Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số biện pháp nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh trong dạy học lịch...

Tài liệu Một số biện pháp nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường thpt

.DOC
36
64
131

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 1` TRƯỜNG THPT ĐẶNG THAI MAI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Người thực hiện: Chức vụ: SKKN môn: Trần Thị Hậu Giáo viên Lịch sử THANH HÓA, NĂM 2020 1 MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Mở đầu 1 1.1. Lí do chọn đề tài. 1 1.2. Mục đích nghiên cứu. 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu. 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 2 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm. 2 2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề. 2 2.1.1. Khái niệm năng lực tự học 2 2.1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc phát triển kĩ năng tự học cho HS 3 2.1.3. Một số yêu cầu khi hướng dẫn học sinh tự học 3 2.1.4. Các hình thức tự học. 3 2.2. Thực trạng của vấn đề. 4 2.3 Giải pháp thực hiện. 5 2.3.1. Hướng dẫn học sinh xác định mục đích học tập 5 2.3.2. Tạo hứng thú tự học môn lịch sử cho học sinh 2.3.3. Hướng dẫn học sinh tự làm việc với sách giáo khoa lịch sử 5 2.3.4. Tự làm việc với tài liệu tham khảo dưới sự hướng dẫn của giáo viên 2.3.5. Kết hợp nghe giảng với tự ghi chép 10 2.3.6. Sử dụng đồ dùng trực quan truyền thống và hiện đại 12 2.3.7. Tự ôn tập, củng cố kiến thức 14 2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 2.4.1. Hiệu quả 15 2.4.2. Kết quả thực nghiệm 16 3. Kết luận, kiến nghị 16 3.1. Kết luận. 16 3.2. Kiến nghị. 17 7 11 16 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Trong xã hội hiện nay, trước sự bùng nổ của tri thức, sự phát triển của khoa học kĩ thuật đặt ra yêu cầu bức thiết cho giáo dục là: Giáo dục đào tạo cho thế hệ trẻ không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức mà phải hướng tới việc bồi dưỡng cho học sinh khả năng tự học. Việc tự học thể hiện quan điểm giáo dục của Đảng ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ II của BCHTW Đảng khóa VIII về “Định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo” (12/1996) nhấn mạnh: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh” 8. Để thực hiện được định hướng đó, đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu trước bài học qua sách giáo khoa, đọc thêm các tài liệu liên quan, đề xuất vấn đề ... Hàng loạt các công việc độc lập trên chỉ có thể giải quyết được bằng con đường tự học. Bộ môn lịch sử ở trường THPT phải góp phần vào thực hiện mục tiêu giáo dục đã đặt ra. Muốn vậy việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông cần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học để phát triển cho học sinh các năng lực học tập, trong đó đặc biệt là năng lực tự học lịch sử nhằm nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn. Việc phát triển năng lực tự học nói chung, năng lực tự học lịch sử nói riêng có vai trò quan trọng trong dạy học ở trường THPT vì đó là một khâu trong quá trình thống nhất của việc dạy học, nhằm phát huy năng lực độc lập tư duy của các em trên lớp cũng như ở nhà. Trong những năm gần đây phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học lịch sử nói riêng đã chú trọng quan tâm nhiều đến vấn đề tự học nhưng mới chỉ dừng lại ở lí luận còn trong thực tiễn dạy học, giáo viên vẫn còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Nhiều giáo viên và học sinh vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc tự học nên không quan tâm chú trọng tới việc rèn luyện kĩ năng này. Đặc biệt đối với môn lịch sử, còn nhiều quan niệm lệch lạc cho rằng: Lịch sử là môn phụ, chỉ cần học thuộc, không cần tư duy sáng tạo, học lịch sử không phục vụ nhiều cho cuộc sống nên kĩ năng tự học trong dạy học lịch sử cũng không được coi trọng. Trong dạy học lịch sử, việc tự nắm vững kiến thức lịch sử một cách chính xác, vững chắc, được suy nghĩ nhận thức sâu sắc và có thể vận dụng một cách thành thạo qua đó hình thành ở các em tư cách, phẩm chất của người lao động – kiên trì, tự tin, sáng tạo là vô cùng cần thiết. Mặt khác, với nội dung kiến thức hết sức phong phú trong khi thời lượng các tiết học trên lớp hạn chế đòi hỏi học sinh phải tự học qua sách giáo khoa, qua khai thác thêm tài liệu tham khảo ngoài sách giáo khoa. Tuy nhiên, trong thực tế dạy và học ở các trường Trung học phổ thông trong tỉnh nói chung và trường Trung học phổ thông Đặng Thai Mai nói riêng, vấn đề tự học của học sinh còn nhiều hạn chế, chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Vì vậy trong quá trình tham gia giảng dạy trên lớp, bản thân tôi đã tìm tòi, thực hiện một số giải pháp phát triển năng lực tự học của học sinh và đã thu được kết quả rất khả quan. Xuất phát từ những lí do trên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường THPT” được thực nghiệm qua dạy bài Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 - 1925 lớp 12 chương trình chuẩn làm sáng kiến kinh nghệm. 