp của ngôn từ trong Thương nhớ mười
hai của Vũ Bằng của Vũ Mai Phương;… Tuy nhiên, thành phần ĐTĐT trong
tác phẩm này chưa được quan tâm nghiên cứu cụ thể.
Tóm lại, về cơ bản ĐTĐT chưa được nghiên cứu một cách cụ thể, toàn
diện Do đó, việc tìm hiểu về ĐTĐT nói chung và ĐTĐT trong Thương nhớ
mười hai là một việc làm cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Qua việc làm rõ những đặc trưng về cấu trúc, chức năng của ĐTĐT
trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng, có được những hiểu biết về tác dụng
cụ thể của ĐTĐT với một tác phẩm văn chương.
- Đồng thời, cũng qua đó mà hiểu hơn về tài năng và phong cách văn
chương của tác giả Vũ Bằng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra ba nhiệm vụ cụ thể:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của định tố
- Phân tích, miêu tả đặc điểm cấu trúc của ĐTĐT trong Thương nhớ mười
hai của Vũ Bằng
- Phân tích, miêu tả đặc điểm chức năng của ĐTĐT trong Thương nhớ
mười hai của Vũ Bằng trên bình diện: ngữ nghĩa và ngữ dụng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là định tố có bản chất từ loại động từ
(ĐT, động ngữ) trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng (bản in của nhà xuất
bản Văn hóa – thông tin, Hà Nội, 2006, gồm 304 trang).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
Những ĐTĐT đã khảo sát sẽ được nghiên cứu về mặt cấu trúc, mặt chức
năng (ngữ nghĩa, ngữ dụng) và tác dụng với việc thể hiện nội dung của Thương
nhớ mười hai và phong cách văn chương Vũ Bằng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng hai phương pháp:
- Phương pháp miêu tả: được sử dụng để phân tích đặc điểm mọi mặt của
ĐTĐT trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Trong phương pháp này,
chúng tôi sử dụng các thủ pháp giải thích bên ngoài và các thủ pháp giải thích
bên trong.
+ Các thủ pháp giải thích bên ngoài:
Thủ pháp phân tích ngôn cảnh được sử dụng để nghiên cứu các tình
huống và các nhân tố văn hóa có ảnh hưởng đến việc sử dụng ĐTĐT của nhà
văn Vũ Bằng trong tác phẩm của mình.
Thủ pháp thay thế, tỉnh lược được sử dụng để hạn chế sự cảm tính chủ
quan khi miêu tả và giúp phân tích giá trị các ĐTĐT được Vũ Bằng sử dụng.
+ Các thủ pháp giải thích bên trong như thống kê, phân loại, hệ thống
hóa được sử dụng để xác định số lượng DN chứa ĐTĐT, số lượng các tiểu loại
ĐTĐT phân chia theo các tiêu chí khác nhau cũng như số lượng các thành tố
khác có trong DN chứa ĐTĐT ở Thương nhớ mười hai. Thủ pháp phân tích
nghĩa tố được sử dụng để chỉ ra ý nghĩa của các ĐTĐT trên bình diện ngữ nghĩa
và ngữ dụng.
- Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh được sử dụng để phân biệt các nhóm ĐTĐT được
phân chia trên mỗi bình diện và phân biệt các nhóm ĐTĐT với cac nhóm định
tố có bản chất từ loại khác cũng trên từng bình diện.
6. Đóng góp của luận văn
Với luận văn này, chúng tôi sẽ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
- Xác định vị trí, số lượng, cấu tạo, khả năng kết hợp của ĐTĐT trong
DN ở Thương nhớ mười hai.
