LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đỗ Quang Lưu
3
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài luận án
1.2.
Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án
1.3.
Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố
liên quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra luận án tập trung giải quyết
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHƯƠNG
THỨC CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG
THỨC CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở CÁC HỌC VIỆN,
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
2.1.
Những vấn đề cơ bản về công tác tư tưởng và phương thức công
tác tư tưởng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
2.2.
Quan niệm, những vấn đề có tính nguyên tắc và tiêu chí đánh giá đổi
mới phương thức công tác tư tưởng ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội
Chương 3 THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở CÁC
HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
3.1.
Thực trạng đổi mới phương thức công tác tư tưởng ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội
3.2.
Nguyên nhân và kinh nghiệm đổi mới phương thức công tác tư
tưởng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG
THỨC CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở CÁC HỌC VIỆN,
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
4.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu đổi mới phương thức công tác tư
tưởng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay
4.2.
Những giải pháp đổi mới phương thức công tác tư tưởng ở các
học viện, trường sĩ quan đội hiện nay
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
5
9
9
15
25
29
29
49
67
67
93
110
110
123
159
161
162
176
4
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
Chữ viết đầy đủ
Chính trị quốc gia
Công tác đảng, công tác chính trị
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công tác tư tưởng
Giáo dục chính trị
Giáo dục, Đào tạo
Học viện, trường sĩ quan
Lực lượng vũ trang
Quân đội nhân dân
Quân ủy Trung ương
Quốc phòng, an ninh
Thi đua, khen thưởng
Tuyên truyền, cổ động
Trong sạch vững mạnh
Vững mạnh toàn diện
Xã hội chủ nghĩa
Chữ viết tắt
CTQG
CTĐ, CTCT
CNXH
CNH, HĐH
CTTT
GDCT
GD, ĐT
HV, TSQ
LLVT
QĐND
QUTW
QPAN
TĐ, KT
TTCĐ
TSVM
VMTD
XHCN
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Công tác tư tưởng có vai trò quan trọng hàng đầu trong sự nhiệp cách mạng
của Đảng, khi chưa có chính quyền, cũng như khi trở thành Đảng cầm quyền,
cùng với sự phát triển của sự nghiệp cách mạng, vai trò của CTTT ngày càng
tăng lên. Quân đội là một tổ chức đặc thù, hoạt động gắn liền với hoạt động đấu
tranh vũ trang và phi vũ trang, với sự hy sinh xương máu, khó khăn, gian khổ,
hao tổn về thể lực, căng thẳng về tâm lý, tinh thần, chịu áp lực rất lớn về tư
tưởng, tình cảm và sự giàng buộc bởi điều kiện rất khắt khe của lĩnh vực quân sự.
Chính vì vậy, CTTT trong quân đội có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây
dựng, củng cố nền tảng tư tưởng, hệ tư tưởng của Đảng trong quân đội, xây dựng
sức mạnh chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, xây dựng quân đội vững mạnh
về chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, xây dựng, chiến đấu của quân đội trong
mọi tình huống.
Các HV, TSQ quân đội là những trung tâm GD, ĐT, nghiên cứu khoa học
của quân đội và quốc gia trên lĩnh vực khoa học quân sự, khoa học xã hội nhân
và văn quân sự, nơi đào tạo đội ngũ cán bộ chỉ huy, chính trị, hậu cần, kỹ thuật,
chuyên môn, nghiệp vụ, nguồn nhân lực chất lượng cao của quân đội và của
quốc gia, nên vai trò của CTTT càng quan trọng. Chất lượng CTTT ở các HV,
TSQ quân đội tác động toàn diện, sâu sắc đến công tác GD, ĐT, nghiên cứu khoa
học, xây dựng Nhà trường vững mạnh. Vì vậy, nâng cao chất lượng CTTT ở các
HV, TSQ quân đội là yêu cầu khách quan, thường xuyên. Để nâng cao chất lượng
CTTT ở các HV, TSQ quân đội phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề. Trong đó, đổi
mới phương thức CTTT có ý nghĩa trực tiếp quyết định.
Trong những năm qua, Đảng ủy nhà trường, cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ
cán bộ chủ trì các cấp ở các HV, TSQ quân đội đã nhận thức sâu sắc vai trò quan
trọng của CTTT, thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao chất
lượng CTTT; cùng với đổi mới nội dung, đầu tư về cơ sở vật chất Đảng ủy, cán bộ
chủ trì, cơ quan chính trị ở các HV, TSQ quân đội, đã đặc biệt quan tâm đổi mới
phương thức CTTT gắn với toàn bộ hoạt động của nhà trường, nhờ đó chất lượng
7
CTTT đã không ngừng được nâng lên, góp phần nâng cao chất lượng GD, ĐT,
nghiên cứu khoa học, xây dựng các HV, TSQ quân đội vững mạnh toàn diện,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Tuy nhiên, việc đổi mới phương thức CTTT ở các HV, TSQ quân đội
vẫn còn những hạn chế, đồng thời đang gặp những khó khăn, thách thức
không nhỏ từ môi trường xã hội và chính môi trường quân sự. Với sự phát
triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với nền tảng
internet, kỹ thuật số…đã làm cho mọi người dân, cán bộ, chiến sĩ trong lực
lượng vũ trang có thể tiếp cận một cách nhanh chóng, với khối lượng lớn
thông tin trên toàn cầu, kể cả chính thức và không chính thức, chính diện và
phản diện… rất khó kiểm soát.
Đồng thời, các tiêu cực và tệ nạn xã hội, tham ô, tham nhũng, lãng phí, biểu
hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong cán bộ, đảng viên từ xã hội và trong quân đội; âm mưu, thủ đoạn chống
phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận… đã và đang tác động
trực tiếp đến cán bộ, giảng viên, học viên, công nhân viên, chiến sĩ ở các HV, TSQ
quân đội. Trong khi đó, yêu cầu nhiệm vụ GD, ĐT, nghiên cứu khoa học, xây dựng
chính quy, rèn luyện kỷ luật, xây dựng nhà trường vững mạnh toàn diện ngày càng
cao. Tình hình trên đòi hỏi, cùng với đổi mới về nội dung, cần phải đổi mới phương
thức CTTT, nhằm nâng cao chất lượng CTTT ở các HV, TSQ quân đội.
Từ thực tiễn đòi hỏi cần có những nghiên cứu, khảo sát, đánh giá đúng thực
trạng để có các giải pháp thực sự đổi mới phương thức CTTT ở các HV, TSQ quân
đội trong thời gian tới. Vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: “Đổi mới phương
thức công tác tư tưởng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay” làm luận
án tiến sĩ, là vấn đề cơ bản, có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn CTTT;
đổi mới phương thức CTTT ở các HV, TSQ quân đội; đề xuất những giải
pháp đổi mới phương thức CTTT ở các HV, TSQ quân đội hiện nay.
8
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, khái quát
kết quả nghiên cứu và xác định những vấn đề luận án tập trung giải quyết.
Nghiên cứu, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về phương thức
CTTT và đổi mới phương thức CTTT ở các HV, TSQ quân đội.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm đổi mới phương thức CTTT ở các HV, TSQ quân đội.
Xác định yêu cầu, đề xuất những giải pháp đổi mới phương thức
CTTT ở các HV, TSQ quân đội hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đổi mới phương thức CTTT ở các
HV, TSQ quân đội.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu bàn về các hình thức cơ bản của CTTT và
đổi mới hình thức CTTT (Công tác GDCT, TTCĐ, VHQC, xây dựng môi
trường văn hóa, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận…) ở các HV, TSQ
quân đội hiện nay.
Phạm vi khảo sát gồm: Học viện Quốc phòng; Học viện Lục quân; Học
viện Chính trị; Học viện Hậu cần; Học viện Kỹ thuật quân sự; Học viện Quân
y; Học viện Phòng không - Không quân; Học viện Biên phòng; Trường Sĩ
quan Lục quân 1; Trường Sĩ quan Lục quân 2; Trường Sĩ quan Chính trị;
Trường Sĩ quan Pháo binh; Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp; Trường Sĩ
quan Đặc công... Đối tượng điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến gồm đại diện
cán bộ, giảng viên ở các HV, TSQ quân đội.
Các số liệu, tư liệu phục vụ cho luận án được giới hạn từ năm 2015 đến
nay; các giải pháp có giá trị ứng dụng đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; về CTTT và đổi mới CTTT, lý luận trong quân đội; về xây dựng Quân đội
về chính trị; về công tác Đảng, công tác chính trị; về GD, ĐT.
9
Cơ sở thực tiễn
Toàn bộ hiện thực CTTT và đổi mới phương thức CTTT ở các HV, TSQ quân
đội; các báo cáo tổng kết CTTT, lý luận; công tác Đảng, công tác chính trị của cấp ủy
các cấp; các chỉ thị, nghị quyết, quy chế, quy định của QUTW, Bộ Quốc phòng và
TCCT về CTTT trong quân đội; kết quả điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn của tác
giả; đồng thời luận án kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công
trình khoa học, các đề tài luận án có liên quan đã được nghiệm thu, công bố.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành và chuyên ngành, trong đó, chú
trọng phương pháp kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp; phương pháp thống
kê, so sánh; điều tra, khảo sát; tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Xây dựng quan niệm đổi mới phương thức CTTT; xác định những vấn đề có
tính nguyên tắc đổi mới phương thức CTTT ở các HV, TSQ quân đội.
- Khái quát một số kinh nghiệm đổi mới phương thức CTTT ở các HV,
TSQ quân đội.
- Đề xuất một số nội dung biện pháp cụ thể, khả thi trong các giải pháp
đổi mới phương thức tiến hành CTTT ở các HV, TSQ quân đội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cụ thể hóa, làm sáng tỏ thêm lý
luận CTTT và đổi mới phương thức CTTT ở các HV, TSQ quân đội hiện nay.
Góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các
Đảng ủy Nhà trường, các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, sự chỉ huy, quản lý của
Ban Giám đốc (Ban Giám hiệu) các HV, TSQ quân đội trong đổi mới phương
thức CTTT đáp ứng yêu cầu hiện nay.
Luận án có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo phục vụ giảng dạy, học
tập môn công tác Đảng, công tác chính trị ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, các công trình của tác
giả đã công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài
luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng, lý luận
Mikhail Ivanovích Kalinin (1956), Về giáo dục cộng sản chủ nghĩa,
[87]. Cuốn sách đã nhấn mạnh phương pháp CTTT trong phát huy hiệu quả
vai trò của giáo dục đối với ý thức con người; bồi dưỡng những phẩm chất
cao quý là yếu tố quan trọng trong sự nghiệp giáo dục cộng sản. M.I.Kalinin
khẳng định: “cần phải đến với từng người, đánh giá họ, làm nổi bật những mặt
tốt của họ bởi vì không thể… chỉ giáo dục dựa trên mặt tiêu cực” [87, tr.47].
Muốn nâng cao hiệu quả CTTT, phải bảo đảm có sự am hiểu sâu sắc đặc điểm
tâm lý của đối tượng, phải khêu gợi được tính tích cực, tự giác của đối tượng
và chủ thể làm CTTT phải có trình độ, năng lực, phương pháp luận khoa học
và phẩm chất đạo đức trong sáng.
Đ.A. Vôncôgônôp (1980), Phương pháp luận công tác giáo dục tư
tưởng, [156]. Cuốn sách đã luận giải đặc trưng chính trị, tinh thần của người
chiến sĩ Xô Viết, theo đó người chiến sĩ phải có tri thức, tinh thông nghề
nghiệp để xác định phương hướng đúng đắn trước các sự kiện và xu hướng,
quy luật phát triển thế giới ngày nay. Từ đó, tác giả khẳng định vai trò của
phương pháp giáo dục tư tưởng làm cho cơ chế giáo dục tư tưởng, bảo đảm
tính khoa học và hiệu quả của CTTT.
X.I. Xurơnitrencô (1982), Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên
Xô, [160]. Cuốn sách đã phân tích toàn diện hoạt động tư tưởng của Đảng
Cộng sản Liên Xô là: “Bộ phận cấu thành hết sức quan trọng trong hoạt động
của Đảng là CTTT, mà mục đích cao nhất là biện giải về mặt lý luận đường lối
của Đảng, xây dựng con người phát triển toàn diện và có đời sống tinh thần
phong phú, không ngừng nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp của họ, phát triển
tính tích cực sáng tạo của quần chúng” [160, tr.11]. Hoạt động CTTT của Đảng
11
Cộng sản Liên Xô tuân thủ theo những nguyên tắc tính đảng; tính khoa học;
tính trung thực; sự thống nhất của lý luận và thực tiễn; kết hợp CTTT và công
tác tổ chức; quan điểm đồng bộ, hệ thống, nhất quán và liên tục; luôn nhạy bén
và tiến công; thuyết phục, rõ ràng và dễ hiểu. Trong đó, hình thức hoạt động
CTTT gồm công tác GDCT - tư tưởng, tuyên truyền và cổ động. Công tác
GDCT - tư tưởng mục đích nhằm xây dựng thế giới quan khoa học, giáo dục
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế; giáo dục thái độ CSCN đối với người
lao động; xây dựng cho họ những tiêu chuẩn đạo đức CSCN, đấu tranh chống
tàn dư của quá khứ; chống hệ tư tưởng tư sản và chủ nghĩa xét lại.
Ban Tuyên huấn Trung ương, Đảng Cộng sản Trung Quốc (2001),
Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới, [8]. Cuốn sách đã tập trung
trình bày công tác tuyên tuyền tư tưởng, lý luận, truyền thông báo chí, văn hóa
nghệ thuật, xuất bản, điều tra, nghiên cứu thông tin, xây dựng đội ngũ những
người làm công tác tuyên truyền tư tưởng... trong quá trình cải cách, mở cửa,
xây dựng CNXH, Đảng Cộng sản Trung Quốc rất coi trọng đổi mới CTTT,
nhằm nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về chủ nghĩa Mác, tư tưởng
Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình... Tích cực cải tiến hình thức,
phương pháp tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, làm cho cán bộ và
quần chúng giữ vững niềm tin đối với chủ nghĩa Mác và công cuộc xây dựng
CNXH đặc sắc Trung Quốc. Do đó, “Tăng cường và cải tiến công tác chính trị,
tư tưởng của Đảng trong tình hình mới là một việc lớn của toàn Đảng, cũng là
nhiệm vụ nặng nề về công tác tuyên truyền tư tưởng” [8, tr.86].
Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á (Ban Đối ngoại Trung ương) (2003), 25
vấn đề lý luận trong công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc [143]. Cuốn
sách đã luận giải ngắn gọn, xúc tích một số vấn đề cơ bản và quan trọng về
lý luận trong công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc: Chủ nghĩa Mác
Lênin, nhận thức đúng chủ nghĩa tư bản đương đại, nhận thức về giai cấp.
Xắc-xa-vắt Xuân-thêp-phim-ma-son (2003), Công tác tư tưởng của
Đảng nhân dân cách mạng Lào hiện nay, [159]. Luận án đã luận giải CTTT
của Đảng nhân dân cách mạng Lào:
12
Là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng, nhằm tác động có định hướng lên trạng thái và quá trình vận
động của tư tưởng theo các quy luật riêng của nó để phát triển tiềm
năng sáng tạo của tư tưởng góp phần xây dựng con người mới và
xã hội mới, mà vấn đề cơ bản là xác lập thế giới quan, hệ tư tưởng
và lập trường của giai cấp công nhân, [159, tr.18].
Tác giả nhấn mạnh đến quá trình đổi mới phương thức CTTT của Đảng
trong điều kiện mới, đòi hỏi phải kết hợp giáo dục tư tưởng với kích thích vật
chất, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, với lợi ích tập thể, xã hội. Kết hợp
CTTT với công tác tổ chức và công tác kinh tế; đổi mới mạnh mẽ hoạt động
của phương tiện thông tin đại chúng với tăng cường công tác văn hóa nghệ
thuật phù hợp với từng đối tượng, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ và có thể thực
hành trong cuộc sống.
Vương Bột Chính (2006), “Một số vấn đề về công tác tư tưởng của
Đảng Cộng sản Trung Quốc trong tình hình mới”, [20]. Bài báo đã đề cập nội
dung phát huy phương pháp truyền thống trong triển khai CTTT, trước hết là
phải kiên trì những phương pháp truyền thống tốt, cách làm tốt có hiệu quả
nhưng phải thích nghi với tình hình mới, không ngừng tìm tòi phương pháp
mới, phải “chú trọng điều hòa, hình thành nên “dàn hợp xướng” của CTTT có
sự tham gia của xã hội” [20, tr.40 - 41].
Trần Dục Dân (2006), “Bàn về đổi mới công tác chính trị tư tưởng”,
[33]. Bài báo đã nêu rõ công tác chính trị tư tưởng nên từ mô hình thuyết
giáo chuyển sang mô hình thấm sâu, nên chú trọng sự thấm sâu về mặt tư
tưởng, tiến hành giáo dục ngầm, chứ không chỉ tiến hành thuyết giáo một
cách đơn giản, cần áp dụng hình thức giáo dục linh hoạt đối với quần chúng,
để tư tưởng của quần chúng được gợi mở, tố chất được nâng cao trong quá
trình tham gia. Ngoài ra, vừa phải thuyết phục người dân bằng lý lẽ, vừa
phải thuyết phục bằng tình cảm, khiến quần chúng cảm thấy gần gũi, yên
tâm; vừa giúp đỡ người dân giải quyết vấn đề tư tưởng, vừa giải quyết các
vấn đề trong đời sống thực tế.
13
Triệu Văn Như (2008), “Làm thế nào để làm tốt công tác tư tưởng trong
thời kỳ mới”, [103]. Bài báo đã nhấn mạnh: Trong CTTT hiện nay, nhất thiết
phải xuất phát từ thực tế, giải phóng tư tưởng, tránh chủ nghĩa sách vở, giáo
điều, phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý, chỉ có như vậy
mới có thể nắm bắt chính xác tình hình, nắm bắt bản chất của các trào lưu, thực
hiện CTTT một cách có hiệu quả. Muốn làm tốt CTTT, phải “lấy con người làm
gốc”, tập trung vào con người để giải quyết mọi vấn đề, nâng cao toàn diện tố
chất tư tưởng chính trị cho con người.
Bun-đuong Cay-xỏn (2008), Chất lượng công tác tư tưởng của các
Đảng bộ tỉnh đồng bằng miền Trung nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào,
[19]. Luận án đã phân tích, luận giải những vấn đề cơ bản về chất lượng CTTT
của các Đảng bộ tỉnh đồng bằng miền Trung nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào. Tác giả cho rằng: phải thường xuyên nắm vững và đánh giá đúng thực
chất tình hình tư tưởng trong nội bộ Đảng, từ đó đổi mới nội dung, hình thức,
phương pháp CTTT phù hợp với đặc điểm tâm lý của từng đối tượng; thường
xuyên nắm vững, đánh giá đúng thực chất tình hình tư tưởng trong nội bộ Đảng
là một giải pháp quan trọng của CTTT. Đây là việc khó, đòi hỏi người làm
CTTT phải hết sức công phu, thận trọng và khoa học. Có nắm vững tình hình
tư tưởng mới giải quyết được những vấn đề tư tưởng bức xúc đang đặt ra. Nắm
vững tình hình tư tưởng là thu thập được đầy đủ những thông tin đáng tin cậy
và nguyên nhân sự biến động của tình hình tư tưởng.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến công tác tư tưởng và đổi
mới phương thức công tác tư tưởng trong quân đội do Đảng Cộng sản lãnh đạo
A.A. Ê-pi-sép (1980), Công tác tư tưởng trong các lực lượng vũ trang
Xô viết, [65]. Trong cuốn sách tác giả rút ra những vấn đề vừa có tính nguyên
tắc, vừa có tính hướng dẫn hành động, gắn liền với việc xây dựng LLVT
trong thời kỳ hiện đại. Khẳng định vai trò con người trong xây dựng quân đội.
Do đó, phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống huấn luyện và GD, ĐT về mặt tinh
thần - chính trị, tâm lý cho quân nhân. Tác giả luận bàn sâu sắc quan điểm
tổng hợp trong tiến hành CTTT, liên quan đến nội dung, hình thức, biện pháp
14
tiến hành CTTT, như: “yêu cầu phải sử dụng rộng rãi và khéo léo tất cả các
phương tiện giáo dục tư tưởng có trong tay. Đây là tất cả các hình thức học tập
chính trị; các hoạt động quần chúng; các cuộc nói chuyện riêng với từng người;
các hình thức cổ động bằng hình ảnh và hiện vật cụ thể” [65, tr.106].
Trần Khang (2005), Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ
mới [21]. Cuốn sách tập trung trình bày các vấn đề quan trọng liên quan
đến công tác tuyên tuyền tư tưởng, công tác lý luận, công tác xây dựng đội
ngũ những người làm công tác tuyên truyền tư tưởng... Nội dung cơ bản
của công tác chính trị tư tưởng được luận giải từ trang 237 - trang 245, xác
định lấy giáo dục niềm tin và lý tưởng làm cốt lõi. Phương thức, phương
pháp, gồm: có giáo dục thường xuyên hàng ngày; hướng dẫn dư luận, chủ
yếu sử dụng hình thức hướng dẫn qua báo chí, phát thanh, truyền hình,
mạng Internet...; tổ chức hoạt động; nêu gương điển hình; giáo dục thông
qua sản phẩm và hoạt động văn hóa; thông qua việc xây dựng, kiện toàn
các quy tắc, điều lệ, chế độ.
Trong vận dụng phương thức, phương pháp công tác chính trị tư tưởng,
“cần kiên trì giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, đi sâu vào cơ sở quần chúng,
điều tra tình hình mới, vấn đề mới; nghiên cứu nghiêm chỉnh đặc điểm và quy
luật công tác chính trị tư tưởng trong tình hình mới, tích cực mở ra con đường
mới, giữ lại những biện pháp cũ đã thực hiện có hiệu quả trong quá khứ để vận
dụng vào thực tế mới. Đồng thời, càng phải không ngừng nghiên cứu phương
pháp mới thích ứng” [21, tr.261].
Chương Tử Nghị (2006), Giáo trình Công tác đảng, công tác chính trị
của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc, [101]. Cuốn sách dùng trong
các học viện, nhà trường trong thời kỳ mới, gồm 10 phần, chia làm 47
chương. Tác giả cho rằng: “vấn đề tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ vô cùng
rộng lớn và phức tạp, đặc biệt nó càng nổi bật vào thời kỳ có biến đổi lớn”
[101, tr.48]. Từ những yêu cầu, tác giả đòi hỏi: “Phải tăng cường công tác
chính trị, tăng cường về mặt tư tưởng, tổ chức mới có thể đảm bảo được
thực hiện”. Cuốn sách cũng đã đề cập đến giải pháp:
15
Làm tốt CTTT đối với những cá nhân cá biệt, đặc biệt là công tác
làm chuyển biến những chiến sĩ chậm tiến. Đối với những đồng
chí này, càng cần được chú ý giáo dục hơn, nỗ lực kiên trì không
mệt mỏi; phải căn cứ vào thực tế để khẳng định sở trường và ưu
điểm của họ, thực sự đi sâu tìm hiểu thế giới nội tâm của họ,
quan tâm gần gũi họ, lấy tình thương làm họ cảm động, lấy lý lẽ
làm họ thấu hiểu, để có thể làm họ phát huy những nhân tố tích
cực, khắc phục những nhân tố tiêu cực, phấn đấu để tiến bộ; cần
phải dùng phương châm ngăn trước, ngừa sau, chữa bệnh cứu
người để đối xử với các đồng chí đã phạm sai lầm, [101, tr.52].
Khăm-phong Say-nha-phôn (2006), Nâng cao bản lĩnh chính trị của
đội ngũ cán bộ ở Học viện Quốc phòng Cay Xỏn Phôm Vi Hản, Quân đội
nhân dân Lào hiện nay [110]. Luận án xác định các yếu tố cấu thành bản lĩnh
chính trị của đội ngũ cán bộ ở Học viện Quốc phòng: Là hệ thống tri thức của
đội ngũ cán bộ bao gồm toàn bộ những hiểu biết, những tri thức tự nhiên, xã
hội và con người; những kinh nghiệm trong lao động công tác của mỗi người
cán bộ trong thực tiễn; là tình cảm cách mạng gắn liền với ý chí cộng sản của
đội ngũ cán bộ. Là thế giới quan khoa học, niềm tin cộng sản của đội ngũ cán
bộ; là thái độ và hành vi giải quyết một cách nhạy bén, chính xác các vấn đề
chính trị thực tiễn phù hợp với các mối quan hệ và hoàn cảnh cụ thể của đội
ngũ cán bộ. Trong đó, hệ thống tri thức là yếu tố cơ bản cấu thành bản lĩnh
chính trị của đội ngũ cán bộ. Do đó, cần nâng cao chất lượng công tác GDCT,
tư tưởng cho đội ngũ cán bộ. Thông qua những hình thức truyền thống đã
phát huy hiệu quả tốt, cần mở rộng các hình thức, biện pháp khác, như: tổ
chức các diễn đàn, hội thảo khoa học…
Thim-sảo Đuông-chăm-pa (2014), Nâng cao chất lượng giáo dục
chính trị ở các trung đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Lào hiện nay [62].
Tác giả đã khẳng định công tác GDCT “có vai trò đặc biệt quan trọng góp
phần xây dựng trận địa chính trị, tư tưởng vững chắc ở các trung đoàn bộ
binh QĐND Lào” [62, tr.77]. Nội dung, hình thức GDCT ở các trung đoàn
16
bộ binh QĐND Lào rất phong phú, đa dạng, song hiện nay cần coi trọng
giáo dục truyền thống, phổ biến giáo dục pháp luật, giáo dục thông qua hoạt
động thi đua, các cuộc vận động, quán triệt nhiệm vụ, huấn luyện chiến đấu,
xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật. Trước hết, cấp ủy, cán bộ các cấp cần
nắm vững nội dung, yêu cầu GDCT, đề cao trách nhiệm trong tổ chức thực
hiện đổi mới chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp GDCT; coi
trọng bồi dưỡng kiến thức, năng lực sư phạm cho đội ngũ cán bộ giảng dạy
chính trị và phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong nâng cao
chất lượng công tác GDCT.
1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng, lý luận và đổi
mới công tác tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đào Duy Tùng (1999), Một số vấn đề về công tác tư tưởng [147]. Cuốn
sách xác định CTTT là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt
động cách mạng của Đảng. Bao gồm công tác lý luận, công tác tuyên truyền, công
tác cổ động. Vai trò CTTT: “là vũ khí sắc bén trong toàn bộ quá trình hoạt động
của Đảng. Nó đóng vai trò to lớn trong việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức” [147, tr.15]. Theo tác giả đánh giá CTTT phải gắn chặt
với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, với phong trào cách mạng của quần chúng,
đi sâu vào từng đối tượng, kịp thời giải đáp những vấn đề nảy sinh trong cuộc
sống, góp phần thúc đẩy hai nhiệm vụ chiến lược, bảo đảm cho chủ nghĩa Mác Lênin ăn sâu vào cuộc sống, trở thành nếp sống của xã hội, chiếm ưu thế tuyệt đối
trong đời sống chính trị và tinh thần của toàn xã hội.
Do đó, để nâng cao chất lượng CTTT của Đảng, trước hết phải nâng
cao chất lượng nội dung tuyên truyền giáo dục; tiếp theo coi trọng cải tiến
hình thức, phương pháp hiện có, cần tìm tòi những hình thức, phương pháp
mới sinh động, khắc phục bệnh hình thức, đơn điệu, nghèo nàn, kém linh
hoạt. Tiếp đến là đội ngũ những người làm CTTT, cần bồi dưỡng phát huy đội
ngũ này một cách cơ bản và có hệ thống, đồng thời cải tiến phong cách lãnh
đạo, quản lý và tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CTTT, góp phần xây
dựng con người mới, phát triển toàn diện là tiêu chuẩn cơ bản.
17
Hồng Vinh (2006), Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng [154]. Trong
cuốn sách tác giả đã nghiên cứu phát triển lý luận CTTT của Hồ Chí Minh,
như: nghiên cứu, giáo dục lý luận, tuyên truyền, cổ động, báo chí, CTTT
trong các tầng lớp xã hội khác nhau; phương pháp và nghệ thuật làm CTTT
của Hồ Chí Minh. Các tác giả đã đề cập đến phát huy hiệu quả di sản tư tưởng
Hồ Chí Minh về CTTT trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Danh Tiên (2010), Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng trong
thời kỳ đổi mới [119]. Trong cuốn sách tác giả khẳng định quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng CTTT, góp phần xây
dựng cương lĩnh, đường lối cách mạng, xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng, tạo đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế,
trong nước cùng những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, thủ đoạn
chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, đòi hỏi Đảng phải kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH;
kiên định sự lãnh đạo của Đảng và đường lối đổi mới; chống suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; chủ động đấu tranh
với các quan điểm sai trái, thù địch. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức
lãnh đạo CTTT. Tăng cường tính chiến đấu của CTTT nhằm đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của sự nghiệp phát triển đất nước trong tình hình mới.
Đào Duy Quát (2010), Công tác tư tưởng [106]. Trong cuốn sách tác
giả đã đưa ra khái niệm CTTT là: “Hoạt động có mục đích của Đảng Cộng
sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng XHCN thành hệ tư
tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, động viên, cổ vũ
tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ chế độ XHCN” [106, tr.9-10]. Vai trò CTTT trong sự nghiệp đổi mới,
được tác giả luận giải từ trang 68 đến trang 80, khẳng định CTTT có vai trò
quan trọng tạo động lực cho sự nghiệp đổi mới, góp phần ổn định chính trị
và định hướng, thúc đẩy nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và
phát huy nhân tố con người. Phương pháp CTTT “là hệ thống các cách tác
động tư tưởng của chủ thể và các cách tiếp nhận tư tưởng của đối tượng,
18
nhằm thực hiện mục đích của CTTT” [106, tr.239]. Trong đó, phương pháp
CTTT được chia thành nhiều nhóm: Nhóm phương pháp dùng lời nói; nhóm
phương pháp trực quan; nhóm phương pháp thực tiễn. Hiện nay, CTTT
thường sử dụng các phương pháp: đối thoại; thuyết trình; trực quan; ám thị;
nêu gương và phương pháp cá nhân.
Phạm Tất Thắng (2010), Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [114]. Trong cuốn sách, nhóm tác giả đã
phân tích làm rõ các khái niệm về tư tưởng, lý luận và CTTT, lý luận. Đi sâu
đánh giá thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với CTTT trong tình hình mới,
như: niềm tin vào những giá trị tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
những vấn đề nghịch lý giữa lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH; yêu cầu
phát huy dân chủ, tự do ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác biệt, tư duy
phản biện trong xã hội với việc giữ vững kỷ luật phát ngôn, chống lợi dụng tự
do, dân chủ để có những phát ngôn, hành vi sai trái…
Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp đổi mới CTTT, lý luận của
Đảng, nhấn mạnh: phải xây dựng và hoàn thiện chiến lược về CTTT để có
định hướng rõ ràng và cơ bản trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện; coi trọng
tính khoa học, đồng thời nâng cao “sức đề kháng” thông tin cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân; đổi mới nội dung, cách thức triển khai công tác tư tưởng;
chủ động, thường xuyên nắm bắt tư tưởng, thái độ của các tầng lớp trong xã
hội; mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại và đẩy mạnh
giao lưu, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tư tưởng.
Trần Thị Anh Đào (2010), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ
làm công tác tư tưởng [60]. Trong cuốn sách, tác giả đã trình bày hệ khái
niệm CTTT và phân tích nội dung, phương thức hoạt động của CTTT, đưa ra
hệ thống giải pháp nhằm đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả CTTT. Cuốn
sách cũng đề cập đến phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ làm CTTT.
Các hình thái CTTT có cùng một nội dung, chung một mục đích tác động đến
ý thức, tính tích cực hành động của quần chúng, nhưng hình thức và phương
pháp tác động khác nhau. Đối tượng tác động của CTTT bao gồm giai cấp,
19
các tầng lớp nhân dân, các cộng đồng dân tộc, các tập thể và cá nhân trong
toàn xã hội. Đặc biệt tác giả nhấn mạnh: Phương thức nâng cao hiệu quả
CTTT phải không ngừng đổi mới hình thức, phương pháp CTTT, như tăng
cường phương pháp đối thoại, đa dạng hóa phương thức giáo dục truyền
thống, khắc phục hạn chế của xu hướng phi đại chúng thông tin đại chúng và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với CTTT.
Phạm Văn Linh (2016), Một số vấn đề đổi mới nội dung, phương thức
công tác tuyên giáo trong tình hình mới [91]. Tác giả khẳng định đổi mới nội
dung, phương thức công tác tuyên giáo sau mỗi nhiệm kỳ là một vấn đề lớn,
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Làm rõ nội dung, phương thức,
phương châm, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả công tác tuyên
giáo là yêu cầu không thể thiếu, để bảo đảm việc thực hiện công tác tuyên
giáo trong điều kiện mới một cách khoa học, hiệu quả hơn. Công tác tuyên
giáo có đối tượng là con người, hướng tới con người, làm thay đổi nhận thức,
hành động để đạt đến mục tiêu xác định. Trong bất cứ xã hội có giai cấp nào,
công tác tuyên truyền đều mang tính chính trị, mang tính giai cấp. Trên cơ sở
đó, phân tích, làm rõ thực trạng về nội dung, phương thức công tác lý luận
chính trị, tuyên truyền, cổ động và những vấn đề đặt ra đổi mới nội dung,
phương thức công tác trước yêu cầu mới hiện nay.
Lương Khắc Hiếu (2016), Đổi mới phương thức thực hiện các giải
pháp công tác tư tưởng nhằm khắc phục suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên hiện nay [67]. Tác giả khẳng định suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên là những
vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng. Do đó, để khắc phục tình trạng này, trước hết
phải tăng cường và đổi mới phương thức thực hiện các giải pháp CTTT. Tiếp
tục triển khai có hiệu quả nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII của
Đảng, cùng với đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
20
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng của Đảng
trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Trần Xuân Trường (2000), Tác động của những biến đổi kinh tế - xã
hội đến nhận thức tư tưởng của cán bộ quân đội và một số vấn đề đổi mới
công tác tư tưởng, tổ chức trong quân đội ta hiện nay [144]. Tác giả đã
phân tích những xu hướng nhận thức chính trị, tư tưởng, tâm lý của sĩ quan
quân đội trước những biến đổi kinh tế - xã hội và cơ cấu xã hội - giai cấp ở
nước ta giai đoạn đầu đổi mới. Tác giả đã đề xuất một số vấn đề đổi mới
nội dung, phương thức CTTT và tổ chức trong quân đội ta.
Trong đổi mới giáo dục, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng và
chính trị của quân đội, thì đổi mới từ phía những tổ chức và con người đi
giáo dục là khâu quyết định. Các tác giả cho rằng một nội dung quan trọng
là đổi mới phương pháp giáo dục và phải đổi mới từ phía người tiếp nhận
sự giáo dục, xây dựng lại động cơ học tập, khắc phục thái độ thờ ơ với vấn
đề chính trị, thời sự, lười học tập chính trị.
Mai Hồng Bỉnh (2005), Tăng cường công tác tư tưởng của Đảng trong
Quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới [16]. Các tác giả
xác định đổi mới phương pháp là vấn đề quan trọng góp phần tăng cường
CTTT của Đảng. Đối với công tác GDCT, điều chủ yếu của phương pháp là
khơi gợi được trí thông minh, kích thích sự suy nghĩ, tìm tòi, truyền thụ cho
người học phương pháp tư duy khoa học, độc lập, sáng tạo, tự giáo dục, tự
phát triển. Cuốn sách đã tập trung bàn sâu một số vấn đề về phương pháp
CTTT như: Phát huy tự do tư tưởng, đề cao tự phê bình và phê bình trên cơ sở
dân chủ và bằng phương pháp dân chủ; phát huy vai trò của dư luận xã hội;
tăng cường đối thoại, phát huy vai trò tự giáo dục.
Lê Minh Vụ (2008), Một số vấn đề về công tác tư tưởng, lý luận trong
quân đội trước tình hình mới [158]. Tác giả đã nghiên cứu tổng hợp cả quá
trình hình thành, phát triển những thành tựu, kinh nghiệm CTTT trong quân
đội từ khi thành lập và những vấn đề cấp bách về CTTT, lý luận trong quân
đội hiện nay. Một trong những vấn đề quan trọng được đề cập là tiếp tục xây
21
dựng đội ngũ cán bộ làm CTTT, lý luận trước những yêu cầu mới: “là những
người kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, có bản lĩnh chính
trị vững vàng trong cuộc sống và trong công việc của mình” [141, tr.273]. Để làm
tốt hơn việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm CTTT, lý luận ở các đơn vị cần tập
trung một số vấn đề, như: bồi dưỡng, nâng cao ý thức, trách nhiệm chính trị của
mọi cán bộ, chiến sĩ đối với CTTT, lý luận; rèn luyện phương pháp, kỹ năng nắm
tư tưởng, giải quyết tư tưởng ngay từ cơ sở. Cán bộ chủ trì các cấp, nhất là cán bộ
chính trị phải đề cao trách nhiệm trong CTTT nói chung và trong bồi dưỡng cán
bộ làm CTTT nói riêng. Cần có một cơ chế phối hợp giữa nhà trường và đơn vị cơ
sở nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm CTTT.
Đinh Xuân Dũng (2016), Công tác tư tưởng - văn hóa trong xây dựng
quân đội về chính trị [36]. Tác giả đã nhấn mạnh: sức sống chiến đấu của quân
đội kiểu mới gồm nhiều nhân tố, song nhân tố chính trị - tinh thần bao giờ cũng
là nhân tố căn bản nhất, có ý nghĩa quyết định nhất, những phẩm chất chính trị tinh thần không thể tự phát hình thành và phát triển mà phải trải qua quá trình
xây dựng, bồi dưỡng trong hoạt động thực tiễn chiến đấu, công tác và lao động
sản xuất của quân đội. CTTT trong quân đội là một “binh chủng” đặc biệt đã góp
phần trực tiếp xây dựng bản lĩnh chính trị của quân đội, đồng thời nuôi dưỡng,
đào tạo và xây dựng các thế hệ những người chiến sĩ cách mạng của Đảng, của
dân tộc và của nhân dân. Nội dung cuốn sách là kết quả các bài viết của tác giả
gắn liền với quá trình hoạt động thực tiễn những năm tháng gắn bó với CTTT
trong quân đội, thể hiện được tính khoa học, tính lý luận và tính thực tiễn phong
phú, góp phần bổ sung những kinh nghiệm hoạt động của CTTT trong quân đội
trước những yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại trong thời kỳ mới.
Lương Cường (2017), “Tăng cường công tác tư tưởng đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ của Quân đội trong tình hình mới” [31]. Bài báo xác định: “Công
tác tư tưởng trong Quân đội là một bộ phận công tác tư tưởng của Đảng; một
mặt công tác trọng yếu, hàng đầu của công tác đảng, công tác chính trị. Thực
hiện tốt công tác này, sẽ trực tiếp góp phần giữ vững và tăng cường sự lãnh
- Xem thêm -