1.2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở khẳng định tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh đề tài đi sâu vào đề xuất một cố biện pháp nhằm phát triển năng lực tự học của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông được thực nghiệm qua dạy bài Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 - 1925 lớp 12 chương trình chuẩn. Đồng thời, tôi cũng mong muốn được chia sẻ với các bạn đồng nghiệp những kinh nghiệm trong thực tế giảng dạy của mình nhằm nâng cao hiệu quả giờ học Lịch sử, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục đào tạo đặt ra cho bộ môn của chúng ta. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là những biện pháp sư phạm nhằm phát triển năng lực tự học trong dạy học lịch sử cho học sinh lớp 12 ở trường Trung học phổ thông Đặng Thai Mai. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được kết quả nghiên cứu tôi dựa trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học mà ngành giáo dục đang tiến hành và dựa trên thực tế giảng dạy. Tôi đã vận dụng tổng hợp các phương pháp: Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sưu tầm, đọc và phân tích các nguồn tài liệu như sách, báo, tạp chí, internet. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến đồng nghiệp ... Phương pháp thống kê, xử lí số liệu, thực nghiệm sư phạm. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 2.1.1. Khái niệm năng lực tự học Có nhiều quan điểm khác nhau về tự học nhưng có thể hiểu: Tự học là hoạt động mang tính độc lập, cá nhân, đòi hỏi có ý thức tự giác cao, có thái độ đúng, có tính mục đích, có mục tiêu rõ ràng, có hệ thống kĩ năng tự học1. Tự học thể hiện sự tự điều khiển, tự thiết kế kế hoạch, thực hiện kế hoạch độc lập, tự điều chỉnh, tự kiểm tra đánh giá việc học của chính mình theo hướng sáng tạo, nhằm tìm ra cách học để lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, hình thành và phát triển toàn diện nhân cách người học. Tự học lịch sử là việc nắm vững kiến thức lịch sử một cách chính xác, vững chắc và có thể vận dụng một cách thành thạo. Học sinh luôn chủ động trong việc tiếp thu kiến thức mới, ôn tập kiến thức đã biết và luôn tìm tòi, khám phá những tri thức lịch sử mới. Việc tự học phải được tiến hành với sự hứng thú, say mê và ý thức trách nhiệm, tinh thần lao động cần cù, độc lập hoàn thành những nhiệm vụ được giao1. 2.1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc phát triển năng lực tự học cho học sinh Tự học nói chung, tự học lịch sử nói riêng có vai trò quan trọng trong việc dạy và học ở trường THPT. Bởi vì, tự học là nhân tố nội lực quyết định chất lượng học tập, còn hoạt động dạy là ngoại lực có tác dụng định hướng, kích thích, điều khiển và chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình học. Tự học của học sinh là một khâu quan trọng trong quá trình thống nhất của việc dạy học, nhằm phát huy năng lực độc lập tư duy của các em. Hình thành năng lực tự học giúp người học có khả năng học tập suốt đời, là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Tự học lịch sử là việc tự nắm vững kiến thức lịch sử một cách chính xác, vững chắc, được suy nghĩ nhận thức sâu sắc và có thể vận dụng một cách thành thạo. Đó là quá trình đi từ biết đến hiểu đến vận dụng. Học tập lịch sử là quá trình nhận biết những điều đã diễn ra trong quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Phát triển năng lực tự học cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường THPT là thực hiện mục tiêu đào tạo con người trong thời đại mới. Như vậy có thể nói rằng tự học có vị trí, ý nghĩa to lớn trong việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, khi phát huy được năng lực tự học cho học sinh trong dạy học theo hướng tích cực hóa người học sẽ tránh được tình trạng học sinh thụ động tiếp thu kiến thức. 2.1.3. Một số yêu cầu khi hướng dẫn học sinh tự học. Phát triển năng lực tự học phải giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản và đáp ứng mục tiêu dạy học. Các biện pháp phát triển năng lực tự học phải có tính vừa sức phù hợp với đối tượng và khả năng nhận thức của học sinh Việc phát triển năng lực tự học qua sách giáo khoa, tài liệu tham khảo cho học sinh phải góp phần tích cực vào đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông Việc phát triển năng lực tự học cho học sinh bao gồm quá trình hình thành, rèn luyện và phát triển một hệ thống các kĩ năng liên quan. Cần được tiến hành thường xuyên, liên tục và phải kiểm tra đánh giá năng lực tự học của học sinh. 2.1.4. Các hình thức tự học lịch sử của học sinh Việc tự học của học sinh diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Có thể chia làm mấy loại cơ bản sau: Tự nhận thức trên lớp khi nghe giáo viên giảng (Biết tự điều chỉnh để nghe giảng, chọn lọc kiến thức để ghi chép, tự trả lời câu hỏi của giáo viên nêu ra…). Tự đọc sách giáo khoa và ghi tóm tắt ngắn gọn những vấn đề cơ bản, những nội dung khó hiểu, hoàn thành bài tập câu hỏi trong sách. Tự làm việc với bản đồ, tranh ảnh ngoài sách giáo khoa. Tự đọc các tài liệu lịch sử, văn học trong các sách tư liệu tham khảo, sách đọc thêm … nhằm hiểu rõ hơn những kiến thức đã học, mở rộng sự hiểu biết. Tự ôn tập dưới sự hướng dẫn của thầy. Việc phân loại hình thức tự học sẽ giúp cho giáo viên xác định các biện pháp sư phạm để hướng học sinh lĩnh hội kiến thức, bởi mỗi loại thể hiện một nội dung khác nhau thì phương pháp sử dụng cũng khác nhau. 2.2.Thực trạng của vấn đề Trong bối cảnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và nhà nước ta đã xác định vấn đề giáo dục là quốc sách. Đầu tư cho giáo dục chính là sự đầu tư cho tương lai. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước, nền giáo dục nước ta đang từng bước đổi mới cả về nội dung và phương pháp1. Về phương pháp dạy học nhằm phát huy năng lực hoạt động độc lập, tích cực của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng từ lâu đã được các nhà lí luận dạy học cũng như giáo viên ở trường phổ thông đặc biệt quan tâm. Một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học là phải chú trọng đến vai trò của người học, phát huy năng lực tự học cho học sinh bởi vấn đề tự học của học sinh là một trong những yếu tố quyết định chất lượng giáo dục. Người dạy dù cố gắng đến đâu nhưng người học không động não, không tìm tòi suy nghĩ thì kết quả dạy học không thể tốt được. Trong những năm gần đây, chúng ta đã cố gắng đưa ra các sáng kiến nhằm cải tiến việc tự học của học sinh trong điều kiện cụ thể của đất nước, địa phương2. Tuy nhiên hiện nay thực trạng phát triển năng lực tự học cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT qua quan sát cho thấy đa số học sinh ý thức tự học chưa cao, trong các tiết dạy giáo viên lại chưa đề cao đến vấn đề tự học, chưa hướng dẫn học sinh các biện pháp tự học một cách đúng đắn, khoa học. Một thực trạng nữa là môn Lịch sử không những không được học sinh yêu thích mà còn có học sinh ngại học, sợ học sử, các em chỉ học đối phó lấy điểm trung bình vì thi mà phải học, là một môn học nặng nề vì phải nhớ nhiều, học thuộc. Điều này làm cho những người có trách nhiệm trong nghành giáo dục - trực tiếp là giáo viên phải “dở khóc dở cười” khi đọc bài thi của học sinh do các em hiểu sai lịch sử. Nguyên nhân của thực trạng trên là do. Về phía giáo viên: Vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp truyền thống như thuyết trình, diễn giảng, ít mở rộng kiến thức… khiến học sinh không có hứng thú học tập. Một bộ phận không nhỏ giáo viên chưa hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự học. Về phía học sinh: Các em quan niệm môn lịch sử không quan trọng nên thời gian công sức các em dành cho tự học lịch sử cũng rất hạn chế, hơn nữa học sinh cũng chưa được trang bị các kĩ năng tự học nên việc tự học của các em mất nhiều thời gian mà hiệu quả lại không cao. Lí luận và thực tiễn trên đặt ra yêu cầu cần thiết phải phát triển cho học sinh năng lực tự học trong dạy học lịch sử. Để giải quyết vấn đề này cần có hệ thống các biện pháp cụ thể, khoa học. 2.3. Giải pháp thực hiện. 2.3.1. Hướng dẫn học sinh xác định mục đích tự học. Hướng dẫn học sinh xác định mục đích tự học gồm các bước sau: Bước 1: Xác định mục đích và nhu cầu học tập Bước 2: Lập kế hoạch học tập Bước 3: Thực hiện kế hoạch học tập. Bước 4: Kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Ví dụ: Khi học bài 12 Lịch sử Việt Nam lớp 12, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh xác định mục đích tự học như sau: - Xác định mục đích và nhu cầu: Tìm hiểu về công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp ở Đông Dương; rèn luyện các kĩ năng như: sử dụng tài liệu học tập, kĩ năng tư duy, kĩ năng giải quyết và trình bày vấn đề, kĩ năng tự kiểm tra đánh giá. - Lập kế hoạch tự học: Đọc và tìm hiểu SGK, các nguồn tài liệu tham khảo có liên quan; Khai thác thông tin, hình ảnh trên internet; Hỏi thầy cô, bạn bè, người thân. - Thực hiện kế hoạch học tập: Trình bày những nội dung mình đã tìm hiểu, trả lời các câu hỏi mà bạn bè, giáo viên đưa ra, ghi chép lại làm tư liệu học tập cá nhân. - Tự kiểm tra đánh giá: Qua những nhận xét, đóng góp, góp ý của bạn bè và thầy cô tự nhận thấy những thiếu sót và tự điều chỉnh. Như vậy thông qua việc xây dựng quy trình tự học, học sinh có thể dễ dàng xác định mục đích tự học cho bản thân. Qua các hoạt động có định hướng này sẽ giúp cho học sinh có mục đích tự học rõ ràng và lựa chọn những kiến thức mà mình muốn tìm hiểu thêm một cách rất tự nhiên, đầy mới mẻ và không dẫn đến nhàm chán. 2.3.2. Tạo hứng thú tự học môn Lịch sử cho học sinh. - Tạo hứng thú học tập cho học sinh vì hứng thú có tác dụng khích lệ học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động tự học, là cơ sở để hình thành thái độ làm việc cũng như ý chí vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ từ phía học sinh. Khi hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sở của hứng thú thì sẽ trở nên hào hứng, thoải mái và dễ dàng. Theo đó trong suốt quá trình giảng dạy giáo viên gây hứng thú học tập của học sinh có thể thông qua các biện pháp sau: 2.3.2.1. Tạo nên những yếu tố hấp dẫn để học sinh được trải nghiệm với sự kiện lịch sử. Với nội dung các bài học lịch sử hay và mang yếu tố khám phá trong khi tiến hành bài học giáo viên có thể mang vào giờ học những hình ảnh đắt giá, những thước phim tư liệu sống động, những tiếng cười sảng khoái khi hóa thân thành các nhân vật lịch sử… Điều này giúp cho việc học không căng thẳng, học sinh vừa được học vừa được chơi và được thưởng thức. Ví dụ khi dạy mục 1. Những cuộc phát kiến địa lý của bài 11 Tây Âu thời hậu kỳ trung đại. Có thể nói đây là phần kiến thức khá hay mang yếu tố khám phá, tuy nhiên lượng kiến thức trong SGK về các cuộc phát kiến địa lý rất ít, hầu như chỉ trình bày sơ lược về tên, ngày tháng diễn ra và điểm đến của các cuộc hành trình. Để kích thích sự hứng thú khám phá tri thức, mang lại nhiều màu sắc hơn trong giờ học giáo viên có thể tiến hành dạy mục: Những cuộc phát kiến địa lý dưới hình thức là những vở kịch ngắn cho học sinh đóng vai hóa thân thành những nhà phát kiến và những thủy thủ trên các cuộc hành trình. Thông qua những vở kịch ngắn học sinh vừa có kiến thức về các cuộc hành trình, giờ học lại trở nên sôi động và hấp dẫn hơn rất nhiều từ đó tạo nên hứng thú học tập cho học sinh. Để tiến hành giờ học theo hình thức này, giáo viên chọn trong lớp những em học sinh có học lực tốt, sôi nổi, yêu thích du lịch và khám phá các vùng đất mới thành 3 nhóm, mỗi nhóm có 4 thành viên. Nhóm 1: Có nhiệm vụ tìm hiểu và viết kịch bản về cuộc hành trình của Cô-lôm-bô. Nhóm 2: Tìm hiểu và lên kịch bản cho cuộc hành trình của Va-xcô đơ Ga-ma. Nhóm 3: Tìm hiểu và viết kịch bản cho cuộc thám hiểm của Ma-gien-lan. Số học sinh còn lại trong lớp đóng vai trò làm khán giả theo dõi các vở kịch ngắn của 3 nhóm và có nhiệm vụ điền vào phiếu học tập giáo viên giao cho với nội dung sau: Thời gian Tên các phát kiến địa lí Kết quả Trước khi tiến hành bài học hai tuần giáo viên họp nhóm, lên ý tưởng kịch bản, cung cấp nguồn tài liệu tham khảo và giao nhiệm vụ cho từng nhóm. Sau đó mỗi nhóm sẽ tiến hành tham khảo, tìm tư liệu và viết kịch bản, đưa kịch bản cho giáo viên góp ý và chỉnh sửa. Mỗi nhóm có một tuần để cùng nhau tập kịch. Để giờ học hào hứng và thú vị, kịch bản của các nhóm phải đạt được các tiêu chí là vừa mang tới kiến thức về các cuộc phát kiến địa lý, vừa tạo được sự lối cuốn thú vị cho người xem qua lời thoại, qua tạo hình hóa trang thành các nhân vật. Sự hấp dẫn có thể tạo ra từ nội dung hay hình thức. 2.3.2.2. Phát huy sức mạnh lời nói của giáo viên lịch sử. Thông qua những lời động viên, khích lệ học sinh kịp thời. Muốn khích lệ động viên học sinh, giáo viên phải biết nhu cầu thực của học sinh, xem các em cần gì, muốn gì để kịp thời có tác động phù hợp giúp đỡ học sinh. Khi nhu cầu được thỏa mãn chắc hẳn học sinh sẽ tìm thấy sự say mê và có hứng thú trong việc học 2.3.2.3 Ra các bài tập kích thích học sinh tìm tòi nghiên cứu. Giáo viên cũng có thể tạo ra những tình huống có vấn đề, làm nảy sinh nhu cầu mới cần khám phá về đối tượng cụ thể nào đó mà nếu như không thực hiện được các em sẽ cảm thấy khó chịu. Để thỏa mãn nhu cầu học sinh sẽ tìm tòi say mê và có hứng thú đối với chính đối tượng đó. Ví dụ: Khi dạy về phong trào Đông Du trong bài 23 phần Lịch sử Việt Nam lớp 11.Giáo viên có thể ra bài tập “Vì sao các sĩ phu yêu nước lại chọn đưa những thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập?”. Học sinh nhận được đề bài sẽ nảy sinh nhu cầu cần tìm hiểu về đối tượng, các em sẽ tích cực sưu tầm tư liệu, hình ảnh về các nhân vật trong phong trào Đông Du để có thể lý giải vì sao phong trào lại chọn Nhật Bản. Như vậy với những đề bài hay, kích thích tính tò mò cho học sinh vừa có tác dụng thúc đẩy nhu cầu cần tìm hiểu vừa khuyến khích học sinh mở rộng thêm kiến thức ngoài SGK, đây là một biện pháp rất hiệu quả trong việc phát triển năng lực tự học môn lịch sử cho học sinh THPT. 2.3.2.4. Sử dụng âm nhạc trong dạy học lịch sử. Những ca khúc cách mạng chính là một kho sử liệu bằng âm thanh phản ảnh nhiều sự kiện, nhân vật lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc ta ở thế kỷ XX. Ví dụ: Giáo viên có thể sử dụng bài hát “Tiến về Sài Gòn” một sáng tác của nhạc sỹ Lưu Hữu Phước để nói về khí thế hào hùng của quân và dân ta trong đại thắng mùa xuân năm 1975. Giáo viên có thể sử dụng bài hát này để nói về khí thế hào hùng của quân và dân ta trên đường hành quân để chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng - Chiến dịch Hồ Chí Minh và để nói về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng 1975 đối với toàn thể dân tộc ta. Nội dung và giai điệu của bài hát sẽ làm cho giờ học lịch sử trở nên mềm mại, uyển chuyển hơn rất nhiều so với việc giáo viên chỉ cung cấp những con số khô khan, từ đó học sinh sẽ được truyền cảm hứng và hứng thú học tập bộ môn. 2.3.3. Hướng dẫn học sinh tự làm việc với sách giáo khoa lịch sử. 2.3.3.1. Hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo khoa tại lớp. SGK là tài liệu học tập được sử dụng chủ yếu ở trường phổ thông. SGK nói chung, SGK lịch sử nói riêng có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong dạy học ở trường phổ thông. Đối với giáo viên, SGK là chỗ dựa đáng tin cậy không thể thiếu trong soạn và giảng bài. Đối với học sinh, SGK là tài liệu học tập cơ bản có ý nghĩa to lớn về các mặt bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng và giáo dục tư tưởng, tình cảm cho các em. Cấu trúc của SGK hiện hành bao gồm các phần: kênh chữ, kênh hình. Phần kênh chữ của sách là bài viết và các câu hỏi, bài tập. Phần kênh hình gồm tranh, ảnh, bản đồ, niên biểu, biểu đồ, đồ thị… Từ đặc trưng của SGK lịch sử như vậy, cho thấy kiến thức về tự làm việc với SGK cần hướng dẫn cho học sinh kĩ năng đọc hiểu. Đây là công việc quan trọng giúp học sinh khi đọc SGK hiểu được nội dung của từng mục trong bài viết, ghi chép lại những nội dung đã đọc. Trên cơ sở đọc từng mục của SGK, học sinh tìm được ý chính cho từng đoạn trong mục, các em viết những ý đó thành một dàn ý theo trình tự nội dung SGK trình bày. Việc lập dàn ý những nội dung đọc được từ SGK sẽ giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản, biết lập đề cương (dàn ý), xử lý và hệ thống hóa kiến thức để ghi nhớ dễ dàng. Việc khái quát lại nội dung kiến thức trong SGK, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh lập bảng biểu, vẽ sơ đồ nhận thức như: sơ đồ tư duy, sơ đồ mạng, sơ đồ nhánh… Ví dụ, khi hướng dẫn HS đọc SGK LS lớp 12, chương I – Bài 12 “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925 ”, GV có thể hướng dẫn HS cách khái quát hóa lại kiến thức bằng cách vẽ sơ đồ về chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp, như sơ đồ dưới đây: Qua việc vẽ sơ đồ học sinh sẽ hệ thống hóa được nội dung kiến thức có trong SGK, từ đó các em không những hiểu được nội dung trong SGK mà còn có thể so sánh đối chiếu với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. 2.3.3.2. Hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo khoa ở nhà trước giờ học. Thời gian trên lớp chỉ gói gọn trong 45 phút với nhiều hoạt động, vì vậy việc đọc SGK chuẩn bị bài trước khi học ở trên lớp nên là một yêu cầu bắt buộc với một giờ học lịch sử của học sinh THPT. Đây là một hoạt động tư duy độc lập có chủ đích của bản thân và là hoạt động có ý nghĩa thiết thực đối với việc rèn luyện nhiều kĩ năng nhằm hình thành và phát triển năng lực tự học lịch sử cho học sinh. Để rèn luyện năng lực tự học cho học sinh thông qua làm việc với SGK trước giờ học đòi hỏi ở học sinh tính tự giác, nghiêm túc suy nghĩ kĩ trước khi đọc bài. Qua đó giáo viên cũng có thể kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh để kịp thời đôn đốc, nhắc nhở, hướng dẫn học sinh tự học tốt hơn. Ví dụ: Trước khi dạy học bài 6 – lớp 11: “ Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 - 1918” Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm, yêu cầu học sinh về nhà đọc SGK lịch sử lớp 11 trang 33, 34, 35 và phân công nhiệm vụ cụ thể như sau: + Nhóm 1: Tìm hiểu về diễn biến Chiến tranh thế giới thứ nhất từ 1914 – 1916. + Nhóm 2: Tìm hiểu về diễn biến Chiến tranh thế giới thứ nhất từ 1917 – 1918. Đến giờ học giáo viên đưa lược đồ sau yêu cầu đại diện các nhóm lên báo cáo sản phẩm của nhóm qua lược đồ. Số còn lại có nhiệm vụ nghe, nhận xét và điền vào phiếu học tập giáo viên giao với nội dung sau: Thời gian Chiến sự Kết quả Khi tiến hành bài học các em nắm bài rất tốt, ghi chép rõ ràng và hăng hái phát biểu ý kiến. Như vậy, trang bị cho học sinh kiến thức về sử dụng SGK giúp học sinh có thể tự xác định nội dung kiến thức khó, gây thắc mắc. Từ những thắc mắc đó học sinh có thể trao đổi với bạn bè, với thầy cô. Trải qua quá trình tìm tòi, khi được giải đáp học sinh sẽ hiểu sâu sắc vấn đề và có thể nhớ rất lâu. Mặt khác việc đọc trước SGK tạo nên sự hào hứng, tò mò, từ đó kích thích học sinh khao khát tìm tòi và khám phá. Trong thực tế giáo viên có thể khuyến khích, khơi gợi để học sinh tìm hiểu vấn đề, sưu tầm các tài liệu liên quan đến bài học. 2.3.4. Tự làm việc với tài liệu tham khảo dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, bên cạnh SGK, tài liệu tham khảo (tài liệu LS, tài liệu văn học) có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với giáo viên và học sinh. Việc sử dụng tài liệu tham khảo trong học tập lịch sử còn giúp học sinh có cơ sở để nắm vững bản chất của sự kiện, hình thành khái niệm, hiểu rõ quy luật và bài học kinh nghiệm. Qua sử dụng tài liệu tham khảo còn rèn luyện cho học sinh có thói quen đọc sách, nghiên cứu khoa học, phát triển tư duy lịch sử và giúp các em hiểu rõ hơn SGK. Công việc này cần thực hiện: Giáo viên nêu bài tập, giới thiệu cho học sinh sách và chỉ rõ chương, mục cần nghiên cứu; Học sinh nghiên cứu sách kết hợp với SGK để làm bài tập. Khi tiến hành đọc sách học sinh cần chú ý: Tự ghi chép khi đọc sách (tên sách, tác giả), thời gian đọc; nội dung chủ yếu của sách theo dạng dàn ý; những câu thích thú, tâm đắc; Suy nghĩ và ghi những vấn đề cần rút ra sau khi đọc sách. Sự phong phú về tư liệu làm bài học sinh động, hấp dẫn và dễ nhớ hơn. Học sinh biết rộng, hiểu sâu kiến thức hơn. Tuy nhiên