- Đưa ra khái niệm về các loại ĐTĐT phân theo chức năng trên bình diện
ngữ nghĩa, ngữ dụng. Làm rõ đặc điểm của mỗi loại ĐTĐT đó ở các mặt: vị trí,
số lượng ĐTĐT trong DN, cấu tạo, khả năng kết hợp và ngữ nghĩa, các tiêu chí
và kết quả chia tiểu loại ở mỗi loại ĐTĐT trong Thương nhớ mười hai.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
của chúng tôi gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận
Chương này trình bày những vấn đề lý luận cơ bản – những tri thức khái
quát về ĐT và ĐTĐT, các bình diện nghiên cứu ĐTĐT trong Thương nhớ mười
hai làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
Chƣơng 2: Định tố động từ trong “Thƣơng nhớ mƣời hai” xét trên
bình diện cấu trúc và bình diện ngữ nghĩa
Chương này tập trung làm sáng rõ vị trí, cấu tạo, khả năng kết hợp của
ĐTĐT nói chung; xác định khái niệm ĐTĐT hạn định, ĐTĐT miêu tả (đây là
hai loại ĐTĐT phân theo chức năng ngữ nghĩa), phân tích, miêu tả đặc điểm
của hai loại ĐTĐT về vị trí, số lượng trong DN, cấu tạo, khả năng kết hợp, ngữ
nghĩa và phân tiểu loại. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ những đặc
điểm của ĐTĐT hạn định vì ĐTĐT miêu tả xuất hiện rất hạn chế trong Thương
nhớ mười hai.
Chƣơng 3: Định tố động từ trong “Thƣơng nhớ mƣời hai” xét trên
bình diện ngữ dụng.
Trong chương này, chúng tôi miêu tả bốn loại ĐTĐT phân theo chức
năng ngữ dụng: ĐTĐT chiếu vật, ĐTĐT biểu đạt thông tin, ĐTĐT biểu thị hàm
ý và ĐTĐT trang trí. Ở mỗi loại này, chúng tôi đều trình bày về khái niệm, điều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
kiện sử dụng, phương tiện biểu đạt, cách sử dụng và khả năng thực hiện chức
năng ngữ dụng cụ thể của nó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐỘNG TỪ TIẾNG VIỆT
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm động tƣ̀ tiếng Việt
Động từ – một từ loại đóng vai trò quan trọng trong tiếng Việt. Đã có rất
nhiều nhà Việt ngữ học nghiên cứu về từ loại này. Theo Trần Trọng Kim :
“Động từ là tiếng biểu diễn cái dụng của chủ từ” (Dẫn theo Nguyễn Kim Thản,
[49,tr.230]). Theo Nguyễn Lân thì : “Động từ là thứ từ dùng để biểu diễn mộ t
động tác , một trạng thái hoặc sự phát triển , sự biế n hóa của một trạng thái”
(Dẫn theo Nguyễn Kim Thản, [49,tr.230]). Nguyễn Kim Thản trong công trì nh
Động từ trong tiếng Việt , tập 1, không chỉ đề cập đến đặc trưng ngữ nghĩa của
ĐT mà còn đề cập đến vai trò, điểm khác biệt giữa ĐT với danh từ: “Động từ là
một từ loại đóng vai trò rất quan trọn g trong vị từ ” [51,tr.228]; là “từ loại biểu
thị sự hoạt động (động tác, hành vi, biến hóa…) và trạng thái của vật chất, trước
hết có những đặc trưng ngữ pháp trái ngược danh từ
...” [51,tr.228]. Nhóm tác
giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến trong cuốn Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt còn quan tâm đến khả năng kết hợp và chức vụ ngữ pháp
của động từ tiếng Việt: “Động từ là các hành động vật lý , tâm lý , sinh lý, có thể
đứng sau từ hãy và tham gia chức vụ vị ngữ trong câu” [16,tr.271].
Dựa vào ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi cho rằng, có
thể khẳng định đôi nét khái quát về động từ tiếng Việt trên các mặt : ý nghĩa,
khả năng kết hợp, và vai trò ngữ pháp như sau:
- Về ý nghĩa của động từ tiếng Việt , tác giả Đinh Văn Đức trong cuốn
“Ngữ pháp tiếng Việt từ loại”
đã chỉ ra rằn g “Ý nghĩ a của động từ trên bậc
khái quát nhất là ý nghĩ a vận động - động từ chỉ các dạng vận động khác nhau
của tất cả những gì nằm trong phạm trù thực thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
” [24,tr.127]. Chúng tôi tán
http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
thành với ý kiến này, có thể hi ểu, ý nghĩa vận động được cụ thể hoá bằng ý
nghĩa chỉ các hành động vật lý, tâm lý, sinh lý của sự vật.
- Về khả năng kết hợp , do bản chất ngữ nghĩ a và ngữ pháp , ĐT có khả
năng kết hợp với các thành tố phụ rất đa dạng. Khả năng kết hợp của ĐT được
khái quát hóa trong cấu trúc của đoản ngữ ĐT (động ngữ).
ĐT tiếng Việt có khả năng kết hợp phổ biến về phía trước với các phó từ
biểu diễn sự tiếp diễn : vẫn, cứ, đều, cùng…; với các hư từ chỉ thời gian : đã,
đang, sẽ, sắp,….Đặc biệt là ĐT có khả năng kết hợp với các phó từ chỉ mệnh
lệnh, sai khiến: hãy, đừng, chớ. Cùng với đó, ĐT còn có thể kết hợp phía trước
với các phó từ khẳng định: không, chẳng, chưa…
Khả năng kết hợp về phí a sau của ĐT hết sức phong phú , thường là với
các thực từ và những hư từ chỉ sự kết thúc, hoàn thành: xong, rồi...(học xong,
học rồi…).
Ngoài ra, trong thực tế , chúng ta có thể thấy, ĐT tiếng Việt có khả năng
kết hợp với một số nhóm phụ từ chỉ mức độ: rất, hơi, lắm … ở cả phí a trước và
phía sau như: rất thích, hơi buồn, yếu lắm…
- Về vai trò ngữ pháp, ĐT tiếng Việt có thể làm vị ngữ đồng thời có thể
làm yếu tố mở rộng của danh
từ (DT) và yếu mở rộng của ĐT (bổ tố ), trạng
ngữ. Bên cạnh đó, ĐT cũng có vai trò làm chủ ngữ.
Về chức năng làm vị ngữ của ĐT , tác giả Đinh Văn Đức ghi lại thống
kê của Nguyễn Việt Hưng (1970): 99% câu đơn tiếng việt có vị ngữ do ĐT và
TT đảm nhiệm. Như vậy, làm vị ngữ là một vai trò rất quan trọng của ĐT. Tuy
vậy, cũng không thể phủ nhận vai trò làm đị nh tố của ĐT.
Do đặc trưng ngữ nghĩa của mình mà ĐT hết sức hạn chế xuất hiện với
vai trò chủ ngữ. Khi xuất hiện với vai trò này, ĐT thường không còn giữ đầy đủ
bản chất từ loại của nó nữa.
Ví dụ: Thắc mắc này rất chính đáng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
Ở vị trí trên, thắc mắc không thể kết hợp được với các “từ chứng” của nó
như: đang, cứ, hãy,…cụ thể, nếu nó kết hợp các từ trên thì sẽ có câu:
+ Đang thắc mắc này rất chính đáng. (-)
+ Cứ thắc mắc này rấy chính đáng. (-)
+ Hãy thắc mắc này rất chính đáng.(-)
ĐT còn có khả năng làm định tố (hay còn gọi là đị nh ngữ). Ví dụ: tiếng
reo của gió; bệnh tƣơng tƣ; cái thú ngâm thơ Bạch Tuyết mùa đông….
Khi nói về ĐT, chúng ta thường nói về một loại thực từ với chức năng
chính làm vị ngữ. Vậy vì sao ĐT còn có khả năng làm thành phần phụ ? Chúng
tôi có thể giải thí ch như sau : ĐT có ý nghĩa khái quát chỉ trạng t hái, hoạt động
của con người , sự vật; có khả năng giải thích nội dung, ý nghĩa của DT trước
nó. Vì vậy, ĐT cũng có khả năng là thành tố phụ bổ sung ý nghĩa, chỉ trạng thái,
hoạt động, chỉ ra những đặc trưng hạn định cho đối tượng nêu ở DT. Như Đinh
Văn Đức nói: “Bản chất của đị nh ngữ là việc chỉ ra đặc trưng hạn đị nh cho một
khái niệm thực thể. Những khái niệm khác nhau được người bản ngữ nhận thức
như những đặc trưng , dù đó là một khái niệm về sự vật , về hành động , về tí nh
chất, về quan hệ” [24,tr.125]. Như vậy, làm định tố cũng là một chức vụ ngữ
pháp phổ biến của ĐT. Các tiểu loại ĐT khác nhau có khả năng làm định tố
không giống nhau. Và nhóm ĐT chỉ hoạt động, trạng thái cảm xúc là nhóm ĐT
xuất hiện thường xuyên trong hoạt động giao tiếp nên nó có khả năng làm định
tố phổ biến hơn cả. Còn ĐT chỉ tình thái và ĐT chỉ các trạng thái khác thì có
khả năng làm định tố thấp hơn.
Một vấn đề đáng quan tâm nữa đó là mặc dù ĐTĐT là một thành tố phụ
trong câu nhưng có nhiều trường hợp thành tố này không thể vắng mặt , không
thể lược bỏ . Vì khi lược bỏ nó câu sẽ trống nghĩa và người đọc không thể xác
đị nh được nội dung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
Ví dụ: Lược bỏ những ĐTĐT: sống từ Hòa Bì nh đến Ngũ Châu , Lang
Chính, vui, buồn, đấu vật, rụng… trong các ví dụ sau thì câu văn sẽ trở nên
trống nghĩa, vô nghĩa.
- (Làm sao quên cho được ) những ngày sống tƣ̀ Hòa Bì nh đến Ngũ
Châu, Lang Chí nh…
- niềm vui; nỗi buồn; những cuộc đấu vật; những bông sao rụng; …
Những ĐTĐT không thể lược bỏ là ĐTĐT đứng sau các DT trống nghĩ a
như: niềm, nỗi, sự, việc, cuộc, cái…hoặc sau những DT có thành phần phụ
trước là: những, các, một….
1.1.2. Vấn đề ranh giới của động từ tiếng Việt
Có thể xác định ranh giới củ a ĐT với TT, DT - hai từ loại gần gũi với
nó trong hệ thống từ loại tiếng Việt như sau:
- Phân biệt ĐT với TT:
+ Về khả năng kết hợp, ĐT rất gần với TT bởi đều có khả năng kết hợp
với năm nhóm thành tố phụ trước (phó từ): nhóm phó từ chỉ thời thể (đã, sẽ,
đang….), phó từ chỉ sự tiếp diễn tương tự (vẫn, còn, cũng….), phó từ phủ định
(không, chẳng, chưa). Tuy nhiên, chính ở đây, cũng có sự phân biệt. Đó là
nhóm phó từ chỉ mệnh lệnh (hãy, đừng, chớ….) kết hợp phổ biến với ĐT thì hạn
chế kết hợp với TT; ngược lại, nhóm phó từ chỉ mức độ (rất, hơi, quá, lắm…)
lại là nhóm thành tố phụ tiêu biểu của tính từ TT.
+ Về chức vụ ngữ pháp , ĐT và TT giống nhau ở điểm, cùng đảm nhận
chức vụ vị ngữ . Nhưng nếu như vị ngữ là chức vụ ngữ pháp chí nh của
ĐT thì
không ai khẳng đị nh điều đó ở từ loại từ TT. Mà chức vụ ngữ pháp chính của
TT là chức vụ định tố. Kết luận này đã được TS Nguyễn Thị Nhung trong công trình
nghiên cứu Định tố tính từ trong tiếng Việt với nhiều cơ sở giàu sức thuyết phục.
+ Trong sử dụng: Những từ láy tượng thanh như : xôn xao , róc rách ,
chập chờn , dập dờn… nếu kết hợp với các ĐT chỉ hoạt động của sự vật như:
(bay, chảy…) thì nó là những TT chỉ cách thức của hành động : bay dập dờn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
chảy róc rách…. Nhưng khi kết hợp trực tiếp với những hư từ chỉ thời gian (đã,
đang, sắp…), những hư từ chỉ sự tiếp diễn (vẫn, còn, cứ…) thì các từ này lại có
tư cách của từ loại ĐT.
Ví dụ: - Suối vẫn róc rách
- Nó đã chập chờn rồi.
- Đàn bướm đang dập dờn trên mặt ao.
- Phân biệt ĐT với DT:
Có một số nhóm ĐT cần phân biệt với DT như sau:
+ Đầu tiên, phải kể đến nhóm các từ chỉ hiện tượng tự nhiên , thiên nhiên
như: mưa, nắng, sấm, chớp…. Theo chúng tôi, nhóm từ này nên coi là DT khi
nó có thể kết hợp được với các từ chỉ đơn vị như
: cơn mƣa, tia nắng, ánh
nắng…trong câu. Những trường hợp còn lại, các từ trên là ĐT. Ví dụ: nắng
(quá), mưa (rồi),…
+ Thứ hai, chúng tôi nói đến nhóm từ vốn là ĐT như: thắc mắc, suy nghĩ ,
tìm tòi, nghiên cứu…. Khi kết hợp với các DT trống nghĩ a (sự, việc, cuộc…) thì
những từ ấy sẽ trở thành DT. Ví dụ: sự thắc mắc, việc nghiên cƣ́u…
+ Thứ ba , nhóm từ: bó, buộc, bọc, bước, búi, cuốn, cuộn, châm, chống,
dúm, gạch, gói, nắm… vốn là nhóm ĐT từ chỉ hoạt động của con người hay nói
chính xác hơn là hoạt động của các bộ phận trên cơ thể con người (tay,
chân,…). Chúng trở thành DT chỉ đơn vị vật thể mà hoạt động ấy có thể đưa lại
khi kết thúc. Vấn đề trên đã được Nguyễn Kim Thản trì nh bày trong cuốn Động
từ trong tiếng Việt . Những ĐT này trở thà nh DT khi kết hợp về phí a sau từ chỉ
số đếm: một, vài, mấy, … Ví dụ: một bó, hai cuộn, mấy gói, vài bọc….
+ Thứ tư , nhóm ĐT vốn chỉ hành động làm tổn hạ
i đối tượng cũng
chuyển thành DT chỉ đơn vị: đá, đập, đạp, quật, tát, thụi…. khi kết hợp về phí a
sau với DT chỉ đơn vị: cái, quả, phát, …. Ví dụ: cái tát, quả đấm, phát tát….
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
+ Thứ năm, một số DT như: cơm nước, anh em, bạn bè,… bị ĐT hóa khi
kết hợp về phía trước những phó từ khẳng định trong một vài trường hợp giao
tiếp như:
* Chẳng cơm nƣớc gì cả!
* Tôi không anh em, bạn bè gì với anh nữa.
1.1.3. Phân loại động tƣ̀ tiếng Việt
Có nhiều tiêu chí để phân loại ĐT tiếng Việt. Tiêu chí được sử dụng để
phân loại ĐT phổ biến nhất là dựa vào khả năng kết hợp với các p
hó từ
chỉ mệnh lệnh (hãy, đừng, chớ) của ĐT. Về vấn đề này, tác giả Nguyễn Kim
Thản trong Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt phân chia ĐT theo hai tiêu chí là
phân chia theo sự phân phố i các hư từ hay bán hư từ p hục vụ ĐT ( phân loại có
tính chất từ pháp) và tiêu chí dựa vào tính chát chi phối bổ ngữ của ĐT.
Khác với cách phân chia ĐT của tác giả Nguyễn Kim Thản , tác giả Hồ
Lê trong cuốn “ Cú pháp tiếng Việt – quyển II – Cú pháp cơ sở” đã phân chia
ĐT thành 4 tiểu loại: ĐT tâm lý (động từ tì nh thái); ĐT cảm thụ; ĐT trực hành;
Động từ hành đạt.
Một số tác giả khác như Lê Đì nh Tư thì phân chia ĐT thành hai loại động
từ độc lập và động từ không độc lập.
Với những cách phân loại trên của các nhà ngôn ngữ học , chúng tôi tán
thành việc phân loại theo tiêu chí ngữ nghĩa, coi việc phân loại theo tiêu chí ngữ
nghĩa là cơ sở cho việc phân tiểu loại ĐTĐT trên bình diện ngữ nghĩa.
Trên cơ sở tham khảo ý kiến của các nhà ngữ pháp học, chúng tôi xin đề
nghị một cách phân loại ĐT tiếng Việt như sau:
Trước hết, ĐT tiếng Việt được chia làm hai nhóm lớn: Động từ độc lập
và động từ không độc lập.
* Động từ không độc lập: được phân chia thành các nhóm nhỏ: Động từ
tình thái và động từ quan hệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
- Nhóm động từ tình thái: là những ĐT trống nghĩa, biểu thị tình thái vận
động, quá trình nhưng tự thân chưa mang nghĩa trọn vẹn.
Dựa vào ý nghĩa, tác giả chia nhóm ĐT tình thái thành các tiểu loại sau:
+ ĐT chỉ sự cần thiết: cần, nên, cần phải, khỏi, khỏi phải…
+ ĐT chỉ khả năng: có thể, không thể, chưa thể.
+ ĐT chỉ ý nguyện: toan, định, dám, chực, muốn, mong…
+ĐT chỉ sự thụ động: bị, được, phải….
- Nhóm động từ quan hệ: Là những ĐT biểu thị quan hệ giữa chủ thể với
nội dung nêu ở từ ngữ sau ĐT chỉ quan hệ.
Nhóm ĐT quan hệ này bao gồm các tiểu loại:
+ Nhóm ĐT chỉ quan hệ đồng nhất (theo nghĩa rộng) như: là, làm.
+ Nhóm ĐT quan hệ biến hóa: thành, hóa thành, biến thành, hóa ra, …
+ Nhóm ĐT quan hệ diễn biến trong không gian: gần, xa, ở, gần gụi…
* Động từ độc lập: gồm hai nhóm động từ nội động và động từ ngoại động.
- Nhóm động từ nội động: là những ĐT chỉ trạng thái hay hoạt động
hướng tới, tác động tới một đối tượng nào đó ở bên ngoài chủ thể.
Các nhóm ĐT nội động:
+ Nhóm ĐT chuyển động (chỉ sự vận động di chuyển) như: đi, chạy, bò,
lăn, bơi, trườn, lên, xuống,…
+ Nhóm ĐT chỉ trạng thái như: vỡ nứt, ngủ, bối rối….
+ Nhóm ĐT tồn tại như: còn, có, nảy sinh, nở, mọc, lặn, nổi, sống, chết,
tàn, tắt, tan, hết…
+ Nhóm ĐT tượng thanh có thể chuyển hóa thành động từ nội động: chí
chóe, nheo nhéo, ùng ục…
- Nhóm động từ ngoại động: Là những ĐT chỉ các hoạt động hướng tới
hoặc tác động với đối tượng bên ngoài chủ thể. Nhóm ĐT này đòi hỏi có BN
bắt buộc.
ĐT ngoại động gồm các tiểu nhóm sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
+ Nhóm ĐT tác động tích cực (kết quả của nó làm thay đổi về trạng thái,
tính chất, vị trí của đối tượng) như: ăn, học, xây, lau, chặt, đào, trồng, may, cắt,
giết, gánh…
+ Nhóm ĐT chỉ hoạt động của bộ phận cơ thể (hoạt động mà chủ thể gây
ra và chuyển tới bộ phận cơ thể mình) như: chép, lim dim, nhắm, ngửa, nhăn,
nháy, phùng, trợn, vẫy, vục, vươn….
+ Nhóm ĐT chỉ hoạt động cảm xúc (chi phối một bổ ngữ) như: yêu ghét,
nhớ, thương, chán,….
+ Nhóm ĐT cảm nghĩ nói năng (chi phối một bổ ngữ) như: nghĩ, tin,
thấy, bảo….
+ Nhóm ĐT trao nhận (chi phối hai bổ ngữ) như: cho, đưa, nhận, vay, mượn…
+ Nhóm ĐT gây khiến (chi phối hai bổ ngữ) như: bảo, khiến, yêu cầu, mời…
+ Nhóm ĐT chuyển dời đối tượng (chi phối hai bổ ngữ) như: du, đẩy,
đặt, tra, xâu….
+ Nhóm ĐT đánh giá, nhận xét (chi phối hai bổ ngữ) như: coi, lấy, gọi,
xác nhận….
Và trong quá trình nghiên cứu ĐTĐT trong Thương nhớ mười hai, chúng
tôi sẽ phân loại các loại ĐTĐT dựa trên cách phân loại mà chúng tôi đề xuất
trên đây.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ CỤM TỪ , ĐOẢN NGƢ̃ , DANH NGƢ̃ , ĐỊ NH
TỐ, ĐỊ NH TỐ ĐỘNG TỪ TRONG TIẾNG VIỆT.
1.2.1. Cụm từ
Nói về cụm từ , Diệp Quang Ban trong Ngữ pháp tiếng Việt – tập 2 đã
đị nh nghĩ a như sau : “Cụm từ là những kiến trúc gồm hai từ trở lên kết hợp “tự
do” với nhau theo những quan hệ ngữ pháp hiển hiện nhất đị nh và không chứa
kết từ ở đầu”[7,tr.6].
Đơn vị này gồm cụm từ chí nh phụ ; cụm chủ vị và cụm đẳng lập . Cụm
chính phụ l à cụm từ mà các thành tố có quan hệ chính phụ với nhau . Cụm từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
chủ vị là cụm từ mà các thành tố có quan hệ chủ – vị với nhau. Cụm từ đẳng lập
là cụm từ mà các thành tố có quan hệ bình đẳng với nhau.
1.2.2. Đoản ngƣ̃ (ngƣ̃, cụm chính phụ, tƣ̀ tổ, nhóm từ)
Đoản ngữ là cụm từ chính phụ . Là cụm từ “trong đó một từ giữ vai trò
thành tố chính về ngữ pháp , từ kia giữ vai trò phụ thuộc vào thành tố chính về
mặt ngữ pháp”[7,tr.10].
Ví dụ các cụm từ sau: (1) Những học sinh viết bút xanh ấy (cụm DT)
PT
C
PS1
PS2
(2) đang thi toán (cụm ĐT)
PT C
(3) quá đẹp
PT
PS
(cụm TT)
C
(Trong đó: PT: phụ trước; PS: Phụ sau; C: chính)
1.2.3. Danh ngƣ̃ (cụm danh từ)
- Danh ngữ là đoản ngữ có DT làm trung tâm.
- Đã có nhiều tác giả quan tâm đến mặt cấu tạo của DN
. Hầu hết cho
rằng, DN bao gồm: bộ phận trước trung tâm, trung tâm và bộ phận sau trung tâm.
Sau đây là những diễn giải của Nguyễn Tài Cẩn về những vấn đề nêu trên:
Phần đầu DN do các hư từ đảm nhiệm, có số lượng hạn chế , có sự phân
bố vị trí rành mạch và thường gia thêm chi tiết phụ không có tác động đến ngoại
diên của khái niệm biểu thị bằng DTTT.
Phần đầu của DN có tối đa ba vị trí. Ba vị trí này có thể đều được thể
hiện bằng các thành tố trong cùng một lúc , mà cũng có thể chỉ một hay hai vị
trí, hay không có vị trí nào được thể hiện ra . Cả ba vị trí trong phần phụ trước
DN có trật tự ổn đị nh, không thể chuyển đổi cho nhau.
Bảng 1: Phần phụ trƣớc trung tâm DN
Vị trí -3
Vị trí -2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Vị trí -1
Phần trung tâm
http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
tất cả
những
Chỉ tổng lượng
Chỉ số lượng
cái
con
gà
Chỉ xuất
T1
T2
- Bộ phận trung tâm của DN:
+ Có thể là trung tâm đơn như tư tưởng trong cụm từ: Tất cả những tư
tưởng ấy,…
+ Có thể là trung tâm ghép như con (T1) – gà (T2) trong ví dụ đã
nêu trên.
- Bộ phận cu ối DN : theo các tác giả cùng quan điểm với Nguyễn Tài
Cẩn, bộ phận cuối DN gồm hai bộ ph ận, thuộc vị trí 1 và vị trí 2. Vị trí 1 đứng
gần trung tâm hơn , có ba thành tố phụ sau , chúng có quan hệ phụ t huộc vào
thành tố chính – trung tâm DN. Định tố ở vị trí 1 bổ sung ý nghĩa trực tiếp cho
DTTrT. Định tố ở vị trí 2 là những đại từ thay thế: này, kia, nọ ấy….
Như vậy, theo cách phân loại của
Nguyễn Tài Cẩn và
một số tác
giả thì chúng tôi có thể khát quát lại sơ đồ về cấu tạo DN như sau:
Bảng 2: Tổng hợp hoàn chỉ nh cấu trúc DN
Phần đầu
Vị trí -3
Tất cả
Phần Trung tâm
Vị trí -2 Vị trí -1
những
Cái
T1
T2
con
gà
Phần cuối
Vị trí 1
mua hôm qua
Vị trí 2
ấy
Có thể nói, đó là ý kiến quý báu giúp chúng tôi có cái nhìn sâu sắc hơn về
DN tiếng Việt.
Ví dụ: Trong câu: Những quả na này chín hết rồi !
Trong hoàn cảnh cụ thể, ta có thể nói là:
Những quả này chín hết rồi!
Hoặc cách nói tỉnh lược khác mà người đọc vẫn hiểu được nội dung của
câu là:
Na này chín hết rồi!
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
Theo quan hệ ngữ pháp , các thành tố phụ trước có quan hệ trực tiế p với
trung tâm hơn các các thành tố phụ sau DN. Vì vậy, khi xét ĐTĐT trên bì nh
diện ngữ nghĩ a chúng tôi đặt ĐTĐT trong quan hệ với tổ hợp gồm DT và các
thành tố ở phần đầu này.
1.2.4. Đị nh tố và đị nh tố động tƣ̀
1.2.4.1. Khái niệm định tố và định tố động từ.
Đị nh tố là thành phần phụ cho DT. Nó còn được gọi là đị nh ngữ, TPP sau
danh ngữ.
Sự phân biệt đị nh tố – đị nh ngữ là sự phân biệt cấu trúc – chức năng của
từ pháp và cú pháp.
Những tác giả dùng tên gọi định tố là Nguyễn Tài Cẩn , Nguyễn Thiện
Giáp, Nguyễn Thị Nhung…Còn các tác giả : Đinh Văn Đức, Hoàng Dũng –
Nguyễn Thị Ly Kha, Nguyễn Minh Thuyết , Nguyễn Văn Hiệp… dùng tên gọi
đị nh ngữ.
Tác giả Nguyễn Kim Th ản trong cuốn “Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng
Việt” tập 2, cho rằng “Ở bất cứ thành phần nào trong câu , ở bất kỳ thành phần
nào của từ tổ, ở đâu có thể từ thì ở đó có khả năng định ngữ. Tất cả các loại thực
từ đều có thể làm đị nh ngữ cho danh từ… ..Đị nh ngữ là thành phầ n phụ thuộc
của thể từ” [49,tr.123]. Định tố là thành phần phụ cho từ , chức năng ngữ pháp
của nó thể hiện trong DN . Khi DN tham gia vào hoạt động giao tiếp , định tố
theo đó mà xuất hiện trong câu , có những tác động nhất định tới các phương
diện của câu . Tuy nhiên, định tố không có vai trò ngang hàng với những thành
phần câu khác: vị ngữ, chủ ngữ, trạng ngữ.
Theo TS.Nguyễn Thị Nhung , “Đị nh tố là một thành phần phụ của cụm
danh từ trong câu có chức năng bổ sung thêm cho thành phần chí nh bằng quan
hệ phụ thuộc chỉ ra thuộc tí nh , tính chất của người , sự vật, hiện tượng do danh
từ làm thành phần chí nh gọi tên” [44,tr.39].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -