Hành trình yêu nước của Hồ Chí Minh
“Chủ nghĩa yêu nước nhen nhóm trong Nguyễn Tất Thành từ giai đoạn tuổi thơ ở
Huế. Và khi cùng cha quay trở lại Kinh thành hơn 10 năm sau, 6/1906, lòng yêu
nước ấy mới thật sự bùng lên”- Sử gia William Duike viết về Hồ Chí Minh.
LTS: "Một người yêu nước mà đã từ lâu đeo đuổi lý tưởng phụng sự đất nước",
chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự nhận mình như thế. Cho dù đã được thế giới công nhận
là lãnh tụ cộng sản kiệt xuất có tầm ảnh hưởng to lớn trong thế kỷ 20, bác Hồ vẫn
luôn chỉ giản dị nhận mình như một người yêu nước.
Sử gia William Duiker tác giả cuốn sách nổi tiếng về cuộc đời Hồ Chí Minh từng
nhận xét: "Trái với các nhân vật cách mạng kiệt xuất khác, Hồ Chí Minh rất ít quan
tâm đến ý thức hệ hay tham gia tranh luận trên báo chí mà chủ yếu ông tập trung
suy nghĩ và hành động của chính mình vào những vấn đề thực tiễn như làm thế nào
giải phóng đất nước ông và các xã hội thuộc địa khác thoát khỏi chủ nghĩa đế quốc
phương Tây."
Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của bác Hồ cũng chính là hành trình lần theo những
khát vọng và bước đi yêu nước của Người. Nhân dịp kỷ niệm 120 năm ngày sinh
của Bác, Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu hành trình ấy.
Lòng yêu nước của Hồ Chí Minh khởi nguồn từ truyền thống gia đình. Nguời cha,
cụ Nguyễn Sinh Sắc đã đỗ tới phó Bảng nhưng ban đầu đã từ chối ra làm quan cho
triều đình bù nhìn. Ông quyết định ở lại làng Kim Liên mở lớp dạy học.
Cậu bé Nguyễn Tất Thành vừa học trong lớp với cha và một số thày giáo khác, vừa
tham gia các hoạt động bên ngoài. Nhà của cậu bé nằm cạnh một lò rèn và người
thợ rèn tên Diễn có tài kể chuyện đặc biệt, cậu bé Thành thường cùng chúng bạn tụ
tập ở nhà người thợ rèn để nghe nhiều câu chuyện về các hoạt động yêu nước đánh
đuổi giặc Pháp của nhóm Cần Vương. Sử gia Duiker kể:
"Cùng với những thanh niên khác, Thành được nghe những chiến công hiển hách
như Lê Lợi và Mai Thúc Loan, những tấm gương đứng lên chiến đấu chống quân
xâm lược. Thành xúc động lắng nghe câu chuyện ông Vương Thúc Mậu tự vẫn và
chuyện nhà lãnh đạo phong trào Cần Vương Phan Đình Phùng đã chết bởi bệnh lỵ
vào năm 1895 do thiếu thốn lương thảo và thuốc men khi phải đưa quân lùi sâu vào
rừng núi dọc theo biên giới Lào. Thành cũng rất xúc động khi được biết một số
người trong gia đình bên họ nội của cha mình đã hết lòng cho sự nghiệp cứu
nước."
Khi ấy, cậu bé Nguyễn Tất Thành mới có 11 tuổi. Ở cái tuổi đa số trẻ em còn ham
đánh bi đánh đáo ấy, Nguyễn Tất Thành đã có những ham thích lớn lao hơn hẳn:
tìm hiểu về lịch sử nước nhà.
"Thành rất khó chịu khi phát hiện ra rằng hầu hết những cuốn sách cổ điển đang
được sử dụng ở làng đều kể về lịch sử Trung hoa thay vì lịch sử Việt Nam và vì
vậy, ông đã quyết định đi bộ đến thành phố Vinh để mua những cuốn sách nói về
lịch sử đất nước mình. Khi thấy rằng những cuốn sách đó quá đắt tiền, Thành đã cố
ghi nhớ những nội dung chính để có thể kể lại cho bạn bè khi về làng."
Những biểu hiện của lòng yêu nước nồng nàn của cậu bé Thành thậm chí còn sớm
hơn thời điểm năm 1901. Từ năm 1895, khi theo cha mẹ vào Huế để ông Nguyễn
Sinh Sắc ôn thi Hội, cậu bé 5 tuổi Nguyễn Sinh Cung (tên khi ấy của bác Hồ) đã có
những cảm nhận đầu tiên về đất nước dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Với những
quan sát của một đứa trẻ, cậu "tò mò không hiểu tại sao ngay cả những quan lại
danh tiếng của Việt Nam cũng đều phải xun xoe quỵ lụy tất cả những người châu
Âu." Từ ấy, cậu bé: "trở nên không thích người nước ngoài khi nghe thấy có nhiều
người Pháp đối xử tồi tệ với những người lao động làm thuê..."
Chủ nghĩa yêu nước nhen nhóm trong Nguyễn Tất Thành từ giai đoạn tuổi thơ ở
Huế. Và khi cùng cha quay trở lại Kinh thành hơn 10 năm sau, 6/1906, lòng yêu
nước ấy mới thật sự bùng lên. Mùa thu năm 1907, Nguyễn Tất Thành thi đỗ vào
trường Quốc học, cấp học cao nhất thời bấy giờ trong hệ thống trường Pháp Việt.
Những mô tả về cậu thiếu niên Nguyễn Tất Thành thời ấy rất ngộ nghĩnh: "Với đôi
guốc mộc, quần áo bà ba nâu và mái tóc dài, rõ ràng Thành là hình ảnh của một
người nông dân trong con mắt các bạn học sành điệu hơn - nhiều người trong số họ
mặc áo dài the, quần trắng theo lối truyền thống hoặc mặc âu phục có bày bán tại
trường - nên Thành đã nhanh chóng quyết định cắt kiểu tóc ngắn hợp thời và mặc
quần áo giống như các bạn để khỏi bị chế nhạo..."
Tác phong bộc trực và nông dân của Nguyễn Tất Thành bị một số bạn học thượng
lưu chế nhạo nhưng lực học của anh thì mọi người đều nể phục, chỉ một năm, anh
đã hoàn thành khóa học của cả hai năm. Đặc biệt, quan điểm chính trị của Thành
đặc biệt cấp tiến và yêu nước:
"Sau mỗi buổi học, Thành thường lui tới bờ sông, nơi thường có những đám đông
tụ tập tranh luận những tin tức mới nhất về ông Phan Bội Châu và cùng nhau đọc
bài thơ "á Tế á" của ông, ngợi ca một châu á không có sự thống trị của người da
trắng và kêu gọi mọi người tranh đấu vì độc lập dân tộc."
Nguyễn Tất Thành bắt đầu tiếp cận với những quan điểm chính trị cấp tiến nhờ trải
nghiệm và đọc những cuốn sách của các nhà cải lương Pháp, Trung Hoa, Việt Nam
ở nhà thày giáo Hoàng Thông. Thái độ chỉ trích chính quyền thực dân phong kiến
của chàng thiếu niên càng ngày càng mãnh mẽ và đã không ít lần anh công khai
đứng ở sân trường phê phán sự nhu nhược của triều đình Huế và đòi bỏ chế độ sưu
cao thuế nặng lên nông dân. Thành đã bị trường gọi lên khiển trách vì điều đó.
Không dừng lại, hưởng ứng lời kêu gọi tất cả người Việt Nam cắt tóc để phản đối
chế độ phong kiến cũ của nhà yêu nước Nguyễn Quyến. "Thành, lúc này bắt đầu
bỏ học cùng bạn bè đi khắp các đám đông cắt tóc cho những khách qua đường cho
dù chẳng có mấy ai yêu cầu. Nhiều năm sau. Hồ Chí Minh vẫn còn nhớ bài ca của
họ:
Lược bên tay trái
Kéo bên tay phải
Cắt! Cắt!
Cắt đầu ngu dốt
Cắt óc đần độn
Cắt! Cắt!"
Tuy vậy, mãi tới tháng 5 năm 1908, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành tròn 18
tuổi mới chính thức tham gia hoạt động chính trị đầu tiên. Thời gian đó, nông dân
tràn vào kinh thành Huế để phản đối sưu cao thuế nặng, họ bắt cả tri huyện và nhốt
vào cũi giải đến gặp quan Pháp ở kinh thành. Nguyễn Tất Thành đã đi theo đoàn
biểu tình và trở thành phiên dịch.
"Bất ngờ viên sĩ quan phụ trách ra lệnh cho toán lính xông tới dùng gậy đẩy để đẩy
lùi đám đông. Thành đã chen lên hàng đầu và Thành đã bị trúng vài gậy khi đang
cố gắng phiên dịch các yêu sách của những người nông dân cho nhà cầm quyền.
Khi đám đông tiếp tục tràn lên, Thống sứ Levecque đã đồng ý cho phép một đại
diện của những người biểu tình vào phòng làm việc của mình để thương thuyết các
điều kiện để cho đám đông có thể giải tán. Thành đã trở thành phiên dịch."
Quân Pháp sau đó đã bắn vào đoàn biểu tình còn "kẻ quấy rối" Nguyễn Tất Thành
bị buộc phải thôi học và từ đó, bắt đầu bị liệt vào sổ đen của cảnh sát. Trốn tránh
lực lượng an ninh, anh bôn ba vào Nam và tới đầu năm 1910, anh tới Phan Thiết để
dạy Hán ngữ và chữ Quốc Ngữ cho một trường học ở đây. Những bài giảng của
Nguyễn Tất Thành ngày đó ngập tràn lòng yêu nước, sử gia Duiker viết:
"Thành đưa ra những chủ đề về lịch sử Việt Nam trong các bài giảng của mình và
đọc những câu thơ trong các bài thơ nổi tiếng như "Bài ca hớt tóc" và bài thơ "áTế-á" của Phan Bội Châu. Bắt đầu buổi học, Thành yêu cầu các học sinh đọc
những câu thơ trong hợp tuyển thơ ca của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục (tạm
dịch ý chính).
Trời xanh có thấu cho chăng
dân ta đang phải sống
trong đói khát, bần hàn
nặng gông cùm xiềng xích
do bóc lột ngoại bang."
Từ Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn và từ đó, anh đã xin làm phụ bếp
trên một con tàu để có thể sang Pháp. Giai đoạn niên thiếu của Hồ Chí Minh còn
có nhiều tình tiết chưa hoàn toàn rõ ràng nhưng "điều không có gì đáng nghi ngờ là
khi rời Sài Gòn vào mùa hè năm 1911, ông là một người lòng tràn đầy tình yêu tổ
quốc cũng như thấu hiểu sâu sắc về sự bất công mà chính quyền thuộc địa đã gây
ra cho đồng bào của ông. Đối với Thành, dường như không có cách nào khác để
giải quyết vấn đề này ở trong nước. Có lẽ các điều đó có thể tìm thấy ở nước
ngoài."
"Con đường của Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu
nước, sự phẫn nỗ khi thấy đồng bào anh bị hệ thống tư bản chủ nghĩa mang tính đế
quốc bóc lột và chèn ép"- Sử gia William Duiker.
Nguyễn Tất Thành đã nói như vậy trong những ngày tháng bôn ba ở Pháp và nhiều
nước khác. Mọi hành động và việc làm của anh trong giai đoạn này đều xuất phát
từ khát vọng giành độc lập cho dân tộc. Ngay khi vừa đặt chân tới Pháp, Nguyễn
Tất Thành đã tự chất vấn khẩu hiệu "khai hóa văn minh" của người Pháp với đồng
bào anh.
"Lúc đó cũng như bây giờ, Marseille vẫn là một thành phố nhộn nhạo, đường phố
đầy những thủy thủ, ma-cà-bông, lái buôn và những tên trộm cắp thuộc tất cả các
dân tộc. Trông thấy các cô gái điếm Pháp lên tàu với các thủy thủ, Thành đã nói
với bạn: "Tại sao người Pháp không truyền bá văn minh cho chính đồng bào của
họ trước khi họ làm như vậy với chúng ta?"
Sang những nước thuộc địa khác ở Châu Phi và chứng kiến những người da đen bị
chết chìm giữa biển khơi khi thực dân Pháp bắt họ phải bơi ra những con tàu giữa
cơn bão tố, Nguyễn Tất Thành nhớ tới đồng bào mình ở quê hương đang có hoàn
cảnh tương tự.
"Ở trong nước, tôi đã chứng kiến cảnh này ở Phan Rang. Người Pháp phá lên cười
trong khi đồng bào tôi bị chết đuối vì họ. Đối với những tên thực dân tại thuộc địa
Pháp, cuộc sống của một người châu á hay châu Phi không đáng giá một đồng xu".
Yêu nước là một tình cảm phổ biến của con người ở đa số các dân tộc, nhưng "coi
nỗi thống khổ của đất nước và đồng bào như một nỗi lo luôn canh cánh hơn bất kỳ
sự nghiệp nào khác" thì chỉ có ở một số người đặc biệt, tiêu biểu trong số ấy là
Nguyễn Tất Thành.
Những người quen biết anh tại nước Pháp trong thời gian ấy đều nhận xét Thành là
"chàng trai rụt rè, khiêm tốn, rất nhã nhặn, ham học hỏi" nhưng "có một đặc điểm
thể chất đặc biệt, chứng tỏ Thành không phải là một con người bình thường - đôi
mắt đen của anh luôn rực sáng và đi sâu vào tâm hồn người mỗi khi nói chuyện."
Lòng yêu nước đã biến thành quyết tâm sắt đá tìm cách giải phóng dân tộc và đồng
bào khỏi ách thống trị thực dân. Lịch sử còn ghi lại bài thơ trong bức thiệp mà
Nguyễn Tất Thành đã gửi Phan Chu Trinh trong những ngày ở Pháp:
"Trước khó khăn
như biển rộng, trời cao,
Với quyết tâm noi gương anh hào,
Cháu hứa tranh đấu cho đất nước".
Hoạt động chính trị để giải phóng dân tộc
Nguyễn Tất Thành là một người Việt hoạt động chính trị nổi tiếng ở Pháp từ khi
anh gửi yêu sách 8 điểm tới Hội nghị hoà bình Versailles với cái tên Nguyễn Ái
Quốc dưới danh nghĩa "Hội những người yêu nước An Nam".
Sử gia Duiker kể lại nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc khi cố gắng thu hút sự chú ý của
các nước lớn vào bản yêu sách này:
"Thành cũng đã đi dọc các hành lang trong Cung điện Versailles để gửi bản yêu
sách tới các phái đoàn của các cường quốc lớn. Để bảo đảm bản yêu sách phát huy
tác dụng cao nhất, Thành đã thu xếp xin đăng các yêu sách này trên tờ Nhân đạo,
một tờ báo cấp tiến ủng hộ chủ nghĩa xã hội. Thành cũng ghi nhận đã sử dụng tiền
ủng hộ của các thành viên của Tổng Liên đoàn Lao động để in thêm sáu nghìn bản
và phân phát trên các đường phố Paris."
Nổi danh sau khi đệ trình bản yêu sách 8 điểm, Nguyễn Ái Quốc được gia nhập
Đảng Xã Hội Pháp (06/1919). Con đường của anh đến với chủ nghĩa xã hội bắt
nguồn từ chủ nghĩa yêu nước, sự phẫn nỗ khi thấy đồng bào anh bị hệ thống tư bản
chủ nghĩa mang tính đế quốc bóc lột và chèn ép. Trong mọi cuộc họp với các nhóm
thuộc Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc luôn chỉ nói đến vấn đề thuộc địa và
kêu gọi giải phóng cho các dân tộc thuộc địa. Không nhận được sự hưởng ứng từ
phía những người xã hội Pháp, có lần Nguyễn Ái Quốc đã to tiếng:
"Nếu như các anh không tố cáo chủ nghĩa thực dân, nếu như các anh không đứng
về phía các dân tộc thuộc địa, thì làm sao các anh có thể làm cách mạng được?".
Nguyễn Ái Quốc đi theo con đường của Lenin, ủng hộ việc Đảng Xã hội Pháp gia
nhập Quốc tế cộng sản của Lenin cũng vì Lenin ủng hộ việc giải phóng các dân tộc
thuộc địa. Lời kêu gọi tại Đại hội Tours cuối tháng 12 năm 1920 đã nói lên trọn
vẹn động cơ và mục tiêu chính trị của Nguyễn Ái Quốc: cứu dân tộc.
"Nhân danh toàn nhân loại, nhân danh tất cả những người theo phe xã hội chủ
nghĩa cả cánh tả và cánh hữu, chúng tôi kêu gọi các bạn, các đồng chí, hãy cứu lấy
chúng tôi".
Làm báo để truyền bá tư tưởng cứu nước
Trong thời gian ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc rất tích cực làm báo. Bài báo đầu tiên
của anh có tiêu đề "Vấn đề bản địa" được đăng trên tờ Nhân đạo ngày 02/08/1919,
chỉ trích chính sách của người Pháp ở Đông Dương, đây cũng là chủ đề xuyên suốt
trong các bài báo của Nguyễn Ái Quốc sau này.
Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc thành lập hẳn một tờ báo riêng có tên "Người Cùng
Khổ" để tố cáo sự đàn áp và bóc lột của thực dân. Sử gia Duiker viết:
"Trong những năm sau đó, nhiều nhà nghiên cứu cảm thấy ngỡ ngàng khi thấy một
người có sức thu hút cá nhân mạnh mẽ và một nhân cách tinh tế như vậy lại có một
lối viết thô mộc và nặng lời đến thế. Tuy nhiên, đây chính là điểm mấu chốt của
tính cách của ông và hiệu quả chính trị trong nhiều năm. Không giống như nhiều
nhà lãnh đạo Mác-xít khác, Nguyễn Ái Quốc thấy độc giả của mình bao gồm chủ
yếu không phải là trí thức mà là dân thường như công nhân, nông dân, binh lính và
công chức. Ông không mong muốn gây ấn tượng đối với độc giả bằng cách phô
trương trí tuệ uyên bác của mình mà là thông qua cách viết đơn giản và sinh động,
ông cố gắng thuyết phục họ."
Báo chí là phương tiện của Nguyễn Ái Quốc trong cuộc đấu tranh chính trị mà mục
tiêu cuối cùng đã được ông khẳng định rõ ràng trong cuộc gặp với Bộ trưởng thuộc
địa Pháp năm 1922.
Trước câu hỏi: "Ông thấy cần bất cứ điều gì, tôi luôn sẵn sàng giúp ông. Bây giờ
chúng ta đã biết nhau, ông có thể trình bày trực tiếp với tôi". Nguyễn Ái Quốc
đứng dậy và cảm ơn ông Bộ trưởng rồi nói "Mục tiêu chính của cuộc đời tôi và cái
mà tôi cần nhất là tự do cho đồng bào tôi. Bây giờ, tôi có thể về nhà được chứ?".
Đoạn tuyệt với chủ nghĩa tiến hóa
Mặc dù sống nhiều năm trên đất Pháp nhưng Nguyễn Ái Quốc đã có một quan
điểm chính trị khác biệt so với một số nhà yêu nước khác như Phan Chu Trinh.
Trong khi Phan Chu Trinh muốn đấu tranh cải biến xã hội theo con đường tiến
hóa, vẫn dựa một phần vào nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc lại ngày càng có xu
hướng đi theo con đường cách mạng của Lenin. Ông nói:
"Tại sao 20 triệu đồng bào ta lại không làm gì để buộc chính phủ Pháp phải đối xử
với chúng ta như người đối với người? Chúng ta là con người và chúng ta phải
sống như con người. Bất kỳ ai không muốn đối xử với chúng ta như vậy đều là kẻ
thù của chúng ta. Chúng ta không muốn sống chung với họ trên trái đất này. Nếu
họ không muốn sống chung với ta như với con người, thì cuộc sống của chúng ta
sẽ bị xúc phạm và trở rất nhục nhã trên trái đất này".
Quan điểm cách mạng của Nguyễn Ái Quốc cũng gặp phải không ít sự phản đối.
Ngay chính Phan Chu Trinh cũng đã từng phản biện Nguyễn Ái Quốc rằng: "Anh
muốn 20 triệu đồng bào của chúng ta phải làm gì khi mà trong tay họ không có
chút vũ khí nào, nhưng lại muốn thách thức vũ khí khủng khiếp của người châu
Âu. Tại sao chúng ta lại tự sát một cách vô ích như vậy?"
Nhưng về sau, chính Phan Chu Trinh lại là người bênh vực Nguyễn Ái Quốc trước
những lời chỉ trích, cụ Phan hiểu một điều quan trọng nhất rằng mọi suy nghĩ và
hành động của chàng thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Ái Quốc khi ấy đều xuất phát từ
"một trái tim yêu nước".
Trong một bức thư gửi cho người quen, Ông Trinh kết luận, "cháu Quốc đã lựa
chọn con đường khó khăn và riêng để giải phóng đồng bào mình. Mọi người phải
tôn trọng trái tim đầy nhiệt huyết của cháu".
- Xem thêm -