việc hướng dẫn cho học sinh tự làm việc với tài liệu tham khảo đòi hỏi nhiều thời gian, công sức cho việc tìm và đọc tài liệu. Để khắc phục nhược điểm này giáo viên cần định hướng cho học sinh. Ví dụ như chỉ rõ tên tài liệu, trang cần tìm, những nội dung nào cần ghi chép lại… kết hợp với việc giao bài tập về nhà có những nội dung cần phải sử dụng đến các tư liệu ngoài SGK. Ví dụ: khi dạy học bài 25 “Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn (nửa đầu thế kỉ XIX)”. Ở mục 1 “Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước - chính sách ngoại giao” Giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu về Nhà Nguyễn, những nhận xét đánh giá về công và tội của triều đình Nhà Nguyễn, từ đó đưa ra những nhận xét của bản thân về triều Nguyễn. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ tìm hiểu về nhà Nguyễn qua: sách, báo, internet…có thể học sinh sẽ tìm được nhiều nguồn tư liệu khác nhau, với nhiều cách nhìn nhận đánh giá về công và tội của triều đình nhà Nguyễn đối với lịch sử dân tộc. Giáo viên sẽ định hướng, hướng dẫn học sinh có một cách nhìn công tâm nhất khi đánh giá về triều đình này chẳng hạn như đã có công hoàn thành việc thống nhất đất nước, mở rộng bờ cõi. Tuy nhiên lại cầu viện người Pháp từ đó tạo điều kiện cho người Pháp có nhiều cơ hội hơn trong việc xâm chiếm nước ta. Qua quá trình sưu tầm tư liệu, qua việc trao đổi thảo luận với các bạn cùng lớp, qua định hướng của giáo viên học sinh sẽ càng hiểu sâu kiến thức lịch sử và biết cách đánh giá một triều đại lịch sử theo quan điểm của sử học Mác xít. 2.3.5. Kết hợp nghe giảng với tự ghi chép. Nghe và ghi là những kĩ năng cơ bản học sinh cần có trong quá trình học tập. Nó giúp học sinh vừa theo dõi được bài giảng của giáo viên để lĩnh hội kiến thức, hiểu kiến thức và tự ghi vào vở những điều cần thiết. Qua đó giáo dục cho học sinh ý thức tự giác, kiên nhẫn, khả năng chú ý vào đối tượng và tư duy nhanh. Khi học tập ở trên lớp, học sinh phải vận dụng nhiều thao tác như nghe giảng, ghi chép, suy nghĩ, trả lời câu hỏi… Vì vậy, trong quá trình nghe giảng các em phải biết chọn lọc kiến thức để ghi chép theo ý hiểu của bản thân. Công việc này bao gồm các hoạt động: Trước hết, biết xác định nội dung cần ghi khi nghe giảng. Bên cạnh đó giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh ghi lại những kiến thức phân tích, đánh giá mở rộng của giáo viên khi giảng bài. Hai là, biết gác lại những chỗ khó chưa hiểu và tìm hiểu điều đó ở phần sau, để việc nghe giảng và ghi chép không bị gián đoạn. Ba là, tự nêu câu hỏi sau khi nghe giảng để hiểu sâu kiến thức và làm rõ những chỗ chưa hiểu. Để giúp học sinh hiểu sâu kiến thức về kĩ năng tự ghi chép kết hợp nghe giảng, Giáo viên sử dụng phiếu ghi Biết - Thắc mắc - Hiểu (K–W - L) và hướng dẫn học sinh cách ghi bài vào vở sao cho hiệu quả nhất. Giáo viên có thể định hướng cho học sinh ghi chép hiệu quả hơn bằng cách gợi ý cho các em tham khảo các câu hỏi cuối mục, cuối bài. Cuối buổi học, giáo viên dành 5 phút cho học sinh ghi lại những điều đã học được từ bài học vào phiếu, sau đó cho học sinh trao đổi trước lớp những điều còn thắc mắc và những điều đã hiểu. Nếu không đủ thời gian, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà hoàn thành và kiểm tra lại vào đầu giờ học sau. Ví dụ: Khi dạy bài 10 lịch sử lớp 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến Tây Âu (Từ thế kỉ V đến thế kỉ XIV). Giáo viên yêu cầu học sinh ghi lại những gì em biết về “Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến Tây Âu” (Khi chưa học). Sau đó đưa ra những câu hỏi, những điều em muốn biết về sự hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu. Sau khi học bài xong hãy ghi lại những gì em đã học được theo phiếu sau: Những điều em biết Những mắc điều thắc Những điều học được sau bài học 2.3.6. Sử dụng đồ dùng trực quan truyền thống và hiện đại Do đặc điểm của việc học lịch sử là không trực tiếp quan sát được nên việc sử dụng đồ dùng trực quan để khai thác nội dung kiến thức có ý nghĩa rất quan trọng. Có nhiều loại đồ dùng trực quan khác nhau, cách sử dụng và hiệu quả cũng khác nhau song đều có ý nghĩa góp phần vào việc tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử. Có nhiều loại đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THPT song về cơ bản có thể chia ra làm ba nhóm: đồ dùng trực quan hiện vật (di tích lịch sử, di vật khảo cổ…); Đồ dùng trực quan tạo hình (mô hình, sa bàn, hình vẽ, phim ảnh…); Đồ dùng trực quan quy ước (bàn đồ, niên biểu, đồ thị, sơ đồ, các loại phương tiện kĩ thuật…). Khi hướng dẫn học sinh biết khai thác đồ dùng trực quan để phát triển năng lực tự học cần tuân thủ các bước sau: - Bước 1: Xác định rõ mục đích và nhiệm vụ học tập. - Bước 2: Thu thập, phân tích và đánh giá các tư liệu từ đồ dùng trực quan. - Bước 3: Xác định nội dung mà đồ dùng trực quan muốn truyền tải. - Bước 4: Lựa chọn các phương pháp để trình bày nội dung kiến thức từ đồ dùng trực quan. Ví dụ 1: Khi khởi động vào bài mới: Bài 12 - “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 – 1925” (Lớp 12 chương trình chuẩn) để tạo ra tình huống dẫn dắt học sinh liên hệ kiến thức văn học, thực tế để kết nối có hệ thống và nắm sâu kiến thức mới. Giáo viên cho học sinh xem một đoạn clip và giới thiệu: Đây là một đoạn trích trong phim Chị Dậu của đạo diễn Phạm Văn Khoa. - Chuyển giao nhiệm vụ: Qua theo dõi đoạn clip em có nhận xét gì về tình cảnh của ngưới dân Việt Nam trong thời kì này? - HS tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ: HS suy nghĩ trả lời câu hỏi. - Báo cáo sản phẩm: HS trình bày suy nghĩ của mình. - HS khác nhận xét, bổ sung. - GV nhận xét, kết luận: Đây là tình cảnh của người dân Việt Nam thời Pháp thuộc: nghèo đói, túng quẫn, không lới thoát. Đó chính là hậu quả của chính sách khai thác bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp để hiểu rõ chính sách khai thác, bóc lột của Pháp hôm nay cô và các em cùng tìm hiểu bài mới. Ví dụ 2: Sau khi học xong mục “Những cuộc phát kiến địa lý” của bài 11: Tây Âu hậu kì trung đại, giáo viên phát cho học sinh một lược đồ về các cuộc phát kiến địa lý như sau: Từ lược đồ trên, giáo viên yêu cầu học sinh trình bày lại ngắn gọn đường đi các cuộc phát kiến địa lý của Cô-lôm-bô, Va-xcô đơ Ga-ma và Ma-gien-lan với bạn ngồi kế bên kết hợp với sử dụng phiếu học tập trống về các cuộc phát kiến địa lý để học sinh điền vào. Sau đó yêu cầu đại diện một em học sinh lên trình bày trước lớp về kết quả thảo luận nhóm. Phiếu học tập: Hãy điền thông tin vào các ô trống Phát kiến:… …………… .. Phát kiến địa lí ` Phát kiến:… …………… .. Phát kiến:… …………… .. Phát kiến:… …………… .. Thời gian:…… Hướng đi:…… Thời gian:……. Hướng đi:……. Thời gian:……. Hướng đi:……. Thời gian:……. Hướng đi:……. Kết quả:…….. ……………… …….. Kết quả:…….. ……………… …….. Kết quả:…….. ……………… …….. Kết quả……….. ……………… …….. Khi kết hợp cả lược đồ và phiếu học tập kết quả bài làm của học sinh sẽ tốt hơn. Từ đó bước đầu khẳng định, nếu giáo viên hướng dẫn học sinh biết sử dụng lược đồ thì các em sẽ hiểu bài rõ hơn, đặc biệt là ở những bài cần xác định hướng, xác định địa điểm của các sự kiện hiện tượng lịch sử. Như vậy, nếu học sinh được rèn luyện thường xuyên thì không những giúp cho các em hiểu bài hơn mà còn góp phần giúp các em phát triển khả năng tự học thông qua đồ dùng trực quan một cách hiệu quả. 2.3.7. Tự ôn tập, củng cố kiến thức. Ôn tập còn là một khâu của bài học trên lớp và được tiến hành thường xuyên trong các bài học nghiên cứu kiến thức mới. Khi tiến hành loại bài nghiên cứu kiến thức mới khâu củng cố, ôn tập hay ôn luyện có thể đan xen vào nhau. Ôn tập tổng kết được tiến hành sau khi kết thúc một chương hay một giai đoạn lịch sử trong chương trình và chuẩn bị cho kiểm tra, đánh giá tổng kết. Do vậy, ôn tập và ôn luyện đều nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức, kĩ năng cho học sinh. Tự ôn tập kiến thức lịch sử bao gồm: + Biết tự củng cố và hệ thống hóa kiến thức đang học sau mỗi mục, phần của bài học thông qua việc ghi nhớ phần chốt kiến thức của giáo viên hay trả lời câu hỏi giáo viên đưa ra. + Biết sử dụng kiến thức đã học để tự giải quyết các bài tập về nhà mà GV đưa ra để củng cố, ôn lại kiến thức. + Biết tái hiện lại kiến thức của bài học cũ trả lời câu hỏi kiểm tra ở đầu giờ học sau để củng cố, ôn lại kiến thức cũ. + Biết tái hiện lại và sử dụng kiến thức đã nắm vững để trả lời câu hỏi hay trao đổi thảo luận trong giờ ôn tập, tổng kết. + Tự hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức của giai đoạn hay phần LS Ví dụ: Sau khi học xong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 19461954 ở lớp 12, giáo viên hướng dẫn học sinh tự lập bảng niên biểu về thắng lợi của quân dân ta trên các lĩnh vực như sau: Thời gian Quân sự Thắng lợi Chính Kinh tế trị VHGD Ý nghĩa Hoặc sau khi kết thúc bài Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 – 1918 ở lớp 11, Giáo viên hướng dẫn học sinh tự hệ thống hóa kiến thức thông qua việc lập sơ đồ như sau: 2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 2.4.1. Hiệu quả. Với bản thân, đồng nghiệp: Phát triển kĩ năng tự học cho học sinh trong dạy học lịch sử giúp giáo viên tiến hành bài dạy chủ động, sinh động hơn. Những tiến bộ của học sinh: Học sinh hào hứng trong giờ học, tiếp thu bài tốt hơn, tích cực, chủ động trong việc nắm bắt kiến thức. Với phong trào giáo dục của nhà trường, ở địa phương: Tạo không khí tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng bộ môn. 2.4.2. Kết quả thực nghiệm. Tôi chọn 2 lớp: 12A4, 12A5 là 2 lớp cơ bản có lực học tương đương nhau, đều học mức trung bình đến khá. Tuy nhiên để kiểm nghiệm đề tài, tôi chọn 12A4 là lớp thực nghiệm đề tài, 12A5 tôi không áp dụng đề tài, vẫn dạy theo cách truyền thống, đọc - chép, hỏi - vấn đáp. Cả hai lớp tôi đều dạy bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 – 1925 (lớp 12 chương trình chuẩn) (Giáo án ở phần phụ lục). Kết quả đạt được như sau: Lớp Sĩ số 12A4(TN) 42 12A5(ĐC) 36 Giỏi SL % 7 16.7 01 2.8 Khá SL % 22 52.4 15 41.7 T. Bình SL % 11 26.2 16 44.4 Yếu SL % 2 4.8 3 11.1 Qua quá trình áp dụng đề tài vào thực tiễn dạy học lịch sử lớp 12 tại trường THPT Đặng Thai Mai, tôi đã thu được kết quả rất đáng khích lệ. Đặc biệt trong các giờ học lịch sử đã được học sinh đón nhận một cách hào hứng thậm chí còn rất nhiều học sinh mong đến giờ học lịch sử để được tìm hiểu, khám phá. Đây là nguồn động viên khích lệ rất lớn đối với giáo viên dạy lịch sử nhất là trong bối cảnh học sinh và phụ huynh ngày càng có xu hướng chỉ chú trọng các môn tự nhiên như hiện nay. 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận Ngày nay muốn đào tạo con người khi vào đời là con người tự chủ, năng động và sáng tạo thì phương pháp giáo dục cũng phải hướng vào việc chủ động, rèn luyện và phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, sáng tạo ngay trong lao động, học tập ở nhà trường. Sẽ là rất sai lầm khi cho rằng Lịch sử là môn học không cần sáng tạo. Mặc dù là bộ môn yêu cầu tính chân thực, chính xác cao, nhưng mỗi giáo viên có cách truyền đạt kiến thức lịch sử khác nhau, mỗi học sinh có cách tiếp cận khác nhau. Môn Lịch sử sẽ trở nên phong phú, đa dạng, hấp dẫn nếu người thầy tâm huyết, trách nhiệm, luôn tìm tòi những phương pháp, kỹ thuật dạy học mới để truyền lửa, truyền niềm đam mê học tập đến học sinh; để học môn lịch sử là một quá trình khám phá, giải mã, suy ngẫm về quá khứ thông qua các nguồn sử liệu, từ đó hình thành nên nhân cách, phẩm chất, năng lực người học; để mỗi học sinh trở thành "nhà sử học nhỏ" thay vì là một "cỗ máy" ghi nhớ các sự kiện, đánh giá. Để nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường THPT nói chung, nâng cao năng lực tự học cho học sinh trong dạy học lịch sử nói riêng, GV cần thực hiện vai trò tổ chức, hướng dẫn trong cả các hoạt động trên lớp lẫn các hoạt động tự học ở nhà. Do vậy, GV cần có kiến thức chuyên môn vững vàng, luôn rèn luyện các kĩ năng nghiệp vụ, các thao tác sư phạm. Khi xây dựng kế hoạch dạy học giáo viên cần chú trọng đến việc tìm hiểu xem đối tượng học sinh của mình đã có năng lực tự học ở mức độ nào, từ đó có cách xây dựng các hoạt động học tập nhằm hình thành các kĩ năng chưa có và phát triển các kĩ năng mà học sinh đã có nhưng chưa thành thạo. Làm như vậy sẽ khắc phục được những hạn chế trong thực tế như: Giáo viên dạy lại những kiến thức học sinh đã học, đã biết làm giảm hứng thú học tập của học sinh. Đồng thời cần thường xuyên hướng dẫn luyện tập giúp học sinh nâng cao được năng lực tự học cho bản thân và kịp thời động viên, khích lệ học sinh qua lời nói giúp cho các em có hứng thú học tập bộ môn. 3.2. Kiến nghị. Việc đổi mới phương pháp dạy học là bước đầu của một quá trình lâu dài. Nó đòi hỏi sự tham gia của toàn ngành giáo dục. Đứng về phía người dạy tôi có một số kiến nghị sau: 3.2.1. Với cơ quan quản lí nhà nước. Những sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp chúng tôi ở các đơn vị khác đã được sở giáo dục lựa chọn cần phổ biến rộng rãi trong ngành để chúng tôi có điều kiện học tập, đồng thời phát huy được sáng kiến đó. Dạy bộ môn lịch sử cần rất nhiều giáo cụ trực quan cũng như đồ dùng dạy và học. Vậy kính mong nhà trường, sở giáo dục và các cơ quan ban ngành có liên quan tạo điều kiện về cơ sở vật chất, cung cấp nhiều tài liệu tham khảo, sách nâng cao để việc dạy và học lịch sử ngày càng tốt hơn. Cần có những chuyên đề chuyên sâu hướng dẫn giáo viên xây dựng quy trình, cách thức dạy học sinh tự học, thiết kế các công cụ hướng dẫn học sinh tự học và tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập. 3.2.2. Với sự quản lí chỉ đạo của ban giám hiệu. Khắc phục những khó khăn để đầu tư cho việc đổi mới trang thiết bị dạy học của bộ môn lịch sử như: Băng đĩa hình, tư liệu, bản đồ, sơ đồ, tranh ảnh … Tạo điều kiện khuyến khích cho giáo viên được thử nghiệm những ý tưởng mới mẻ, sáng tạo trong giờ học, linh hoạt hơn trong công tác kiểm tra quản lí giáo án, đồ dùng dạy học của giáo viên. Tổ chức tập huấn cho giáo viên bộ môn, chỉ đạo ra đề kiểm tra, đánh giá quá trình học tập của học sinh theo hướng tự học 3.2.3. Với tổ, nhóm chuyên môn. Trong các buổi họp chuyên môn dành nhiều thời gian hơn nữa cho việc trao đổi, học hỏi kinh nghiệm khi thực hiện phương pháp dạy học mới. Mặt khác tiến hành đánh giá rút kinh nghiệm kịp thời và nghiêm túc. 3.2.4. Với học sinh. Học sinh phải tạo được thói quen chuẩn bị bài thật kĩ trước khi đến lớp. Đây là một yêu cầu bắt buộc để các em khi lên lớp chủ động tìm hiểu tri thức dưới sự dẫn dắt của giáo viên. Học sinh cần nắm được phương pháp và kĩ thuật tự học thông dụng: Kĩ thuật nghe, ghi chép bài, đọc bài hiệu quả, cách ghi nhớ thông tin, sử dụng bản đồ tư duy và ứng dụng công nghệ thông tin trong tự học. Trong quá trình viết sáng kiến kinh nghiệm có thể không tránh khỏi thiếu sót, khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp để đề tài này được hoàn thiện hơn. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh hóa, ngày 30 tháng 6 năm 2020 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết không sao chép nội dung của người khác. Trần Thị Hậu TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất