LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài.
1. Lý do khách quan
1.1.Tầm quan trọng của công nghệ thông tin:
Sự phát triển như vũ bão của ngành khoa học và công nghệ đã đem lại
những thành tựu to lớn trong mọi hoạt động của con người. Trong xu thế hội
nhập với thế giới của Việt Nam, chúng ta luôn cập nhật được những tiến bộ
trong cách dạy, cách học và phương thức quản lý giáo dục tiên tiến trên thế giới.
Với xu thế thay đổi mô hình giáo dục theo hướng hiện đại thì trường học phải
thay đổi môi trường giáo dục. Mọi tài nguyên, nguồn lực trong mỗi trường học
cần tập trung vào việc tạp lập một môi trường học tập cởi mở, sáng tạo cho học
sinh. Một môi trường giáo dục hiện đại sẽ cung cấp tối đa khả năng tự học, tìm
kiếm thông tin cho mỗi học sinh; trong khi giáo viên chỉ hướng dẫn kĩ năng,
phương pháp giiair quyết công việc và xử lý thông tin chính là cốt lõi của
phương thức giáo dục này. Để hiện thực hóa những giá trị cốt lõi trên, công
nghệ thông tin (CNTT) là một công cụ hữu hiệu.
Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng
ứng dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên
nếu như công dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng
máy tính toàn cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo
đếm được. Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ
Công nghệ thông tin &Truyền thông (ICT).
Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi
email mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận
toàn bộ tri thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia
những tổ chức ở xa nửa vòng trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra
một thế giới mới trong đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực:
thương mại điện tử (ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực
tuyến (game online), các diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network),
các công dân điện tử (blogger),…
Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi,
chia sẻ với nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc
trong đời sống và công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc
các bài hát, có thể chia sẻ các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội,
v.v… Ví dụ các bậc phụ huynh trên cả nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách
chăm sóc con cái. Các giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài
giảng và giáo án với nhau, để xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ
1/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
cho việc giảng dạy của mỗi người. Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã
hội để trao đổi những kiến thức về học tập và thi cử.
Trong thời đại ngày nay, sự bùng nổ Công nghệ thông tin đã tác động lớn
đến công cuộc phát triển kinh tế xã hội người. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ
ý nghĩa và tầm quan trọng của tin học và Công nghệ thông tin, truyền thông
cũng như những yêu cầu đẩy mạnh của ứng dụng Công nghệ thông tin, đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội
nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức của nước ta nói riêng - thế giới nói chung.
1.2. Tầm quan trọng của CNTT trong nhà trường
Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ
thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào
tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã
đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay,
việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế.
Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy,
nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực
CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu
quả cho công việc của mình, mục đích của mình.
Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh
mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để
tiến tới “xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho
CNTT.
Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn
tin học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với
môn tin học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu
để học những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo.
Với tầm quan trọng đó, Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra chủ đề “ Năm
ứng dụng CNTT " trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành
học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi
mới phương pháp dạy học ở các môn.
Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn
đề mà bất cứ một giáo viên nào cũng phải băn khoăn khi có ý định đưa CNTT
vào giảng dạy.
2. Lý do chủ quan
Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo
dục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của ngành giáo
dục, sự ủng hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ,
2/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
rộng lớn nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng, chưa có chiều sâu và
chưa mang lại hiệu quả đúng với vai trò của nó.
Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới
cách dạy và học đã được nhiều Cán bộ giáo viên hưởng ứng tích cực. Đây được
coi là con đường ngắn nhất để đi đến đích của chất lượng dạy học trong các nhà
trường.
Xuất phát từ thực trạng giảng dạy của đội ngũ cán bô ̣, giáo viên của
Ngành. Mặc dù hầu hết trình độ giáo viên của các trường đều đạt trên chuẩn và
trên chuẩn cao, tuy vâ ̣y vẫn còn nhiều giáo viên dạy theo phương pháp truyền
thống, nặng về phương pháp thuyết trình, độc thoại, ngại sử dụng phương pháp
mới mà đặc biệt là việc ứng ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Việc ứng dụng
CNTT trong giảng dạy ở các trường hầu hết thông qua các đợt hô ̣i giảng, ứng
dụng CNTT chưa thường xuyên, còn mang tính hình. Để thúc đẩy viê ̣c ứng dụng
CNTT trong giảng dạy và quản lý giáo dục tại các trường tiểu học, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học, tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề “Một số biện
pháp chỉ đạo đẩy mạnh Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy
ở trường tiểu học”.
II. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm đề xuất các biện pháp tổ chức triển khai việc đẩy mạnh ứng dụng
CNTT vào giảng dạy ở trường tiểu học, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy học tập của giáo viên và học sinh nhà trường.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về CNTT, đẩy mạnh ứng
dụng CNTT vào giảng dạy trong nhà trường.
Khảo sát thực trạng và Đề xuất một số biện pháp việc tổ chức triển khai
ứng dụng CNTT trong giảng dạy tại nhà trường và tìm hiểu nguyên nhân của
thực trạng đó.
IV. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các biện pháp tổ chức triển khai việc ứng dụng
CNTT vào giảng dạy tại nhà trường.
V. Phạm vi - Thời gian nghiên cứu:
SKKN chỉ giới hạn nghiên cứu thực trạng việc ứng dụng CNTT vào quản lí
và giảng dạy trong nhà trường Tiểu học, áp dụng biện pháp mới vào năm học
2018 - 2019 tại trường tiểu học nơi tôi công tác.
- Thời gian nghiên cứu từ tháng 9/2018 đến tháng 4/2019
3/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận.
1. Cơ sở pháp lý
- Chỉ thị số 58-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh ứng
dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
- Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường.
Chỉ thị 29 nêu rõ: “Ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào tạo sẽ
tạo ra một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục” .” Đẩy mạnh ứng dụng
CNTT trong giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo
hướng sử dụng CNTT như một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương
pháp giảng dạy và học tập ở tất cả các môn học” .
- Trong nhiệm vụ năm học Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn mạnh:
Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguần nhân lực CNTT từ nay đến
năm 2020 của chính phủ và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông
giai đoạn 2015 - 2020 của ngành. Chiến lược phát triển giáo dục đã chỉ rõ:
”Nhanh chóng áp dụng CNTT vào giáo dục để đổi mới phương pháp giáo dục
và quản lí”.
2. Cơ sở lý luận
Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology
hay là IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử
dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý,
truyền, và thu thập thông tin. Ở Việt Nam khái niệm CNTT được hiểu và định
nghĩa trong nghị quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông
tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật
hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và
sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng
trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.
Trong hệ thống giáo dục Tây phương, CNTT đã được chính thức tích hợp
vào chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội
dung về CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng tần rộng tới tất cả các trường
học, áp dụng của kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các môn học đã
trở thành hiện thực.
Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng
dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu
quả và chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng
4/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
CNTT trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát
triển CNTT của đất nước.
II. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay
1. Thực trạng ứng dụng CNTT trong các nhà trường tiểu học hiện nay
Từ khá sớm, một số trường học đã bắt đầu đưa công nghệ thông tin vào
giảng dạy. Hầu hết các trường đều chưa có phòng máy tính riêng. Mă ̣c dù mô ̣t số
trường được trang bị một số máy tính tuy nhiên chỉ nhằm mục đích ứng dụng
trong công tác lưu trữ, quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có
thể thấy chúng ta đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết
những ứng dụng to lớn của công nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng
đó là việc sử dụng các phần mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối
với các môn văn hoá khác như: Toán, tiếng Việt, Tự nhiên xã hội, Đạo đức v.v...
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn.
Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay.
Các lãnh đạo trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả
năng sử dụng giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó,
các lớp tập huấn Tin học sử dụng Powerpoint, Violet,... thường được các giáo
viên tham gia rất đông. Trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là
các bài giảng là dùng phần mềm. Đa số các trường học đều đã trang bị máy chiếu
để phục vụ việc giảng dạy bằng máy tính.
Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay
các tiết giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy
được hiệu quả, vì sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí
để xây dựng rất lớn (vài chục triệu đồng/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa
về sau được. Nó thậm chí còn có thể gây phản tác dụng khi tạo ra sự áp đặt cho
giáo viên, tạo ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo án mẫu, làm giảm
đi sự sáng tạo của giáo viên trong việc giảng dạy...
2. Thực trạng công tác ứng dụng CNTT ở trường tiểu học nơi tôi công tác:
Trường tiểu học nơi tôi công tác là trường tiểu học duy nhất đóng trên địa
bàn phường xã. Là đơn vị trường học đạt chuẩn quốc gia mức độ 1, nhiều năm
liền trường liên tục đạt danh hiệu Tập thể lao động Tiên Tiến và Tiên tiến xuất
sắc, là địa chỉ tin cậy thu hút nhiều học sinh đến trường học tập.
*Thuận lợi: -Tập thể giáo viên đoàn kết, nhiệt tình, trách nhiệm có kinh nghiệm
trong giảng dạy luôn luôn có ý thức phấn đấu học hỏi và đổi mới phương pháp
dạy học và có ứng dụng CNTT trong soạn giảng.
5/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
- CSVC có đủ phòng học, bàn ghế, bảng lớp hệ thống điện, ánh sáng.
- Có sự chỉ đạo trong việc ứng dụng CNTT của các cấp.
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của phòng Giáo dục đào tạo thành phố.
*Khó khăn:
- Nhận thức về CNTT của CBGV, nhân viên chưa sâu sắc, chưa đồng đều.
- Một số giáo viên năng lực còn hạn chế do tuổi cao khó tiếp cận với phương
pháp mới đặc biệc là việc ứng dụng CNTT còn nhiều hạn chế.
- Số giáo viên chưa có máy tính chưa đồng đềcòn nhiều.
- Số lượng học sinh chủ yếu là con em nông dân, điều kiện kinh tế còn thấp sự
quan tâm tới việc học tập nói chung cũng như học tin học nói riêng còn hạn chế.
- CSVC chưa có phòng máy tính, cả trường có 2 máy tính cây, 2 máy tính xách
tay, 1 máy chiếu, 1 màn chiếu. Cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường trình độ
tin học còn hạn chế, ứng dụng CNTT trong quản lí và giảng dạy còn chưa cao.
- Kinh phí đầu tư chi phí cho hoạt động CNTT trong nhà trường rất hạn chế.
*Bảng khảo sát thực tế
Năm học
Năm học
2016-2017
2017-2018
Số cán bô ̣, giáo viên có địa chỉ email
2/30 = 6,7%
12/31 = 38,7%
Số CB, GV có trình đô ̣ Tin học A trở lên
05/30=16,6%
12/31 = 38,7%
Số CB, GV có khả năng ứng dụng CNTT
3/30 = 10%
15/31 = 48,4%
Số bài giảng có ứng dụng CNTT
10
45
Số cán bô ̣, giáo viên có máy vi tính
05
8
Chất lượng giáo dục
Năm học
Giỏi
Khá
2016- 2017
21,9%
34%
2017-2018
22,7%
36,4%
III. Một số biện pháp ưng dụng CCng nghệ thCng tin trong dạy học
1. Biện pháp 1: Xây dựng mô hình trường học ứng dụng CNTT:
Những năm học gần đây, Bộ giáo dục có chủ trương lớn về ứng
dụng CNTT trong trường học. Do vậy, hiện nay các cấp quản lí Giáo dục, giáo
viên thường băn khoăn về vấn đề nên đưa CNTT vào nhà trường như thế nào. Tất
6/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
nhiên, mục tiêu quan trọng nhất của ứng dụng CNTT ở trường tiểu học là nâng
cao chất lượng quản lí, chất lượng dạy học của nhà trường.
Trên cơ sở lí luận thực tiễn, tìm hiểu, học hỏi mô hình ứng dụng CNTT của
một số đơn vị, tôi xây dựng mô hình ứng dụng CNTT cho trường tiểu học Nơi tôi
công tác như sau:
Những yêu cầu về cơ sở vất chất và trang thiết bị:
Cơ sở vật chất và trang thiết bị là yếu tố hết sức quan trọng trong việc ứng dụng
CNTT. Để ứng dụng được CNTT trong nhà trường cần chuẩn bị tốt cơ sở vật chất.
-Phòng máy tính: Đủ số lượng máy tính phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu
của giáo viên học sinh.
- Kết nối Internet : Các máy tính đều được kết nối Internet, nhằm tìm kiếm khai
thác thông tin phục vụ hoạt động học tập và giảng dạy của giáo viên và học sinh.
- Các phương tiện kĩ thuật, thiết bị đa phương tiện như: Máy chiếu đa phương tiện
(multimedia, projector) camera, máy ảnh kĩ thuật số, màn chiếu... và các phương
tiện kĩ thuật khác.
- Có kinh phí duy trì hoạt động, bảo hành, bảo dưỡng các thiết bị.
1.2. Những yêu cầu về đội ngũ:
a.Đối với cán bộ quản lí:
CBQL cần có kiến thức kĩ năng cơ bản về CNTT: Các kiến thức cơ bản về
cấu tạo máy, hệ điều hành thông dụng, sử dụng Internet, biết sử dụng phần mềm
quản lí để hỗ trợ hoạt động điều hành quản lý giáo dục trong phạm vi nhà trường
và liên lạc với các cơ quan quản lý cấp trên.
CBQL cần phải có kiến thức kĩ năng ứng dụng CNTT trong công tác quản lí giáo dục.
b.Đối với đội ngũ giáo viên:
Giáo viên cần phải có kiến thức và kĩ năng cơ bản về CNTT: Nắm được các
kiến thức cơ bản về cấu tạo máy tính, hệ điều hành thông dụng, biết sử dụng Internet
để tìm kiếm và khai thác thông tin phục vụ cho hoạt động giảng dạy - giáo dục để
7/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
liên lạc với học sinh, cha mẹ học sinh và các đối tượng khác. Đặc biệt có kiến thức
và kĩ năng ứng dụng CNTT trong việc soạn giảng, tổ chức hoạt động học tập cho
học sinh.
c.Có cán bộ kĩ thuật về CNTT:
Lập trang web bảo trì, cài đặt các thiết bị phần cứng và phần mềm cơ bản. Cán
bộ kĩ thuật có thể là giáo viên kiêm nhiệm nhưng phải có kiến thức, kĩ năng để xử
lí các công việc thường xuyên như: quản trị trang web, cài đặt các phần mềm mới,
diệt vi rút, sửa chữa một số lỗi nhỏ thông thường của máy tính, thông thạo các
thao tác trên máy tính.
1.3.Những yêu cầu về cCng tác quản lí của trường:
- Có kế hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lí và dạy học.
- Từng bước đầu tư mua sắm, nâng cấp trang thiết bị CNTT.
- Triển khai công việc hàng tuần qua lịch làm việc, qua thời khoá biểu (các giờ dạy có
ứng dụng CNTT, kế hoạch sử dụng máy chiếu đa năng, phân công sử dụng, quản lý
phòng máy của trường....). Các hoạt động được thể hiện trên trang web, hệ thống thư
điện tử (Email nội bộ).
- Phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc ứng dụng CNTT.
1.4. Yêu cầu về hoạt động triển khai tích hợp CNTT trong giảng dạy, đổi mới
phương pháp dạy học:
- Sử dụng phần mềm dạy học một cách thích hợp trong một hoặc nhiều môn học.
- Bảo đảm tỷ lệ thời lượng dạy học có ứng dụng CNTT 10% trở lên.
- Đảm bảo hiệu quả cao trong việc ứng dụng CNTT trong quản lí và dạy học.
1.5. Các bước đi trong việc xây dựng nhà trường theo mC hình:
Rõ ràng việc xây dựng trường theo mô hình trên sẽ cần tới thời gian, công
sức và cả sự kiên định và tâm huyết của người quản lý. Phương châm đặt ra là:
từng bước triển khai vững chắc, đồng bộ.
8/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
- Tiến hành từng bước: Trước tiên chú ý khâu ứng dụng CNTT trong quản lý. Sau
đó là ứng dụng CNTT trong dạy học, không bắt buộc phải ứng dụng CNTT ở tất
cả các môn, ở tất cả các lớp ngay.
- Chắc chắn: Trong từng bước phải đảm bảo chất lượng của các hoạt động ứng
dụng CNTT trong dạy học. Không ứng dụng một cách sô bồ, hình thức.
- Đồng bộ: Tiến hành đồng bộ các biện pháp (nhân lực, vật lực, tài lực...): trang bị
phòng máy, kết nối Internet, tuyển chọn đặt mua phần mềm, tập huấn giáo viên sử
dụng....
2.Biện pháp 2: Bôi dưỡng, trang bị những kiến thứ,c kỹ năng Tin học cơ bản
nhất về công nghê ̣thông tin cho cán bô,̣ giáo viên trong các nhà trường.
Mặc dù GAĐT đã được các trường học đón nhận rộng rãi, đã tạo ra một
không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học và cách giảng dạy truyền
thống. Phải chăng việc dạy bằng GAĐT sẽ giúp người thầy đỡ vất vả bởi vì chỉ
cần “click” chuột? Thực ra muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì
người dạy cũng phải chịu bỏ nhiều công sức tìm hiểu và làm quen với cách soạn
và giảng bài mới này. Cụ thể người thầy cần phải:
- Có một ít kiến thức hiểu biết về sử dụng máy tính.
- Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint. ( và đối với môn Toán :
Phần mềm Geometer’s Sketchpad, VisuaBasic, Violet, …..)
- Biết cách truy cập Internet.
- Có khả năng sử dụng được một số phần mềm chỉnh sửa ảnh, cắt phim,
làm các ảnh động bằng Plash, cắt các file âm thanh,…
- Biết sử dụng máy chiếu Projector ( Máy chiếu đa năng )
Mới nghe thì có vẻ mới mẻ và phức tạp nhưng thực sự muốn ứng dụng công
nghệ thông tin vào giảng dạy có bắt buộc thì phải thực hiện hết các yêu cầu trên
hay không? Câu trả lời là không. Vì nó còn tùy thuộc vào tính chất của mỗi môn
học mà các yêu cầu khác nhau được đặt ra cho mỗi giáo viên. Tuy nhiên, nếu
đáp ứng được các yêu cầu trên thì thật là tuyệt vời, lúc đó chất lượng Dạy - học
như thế nào thì các bạn đồng nghiệp tự thảo luận?. Tại sao tôi lại đặt ra các yêu
cầu đó? Các bạn thử tưởng tượng xem nếu một người nào đó không có khái
niệm gì về CNTT thì liệu họ có bật máy tính lên và chọn cho mình một chương
trình làm việc hay không? Liệu họ có biết được tài liệu của mình nằm ở đâu trên
máy tính hay không? Có biết cách Copy (sao chép) tài liệu từ nơi này sang nơi
9/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
khác hay Delete( xóa) một tài liệu khi không dùng nữa?..... Nghĩa là dù ít hay
nhiều thì cũng phải sử dụng được máy tính theo ý riêng mình.
Ở đây, vấn đề cần đặt ra là từ những giáo án được soạn sẵn trên giấy và được
trình bày lại trên bảng đen làm thế nào để giáo án đó trở thành GAĐT được trình
bày trên màn chiếu projector? Điều này đòi hỏi người thầy trước hết phải biết sử
dụng phần mềm PowerPoint ( phần mềm nằm trong bộ MS Office, hiện nay đã
có PowerPoint trong bộ MS Office 2013) dùng để tạo các trình diển đa dạng trên
máy tính. Ngoài ra có các phần mềm Cabri (Toán) ,GEOSPACW (Toán ),
GraphCalc (Toán), PhotoFrameShow (xử lí hình ảnh), Geometer’s
Sketchpad(GSP) …..Nếu chỉ dừng ở mức độ soạn thảo những nội dung cần thiết
và cộng thêm các thao tác định dạng về màu sắc, font chữ tôi nghĩ rằng chắc
thầy cô nào cũng có thể làm được. Tuy nhiên nếu chỉ có làm như thế thì chúng
ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của PowerPoint và cũng như một số phần
mềm kể trên lúc đó cũng như chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng
dạy mới này. Ví dụ: với môn Lịch sử khi dạy về các trận chiến của quân ta và
địch, thay vì giáo viên thuật lại các trận đánh dựa trên bản đồ vẽ sẵn thì bây giờ
học sinh nhìn vào trên màn hình lớn các trận đánh sẽ diễn ra qua các đoạn phim
tài liệu mà giáo viên chèn vào…
Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng,
thao tác cơ bản đòi hỏi người thầy phải nắm được là thiết lập các hiệu ứng để
làm sao cho bài giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sôi động và
mới mẻ. Vậy các hiệu ứng đó là gì? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng (văn
bản, hình ảnh, ..) được thiết lập có thứ tự, có thể là dòng chữ hay hình ảnh này
xuất hiện trước dòng chữ hay hình ảnh kia, hay có thể là dòng chữ hay hình
ảnh này xuất hiện sang trái, dòng chữ hay hình ảnh xuất hiện sang
phải….Chẳng hạn trong giờ học Toán giáo viên (GV) đưa ra bài toán trắc
nghiệm (chọn Đúng hoặc Sai: ( Phần mềm VisuaBasic hay PowerPoint hay
Violet sẽ làm được điều đó) sau đó mới kiểm nghiệm kết quả trên màn hình, như
thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời tăng khả năng
tư duy của học sinh (HS). Với đặc điểm này GV tiết kiệm được thời gian viết
nội dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu GV giảng đến đó, làm cho thời
gian giảng bài nhiều hơn, logic hơn , HS hiểu bài sâu hơn.
Đối với môn Lịch sử, Địa lý bài giảng thường đi kèm với nhiều hình ảnh
minh họa. Có thể là hình ảnh mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng,
hay hình ảnh của các vùng kinh tế, khí hậu, diện tích lãnh thổ của các nước trên
thế giới,……Nếu chỉ trình bày xuông sẽ không hấp dẫn học trò bằng giảng dạy
giáo án điện tử. Hiện tại những hình ảnh minh họa, phần mềm cho các nội dung
bài dạy nói trên tương đối nhiều trên Internet mà hiện tại nhà trường đều đã có
10/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
mạng Internet , tôi nghĩ rằng nếu chỉ cần bỏ một chút thời gian lên mạng mà có
được những phần mềm, hình ảnh, đoạn phim cần minh họa cho bài giảng thì
người thầy nào cũng sẵn lòng cả. Điều đó đồng nghĩa với việc giáo viên phải
biết cách truy cập mạng Inernet để lấy thông tin. Tuy nhiên không phải hình ảnh
nào cũng lấy từ Internet được mà những hình ảnh cần lấy từ sách giáo khoa
(SGK) thì lúc đó ta phải Scaner(quét ảnh), chụp ảnh và chỉnh sửa ảnh …. Nói
tóm lại để có được một GAĐT tạm gọi là hiệu quả thì mỗi GV cần phải có chút
ít về kĩ thuật tin học.
Bài giảng sau khi được thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua
đầu projector. Điều đó dù muốn hay không mỗi GV buộc phải biết cách sử dụng
nó. Đây là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với GV chỉ cần một vài thao
tác lắp máy chiếu với Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và
điều chỉnh độ nét, độ lớn trên màn hình, lúc này GV chắc hẳn có một bài giảng
chất lượng, HS sẽ có một tiết học thoải mái và sôi động.
Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ GAĐT mà các giáo viên đã tạo ra
một không khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh buộc phải tập
trung nghe giảng và tư duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, để làm được
điều đó người dạy phải có một kiến thức nhất định. Chẳng hạn sử dụng được
phần mềm trình chiếu PowrPoint để trình bày bài giảng và cần phải có khái
niệm về các phương tiện kĩ thuật đã được đề cập là các phương tiện hỗ trợ cho
việc giảng dạy chứ không thể thay thế được vai trò chủ đạo của người thầy trong
giờ lên lớp.
3. Biện pháp 3: Một số quy trình và nguyên tắc khi thực hiện bài giảng ứng
dụng Công nghê ̣thông tin
Hiện tại, ở trường đã và đang áp dụng GAĐT trong các giờ dạy, nhưng vấn đề
đặt ra là việc áp dụng như vậy đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa ? Nếu chưa thì áp
dụng thế nào cho đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT?
Khi chuyển từ bài giảng truyền thống sang việc giảng bài bằng GAĐT (ứng
dụng CNTT trong dạy học), hầu hết các giáo viên ở trường nói chung thường
mang một tư tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là nghĩ và sẽ trình bày
những gì mình nói và viết tất cả các nội dung vào trong Slide. Điều này hoàn
toàn sai lầm vì như thế giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng
các kiến thức ngoài.
Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm
nào đó) là nơi là chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ
cho bài giảng. Tùy theo từng môn học, chúng ta có thể bổ sung các công thức,
hình ảnh minh họa một cách hợp lý. Đây là bước mà GV cần vận dụng khả
năng, kiến thức về tin học của mình để xây dựng bài giảng. Nếu Slide nào cần
11/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
hình ảnh minh họa, giáo viên nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay Slide kia
đang trình bày một kết quả của thí nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn
đưa nội dung vào giáo viên cũng nên lưu ý về số lượng chữ, màu sắc, kích thước
trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề mình muồn trình bày một cách rõ
ràng, dễ hiểu. Nhìn vào Slide GV có nhiệm vụ giải thích kĩ càng và mở rộng nó
ra chứ không phải đọc các dòng chữ trên Slide. Nếu chưa quen với cách giảng
dạy này, GV cảm thấy khó khăn trong việc xác định xem slide tiếp theo sẽ trình
bày về vấn đề gì. Giáo viên có thể in ra một bảng để vừa giảng vừa nhìn vào để
xác định vấn đề tiếp theo.
Sử dụng GAĐT cũng không có nghĩa giáo án truyền thống bị lãng quên.
Chúng ta hãy nhìn lại xem trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày những
gì, phải chăng là tất cả nội dung bài giảng? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một
số các Slide chỉ chứa văn bản, hình ảnh,….thì làm thế nào mà GV có thể quan
sát hết các vấn đề cần được giảng? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung
nhiều thời gian vào và giảm thời gian cho các nội dung còn lại? Liệu nếu một
GV mới ra trường có thể nhớ hết nội dung đã chuẩn bị trước buổi dạy hay
không? Chỉ cần chúng ta xây dựng kế hoạch giảng dạy thì vấn đề trên sẽ được
giải quyết ngay. Đề cương này sẽ ghi rõ tên bài dạy, các mục kiến thức cần trình
bày, vấn đề nào cần trình bày trước, vấn đề nào cần trình bày sau ? Vấn đề nào
trọng tâm và nhấn mạnh? Chúng ta phải chuẩn bị kĩ lưỡng như vậy là vì nếu tiết
dạy đó GV chưa nói hết các nội dung trong các Slide hay đã trình bày hết nội
dung nhưng thời gian còn thừa. Tóm lại, chúng ta phải kết hợp đề cương này
cùng với việc trình bày trên các slide một các hợp lý thì lúc đó GV ắt hẳn không
còn băn khoăn gì về cách dạy này.
* Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT.
Mỗi lớp học có trung bình từ 25- 35 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy
GAĐT thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng
trời để ảnh trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp
hay những học sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay
công thức trên màn chiếu. Do đó để học sinh có thể quan sát được bài học chính
xác từ màn chiếu, giáo viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số
nguyên tắc về hình thức sau:
- Các trang trình diễn phải đơn giản và rõ ràng
- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi trang
trình diễn.
- Về màu sắc của nền hình: Màu sắc không lòe loẹt, đồ họa vui nhộn gây mất
tập trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản (contrast), chỉ nên
sử dụng chữ màu sậm (đen, xanh đậm, đỏ đậm…) trên nền trắng hay nền màu
12/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
sáng. Ngược lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng
hay trắng.
- Về Font chữ:Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu
đỏ cho các đề mục có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau)
Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Vntime, Arial, Times Roman,…) hạn
chế dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.
- Về cỡ chữ: Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide
nên hay có khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, khi dùng máy chiếu
Projector chiếu lên màn cho nhiều người xem thì size chữ thích hợp phải từ cỡ
28 trở lên mới đọc rõ được.
- Về trình bày nội dung trên nền hình: Giáo viên không nên trình bày nội dung
tràn lấp đầy nền hình từ trên xuống từ trái qua phải, mà cần chừa ra khoảng
trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp (thường là 1/5), để đảm bảo
tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu lên màn. Các dạng đồ
họa (hình ảnh, âm thanh,hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn cẩn thận, nếu
không chúng sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh. Những
tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì
cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin xác định như
ta mong muốn.
- Trình chiếu giáo án: Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể
ghi chép kịp thì nội dung trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc.
Ta nên phân dòng hay phân đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời
gian tương ứng. Trường hợp có nội dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn
vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang
có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ ghi nhớ hơn.
* Các tiêu chí đánh giá bài giảng:
- Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục
tiêu, nội dung, tiến trình bài giảng.
- Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy
tính tích cực của học sinh.
- Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy
định, có tính hệ thống và khoa học.
- Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, tối
ưu nhằm phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo
môi trường tương tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với
nhau.
- Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
13/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
- Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo
dục.
4. Biện pháp 4: Khai thác và xử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài giảng có
ứng dụng Công nghê ̣thông tin
Từ nhiều năm nay, ở các nhà trường đã tương đối phổ biến mô hình giảng
dạy sử dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy tính, máy
chiếu (projector),... Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là những
công cụ dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học
khác từ truyền thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình,...) đến hiện đại (cassette, ti vi,
đầu video...). Hơn nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận
thì sẽ đem lại hiệu quả hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận đánh lịch sử,
trên bản đồ giấy chỉ có thể diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng tấn công, còn
trên phần mềm có thể diễn tả được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển, nên tạo
được sự hấp dẫn và học sinh có thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn.
Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần
mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử
dụng là giáo viên, không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức
vẫn dựa trên giao tiếp thầy - trò, chứ không phải giao tiếp máy - người. Mặt khác,
vì giáo viên là người trực tiếp điều hành việc sử dụng phần mềm nên có thể khai
thác tối đa được những kiến thức cần chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào
trình độ của học sinh
và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với
các tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương
pháp dạy học truyền thống và của các công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, muốn đầu tư xây dựng các bài giảng điện tử thì chỉ có một cách
duy nhất là phải hướng dẫn, tập huấn các giáo viên để họ có thể tự xây dựng các
bài giảng cho riêng mình. Song, việc tập huấn cũng chỉ dừng lại ở mức độ sử
dụng thành thạo một vài công cụ thiết kế bài giảng như Powerpoint hay Violet,
cách tìm kiếm các tư liệu qua mạng Internet, sử dụng máy quay phim, máy ảnh
số, máy quét...
Ở mức độ này, giáo viên mới chỉ có thể tạo được bài giảng ở mức cơ bản, chất
lượng trung bình. Chẳng hạn như họ không thể tự vẽ thêm một bức tranh, tự xây
dựng một hình ảnh động hoặc lập trình tạo ra một thí nghiệm mô phỏng, hoặc cũng
không thể tự chỉnh sửa được các tư liệu hình ảnh sau khi quét ảnh hoặc lấy về từ
Internet cho đẹp hơn, biên tập lại các đoạn phim, dịch thuyết minh các tư liệu của
nước ngoài thành tiếng Việt, v.v... đặc biệt rất khó có thể tìm kiếm thu thập được
14/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
những phim ảnh tư liệu quý hiếm. Tất cả những việc này đòi hỏi phải có một đội ngũ
cán bộ, họa sĩ, kỹ thuật viên tin học chuyên nghiệp thì mới đảm nhiệm tốt được.
Hiện nay, nhiều chuyên gia giáo dục đã cảnh báo tình trạng “lạm dụng
CNTT” khi các giáo viên tự xây dựng bài giảng. Do hạn chế về định hướng,
công nghệ nên giáo viên thường hay xây dựng những bài giảng mang nặng tính
trình chiếu, ví dụ như sử dụng Powerpoint “bắn” rất nhiều chữ ra màn hình và
khi giảng bài thì gần như đọc lại nội dung đó. Phương pháp này thậm chí sẽ làm
cho học sinh giảm hiệu quả tiếp thu khi phải đồng thời nghe giảng, vừa đọc chữ,
chưa kể là còn bị cuốn hút vào những hiệu ứng chữ chạy nhảy và âm thanh kèm
theo.
Một trong những lý do của tình trạng trên là do các giáo viên chưa hiểu
được rằng: cách sử dụng hiệu quả của ứng dụng phần mềm dạy học là phải khai
thác triệt để các nội dung tư liệu, đặc biệt là các tư liệu multimedia (âm thanh,
hình ảnh, phim...). Một lý do quan trọng nữa là kể cả khi hiểu được như vậy thì
cũng khó có thể thực hiện, vì việc giáo viên đưa một đoạn văn bản vào phần
mềm thì dễ, chứ nếu tự vẽ hình, tự tạo ảnh động hay tìm kiếm tư liệu bên ngoài
thì sẽ rất khó khăn.
Chính vì vậy, giáo viên nên sử dụng các công cụ tìm kiếm trên Internet tư
liệu như Google hay Yahoo, hoặc các truy cập các nguồn tư liệu phong phú như
Wikipedia, YouTube,... đặc biệt là các nguồn tài nguyên phục vụ cho giáo dục
và đào tạo như Thư viện tư liệu giáo dục tại http://tulieu.edu.vn (cung cấp các
tư liệu giúp giáo viên sử dụng vào bài giảng) và Thư viện bài giảng điện tử tại
http://baigiang.edu.vn (cung cấp các bài giảng tham khảo có chất lượng để giáo
viên học tập và chia sẻ kinh nghiệm trong giảng dạy).
5.Biện pháp 5: Sử dụng các phần mềm, tiêṇ ích tiêu biểu phục vụ cho công
tác giảng dạy học và quản lý giáo dục
Học sử dụng máy vi tính thực chất là học cách sử dụng các phần mềm vi
tính. Có thể phân ra 2 loại là các phần mềm phổ thông (như soạn thảo văn bản,
xử lý ảnh, bảng tính, gõ tiếng Việt, các phần mềm gửi thư điện tử...) và các phần
mềm chuyên dụng, cụ thể đối với giáo viên đó là những phần mềm tạo bài giảng
như Powerpoint, Violet, tạo các hình ảnh mô phỏng để dạy học như Macromedia
Flash, Swish, v.v...
5.1. Các phần mềm phổ thông
Các phần mềm phổ thông là bắt buộc phải sử dụng thành thạo đối với cả
mọi người, từ cấp quản lý đến giáo viên trong nhà trường. Trong đó một số phần
mềm quan trọng có thể kể ra (chủ yếu nằm trong bộ phần mềm văn phòng
Microsoft Office)
15/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
Microsoft Word: Phần mềm soạn thảo văn bản, dùng để soạn công văn,
báo cáo, kế hoạch và tất cả các giấy tờ tài liệu khác. Các giáo viên có thể dùng
để soạn giáo án vừa có thể in ra để sử dụng, lưu trữ trên máy tính hoặc chia sẻ
trên mạng Internet.
Microsoft Excel: Phần mềm tạo bảng tính để xây dựng các kế hoạch, các
chi phí tài chính, hoặc lưu trữ và tính điểm của học sinh. Excel mạnh ở điểm là
có thể đưa vào những phương pháp tính toán, thống kê tùy ý một cách rất dễ
dàng.
UniKey: Cài đặt phần mềm này, ta mới có thể gõ được tiếng Việt trong các
văn bản, thư tín,... Ta có thể chọn kiểu gõ Telex hay VNI, có thể chọn mã chữ là
Unicode hay TCVN,... Đặc biệt phần mềm có chức năng chuyển mã chữ rất tiện
lợi, giúp có thể đọc được những văn bản không dùng Unicode mà máy tính
không có font chữ tương ứng. Ví dụ trước đây các văn bản từ miền Bắc vào
miền Nam hoặc ngược lại thì đều không thể đọc được, vì miền Bắc dùng mã
TCVN, còn miền Nam thì dùng mã VNI.
Adobe Photoshop: Là phần mềm xử lý ảnh thông dụng nhất, với rất nhiều
tính năng từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp đều có thể sử dụng được. Với những
chức năng cơ bản thì giáo viên và cán bộ quản lý cũng nên sử dụng được, vì nó
hiện nay dù làm bài giảng hay báo cáo, kế hoạch cũng ít nhiều sử dụng các tư
liệu ảnh (ảnh chụp hoặc hình vẽ).
5.2.Các phần mềm phục vụ cho giáo dục
Đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, nên khuyến khích học và sử
dụng các phần mềm sau vì sẽ rất có ích trong việc xây dựng các bài giảng hỗ trợ
cho việc giảng dạy.
Microsoft PowerPoint: Phần mềm cho phép soạn các bài trình chiếu hấp
dẫn để làm bài giảng điện tử. PowerPoint có thể sử dụng được các tư liệu ảnh
phim, cho phép tạo được các hiệu ứng chuyển động khá hấp dẫn và chọn các
mẫu giao diện đẹp. Hiện nay, phần lớn các bài giảng điện của giáo viên ở Việt
Nam đều sử dụng phần mềm Powerpoint.
Phần mềm Violet: Dùng cho giáo viên có thể tự thiết kế và xây dựng được
những bài giảng điện tử sinh động, hấp dẫn, để trợ giúp cho các giờ dạy học trên
lớp (sử dụng với máy chiếu projector hoặc ti vi), hoặc để đưa lên mạng Internet.
Tương tự như Powerpoint nhưng Violet có nhiều điểm mạnh hơn như giao diện
tiếng Việt, dễ dùng, có những năng chuyên dụng cho bài giảng như tạo các loại
bài tập, chức năng thiết kế chuyên cho mỗi môn học, và đặc biệt là khả năng gắn
kết được với các phần mềm công cụ khác.
Macromedia Flash: Đây là phần mềm cho phép vẽ hình, tạo ra hình ảnh
động, các hiệu ứng chuyển động và biến đổi, lập trình tạo ra các hoạt động mô
16/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
phỏng và tương tác sinh động, hấp dẫn. Để sử dụng tốt Flash đòi trình độ người
sử dụng cũng phải ở mức khá và phải thực hành nhiều. Thông thường không
dùng Flash để tạo cả một bài giảng vì nó sẽ tốn khá nhiều công sức, mà chỉ dùng
để tạo ra các tư liệu rồi kết hợp với Violet hoặc Powerpoint để tạo thành một bài
giảng hoàn chỉnh.
6. Biện pháp 6: Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm khai thác các thông tin
trực tuyến
Chúng ta có thể tự xây dựng một kho tài nguyên dạy học với vài nghìn tư
liệu, nhưng như vậy liệu đã đủ chưa. Thực ra, việc đó giờ không còn là vấn đề
cần lo lắng vì Internet đã chính là một thư viện không lồ, là nơi lưu chứa tri thức
của toàn nhân loại với hàng tỷ tư liệu và các bài viết của mọi lĩnh vực, đặc biệt
các thông tin trên đó luôn được cập nhật từng ngày, từng giờ. Như vậy một vấn
đề quan trọng và bắt buộc đối với giáo viên trong việc ứng dụng CNTT trong
dạy học là phải biết khai thác nguồn tài nguyên phong phú trên Internet.
Có 2 phương pháp để khai thác các thông tin phục vụ cho việc giảng dạy
như sau:
6.1. Truy cập các thư viện tài nguyên trực tuyến
Thông thường hiện nay, các thư viện lớn đều được phát triển theo mô hình
xã hội, nội dung sẽ do chính người sử dụng cùng xây dựng lên với số lượng
người tham gia xây dựng lên đến hàng triệu người. Trên thế giới đã xuất hiện
các thư viện nổi tiếng như:
- Wikipedia.org (trang tiếng Việt là vi.wikipedia.org) là hệ thống bách khoa
toàn thư khổng lồ với đầy đủ tri thức nhân loại từ xưa đến nay, do hàng chục
triệu tình nguyện viên trên thế giới đóng góp xây dựng. Có thể tìm ở đây từ các
kiến thức khoa học phổ thông đến các nghiên cứu khoa học chuyên ngành, tìm
hiểu về tiểu sử những người nổi tiếng cho đến những vấn đề thời sự được cập
nhật hàng ngày v.v...
- http://Youtube.com, là trang web chia sẻ video lớn nhất thế giới, ở đây
chúng ta có thể dễ dàng tìm được những tư liệu phim phù hợp với mục đích dạy
học. Ở Việt Nam cũng có trang chia sẻ video riêng ở địa chỉ http://Clip.vn
- Thư viện tư liệu giáo dục http://tulieu.edu.vn là trang web chia sẻ các tư
liệu phim, ảnh, flash phục vụ cho giáo dục và đào tạo của người Việt Nam, hiện
là trang web chia sẻ tư liệu dạy học duy nhất ở Việt Nam với gần 60.000 mục tư
liệu.
- Thư viện bài giảng điện tử: địa chỉ trang web là http://baigiang.edu.vn.
Đây là trang web cho phép giáo viên chia sẻ các bài giảng và giáo án của mình,
đồng thời tham khảo các bài giảng và giáo án của rất nhiều giáo viên khác trên
cả nước. Hiện tại trang web đã có trên 200.000 thành viên tham gia, với hàng
17/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
triệu lượt truy cập mỗi tháng, số lượng tài nguyên lên đến 50.000 bài giảng và
giáo án.
- Thư viện giáo trình điện tử: địa chỉ http://ebook.edu.net.vn. Đây là trang
web tập hợp các giáo trình bậc đại học và chuyên ngành từ các dự án của Bộ
GD&ĐT với các trường Đại học lớn trên cả nước như Đại học Bách Khoa HN,
ĐH Sư phạm HN, Đại học Cần Thơ,... Tuy nhiên đây không phải là trang web
cộng đồng nên lượng thông tin không lớn và không được cập nhật thường
xuyên.
Thư viện tư liệu giáo dục và Thư viện bài giảng điện tử là các hệ thống mở,
không những giúp giáo viên có thể download các tư liệu dạy học và các bài
giảng mẫu mà còn cho phép giáo viên có thể đưa các tư liệu và bài giảng của
mình lên để chia sẻ với mọi người. Việc sử dụng các hệ thống mở như trên hiện
nay đang là xu hướng tất yếu của ngành CNTT, với những ưu điểm vượt trội là:
Hoàn toàn miễn phí.
Có hệ thống dữ liệu khổng lồ vì là do cộng đồng cùng xây dựng.
Luôn được cập nhật thường xuyên, từng ngày, từng giờ.
Các tư liệu cũng như bài giảng có chất lượng cao vì được chọn lọc và
tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài ra công ty Bạch Kim cũng luôn có
một đội ngũ kỹ thuật thường xuyên xây dựng các tư liệu mới và bài giảng mới
theo yêu cầu của
Giáo viên các nơi để đưa lên Thư viện.
Thư viện cũng là kênh kết nối các giáo viên trên cả nước, giúp mọi
người học hỏi và chia sẻ với nhau nhiều vấn đề trong công việc của mình.
Trên thế giới cũng đã có những thư viện trực tuyến do cộng đồng phát triển đã
rất nổi tiếng như thư viện Bách khoa toàn thư Wikipedia.org, thư viện chia sẻ video
trực tuyến YouTube.com, thư viện mã nguồn CodeProject.com v.v... Chính vì vậy,
mô hình “mở” chính là xu thế phát triển của tất cả các hệ thống công nghệ thông tin
trong hiện tại và tương lai gần.
6.2. Sử dụng các dịch vụ tìm kiếm như Google, Yahoo, Baamboo.
Có thể truy cập vào các trang web này qua các địa chỉ trang web tương ứng
http://google.com.vn; http://yahoo.com.vn; http://baamboo.com
Công cụ tìm kiếm trực tuyến là một trong những sản phẩm tuyệt vời nhất
của nền khoa học kỹ thuật hiện đại, nó quy tụ được tri thức nhân loại về một nơi.
Có thể nói chúng ta cần bất cứ thông tin gì thì các máy tìm kiếm này có cung
cấp cho chúng ta gần như ngay lập tức, từ hàng chục tỷ trang Web và nguồn tài
nguyên khác nhau trên mạng Internet.
Ví dụ: một người nước ngoài muốn tìm hiểu về phở Hà Nội, họ chỉ cần lên
mạng, vào công cụ tìm kiếm, gõ chữ “phở Hà Nội” là có thể hiện ra hàng trăm
18/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
trang webside về chủ đề này. Một người Hà Nội muốn có hình ảnh về chợ Bến
Thành thì chẳng cần phải vào tận thành phố Hồ Chí Minh để chụp ảnh mà chỉ cần
vào mạng, sau vài thao tác đơn giản là có thể tìm được hàng chục bức ảnh.
Công cụ tìm kiếm thu nhỏ kho kiến thức khổng lồ của nhân loại thành cuốn
cẩm nang đầu giường đối với mỗi con người hiện đại. Ngay cả đối với giáo viên
thì cũng nên coi như việc ngồi máy tính để soạn bài giảng, giáo án là phải kết
nối Internet và sử dụng công cụ tìm kiếm Internet thì mới có thể tạo ra những
sản phẩm có chất lượng được.
Các công cụ tìm kiếm thực chất đã làm thay đổi một phần của thế giới, con
người không cần phải nhồi nhét những kiến thức khoa học và đời sống để trở
thành những học giả uyên thâm, mà chỉ cần là người có tư duy tốt, nhạy bén,
sáng tạo thì mới phát huy được hiệu quả trong công việc và nâng cao chất lượng
cuộc sống. Hiểu được điều này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn những vấn đề cần làm
trong giáo dục hiện nay, nhất là giáo dục phổ thông.
7. Biện pháp7: Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã hội
Kết nối mạng Internet, giáo viên không chỉ có thể tìm thấy ngay những kiến
thức, nhưng tài nguyên mình cần mà còn có thể chia sẻ, trao đổi thông tin với
nhau. Hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin với nhau đơn giản nhất là phổ biến
nhất hiện nay là thông qua các diễn đàn (forum) trên mạng.
Diễn đàn lớn nhất Việt Nam về giáo dục là trang diễn đàn Mạng giáo dục
của Bộ GD&ĐT, địa chỉ http://edu.net.vn/forums, trong đó trao đổi về mọi vấn
đề liên quan đến giáo dục như giảng dạy, quản lý giáo dục, chống tiêu cực trong
giáo dục, các chính sách mới của Bộ GD&ĐT.
Diễn đàn giáo viên: địa chỉ http://diendan.bachkim.vn, là diễn đàn chuyên cho
giáo viên trao đổi với nhau về những kinh nghiệm dạy học, các kiến thức về ứng
dụng CNTT trong dạy học.
Một hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin khác nữa trên Internet là tham gia
các mạng xã hội. Ở các mạng này, mỗi người có thể xây dựng các blog (có thể
coi là trang web riêng) cho mình. Tại các blog, giáo viên có thể chia sẻ các kinh
nghiệm trong dạy học và trong cuộc sống. Bạn bè đồng nghiệp có thể vào xem
các blog của nhau và gửi lên ý kiến của mình. Ở các nước châu Âu, các giáo
viên sử dụng rất nhiều blog phục vụ cho công việc của mình.
Các địa chỉ mạng xã hội để tạo blog được dùng nhiều nhất ở Việt Nam là:
http://360.yahoo.com: Là mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay vì tính dễ
dùng và nó gắn liền với chương trình chat Yahoo Messager.
http://my.opera.com: Đây là mạng xã hội mà giáo viên và trí thức sử dụng
nhiều hơn do có giao diện đẹp và nhiều tính năng hấp dẫn.
19/20
LIÊN HỆ MUA TÀI LIỆU: 0946.734.736
8.Biện pháp 8: dụng CNTT trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoại
khoá:
Phát huy lợi thế của CNTT, nhà trường đã thiết kế và tổ chức tốt các hoạt
động ngoại khoá như: Hội thi “Năng khiếu tuổi thơ, Phụ trách sao giỏi, Nét đẹp tuổi
hoa, Kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Rung chuông vàng... Với sự hỗ
trợ của CNTT, các cuộc thi trở nên hấp dẫn và sinh động, cuốn hút người xem.
Kết quả: Trường đã tổ chức và phối hợp với các đơn vị khác tổ chức được 09 buổi
sinh hoạt ngoại khoá có sự hỗ trợ của CTTT.
IV. Kết quả đạt được sau khi áp dụng các biện pháp
Việc ứng dụng CNTT trong nhà trường đã thực sự tạo chuyển biến về nhận
thức, góp phần thay đổi phong cách làm việc trong cán bộ, giáo viên, nhân viên và
học sinh. CNTT thực sự là một phương tiện, là công cụ làm việc hữu ích để nâng cao
hiệu quả và chất lượng công việc. Cán bộ, giáo viên, công nhân viên ngoài việc rèn
luyện, tu dưỡng về phầm chất đạo đức, lối sống, năng lực chuyên môn thì việc trang
bị cho mình những kiến thức về tin học, những kĩ năng về ứng dụng CNTT, phong
cách làm việc khoa học là một yêu cầu không thể thiếu trong công cuộc đổi mới giáo
dục hiện nay.
. Về tư tưởng: CBQL, giáo viên đã phấn khởi, yêu trường, yêu lớp, tâm huyết
say sưa với nghề. Trong công việc, mọi người có ý thức tự giác thực hiện
nghiêm túc trong giảng dạy và quản lí đạt hiệu quả cao hơn.
Về chuyên môn: Qua kiểm tra, dự giờ, thăm lớp, qua các đợt khảo sát chất
lượng, đánh giá xếp loại học sinh, các hội thi, cuộc thi cho thấy chất lượng giáo
dục, mũi nhọn được đẩy mạnh.
Một số kết quả đã đạt khi áp dụng SKKN
Năm học
Năm học
Năm học
2016-2017
2017-2018
2018-2019
Số CB, GV có địa chỉ email
2/30 = 6,7% 12/31 = 38,7% 28/31 = 90,3%
Số CB, GV có trình đô ̣ Tin
05/30=16,6% 12/31 = 38,7% 25/31 = 80,6%
học A trở lên
Số CB, GV có khả năng ứng
3/30 = 10% 15/31 = 48,4% 25/31 = 80,6%
dụng CNTT
Số bài giảng có ứng dụng
10
45
100
CNTT
Số cán bô ̣, giáo viên có máy
05
8
20
vi tính
- Chất lượng giáo dục (học lực)
Năm học
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
2016- 2017
21,9%
34%
40,4%
3,7%
2017-2018
22,7%
36,4%
37,7%
3,2%
20/20
- Xem thêm -