Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết sông côn mùa lũ của nguyễn mộng giác luậ...

Tài liệu Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết sông côn mùa lũ của nguyễn mộng giác luận văn thạc sĩ ngữ văn

.DOC
128
216
98

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN THỊ XUÂN NGỌC NGHÊÊ THUÂÊT TRẦN THUÂÊT TRONG TIỂU THUYẾT SÔNG CÔN MÙA LU CỦA NGUYỄN MÔ NG GIÁC Ê LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Nghệ An, 2012 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN THỊ XUÂN NGỌC NGHÊÊ THUÂÊT TRẦN THUÂÊT TRONG TIỂU THUYẾT SÔNG CÔN MÙA LU CỦA NGUYỄN MÔ NG GIÁC Ê Chuyên ngành: Văn học Viê êt Nam Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thời Tân Nghệ An, 2012 3 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài trường Đại học Đồng Tháp, Đại học Vinh. Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc tới TS. Lê Thời Tân, trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, người đã luôn tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô khoa Ngữ Văn, khoa Sau Đại học trường Đại học Đồng Tháp, trường Đại học Vinh đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Trong quá trình làm đề tài, tôi còn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bô ê thư viê ên trường Đại học Đồng Tháp và Đại học Vinh đã giúp đỡ tôi về mă êt tài liê êu tham khảo. Lời cuối cùng tôi xin chân thành cảm! Đồng Tháp, ngày 18 tháng 10 năm 2012 Nguyễn Thị Xuân Ngọc 4 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU................................................................................................01 1. Lí do chọn đề tài..................................................................................01 2. Lịch sử vấn đề.....................................................................................03 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................08 4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................08 5. Những đóng góp của luận văn.............................................................08 6. Cấu trúc luận văn.................................................................................09 Chương 1................................................................................................10 QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC SÔNG CÔN MÙA LU VÀ TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN CỦA VIỆC PHÂN TÍCH NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TIỂU THUYẾT NÀY.....................10 1.1. Lí luận về kết cấu tác phẩm tự sự và kết cấu tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ..................................................................10 1.1.1. Quá trình sáng tác tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ.........................10 1.1.2. Lý thuyết kết cấu tác phẩm tự sự..................................................15 1.1.3. Kết cấu tiểu thuyết lịch sử dưới góc độ tự sự học.........................21 1.1.4. Kết cấu tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ .........................................23 1.2. Cốt truyện Sông Côn Mùa Lũ...........................................................29 1.2.1. Lý thuyết cốt truyện......................................................................29 1.2.2. Những tiền đề cơ sở hình thành cốt truyện...................................31 1.2.3. Cốt truyện tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ......................................34 1.3 Không gian và thời gian trần thuật trong Sông Côn Mùa Lũ............36 1.3.1. Không gian trần thuật trong Sông Côn Mùa Lũ............................36 1.3.2. Thời gian nghệ thuật trong Sông Côn Mùa Lũ..............................41 1.4. Đối sánh Sông Côn Mùa Lũ với tự sự sử học về đề tài Tây Sơn trên một số phương diện nghệ thuật trần thuật...............47 5 Chương 2................................................................................................56 CHỦ THỂ TRẦN THUẬT TRONG SÔNG CÔN MÙA LU..............56 2.1. Lí thuyết về điểm nhìn trần thuật ....................................................56 2.1.1. Lý luận về điểm nhìn trần thuật....................................................56 2.1.1.1. Điểm nhìn trần thuật bên ngoài .................................................56 2.1.1.2. Điểm nhìn trần thuật bên trong..................................................56 2.1.1.3. Điểm nhìn trần thuật di động......................................................56 2.1.2. Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ ...........56 2.2. Hình tượng người kể chuyện trong tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ. .63 2.2.1. Người kể chuyện toàn tri...............................................................64 2.2.2. Người kể chuyê n đa thức..............................................................67 ê 2.3. Nhân vâ êt trong tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ...................................69 2.3.1. Nhân vật mang khát vọng lịch sử .................................................69 2.3.2. Nhân vật số phận trong dòng lịch sử.............................................82 Chương 3................................................................................................91 NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TIỂU THUYẾT SÔNG CÔN MÙA LU................................................91 3.1. Ngôn ngữ người kể chuyện..............................................................91 3.1.1. Lớp ngôn ngữ lịch sử trang trọng, cổ kính....................................93 3.1.2. Lớp ngôn ngữ tiểu thuyết nhiều màu sắc, giàu cá tính..................96 3.2. Ngôn ngữ nhân vật...........................................................................98 3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại........................................................................99 3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại.......................................................................104 3.3. Giọng điệu trần thuật........................................................................110 3.3.1. Giọng điệu thành kính, ngợi ca ....................................................112 3.3.2. Giọng điệu trữ tình sâu lắng..........................................................114 3.3.3. Giọng hoài nghi chất vấn..............................................................117 3.3.4. Giọng điệu triết lí chiêm nghiệm...................................................120 KẾT LUÂÊN............................................................................................125 TÀI LIÊÊU THAM KHẢO....................................................................128 6 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Tự sự học (narratologie) là một phân môn nghiên cứu cấu trúc diễn ngôn truyện kể. Lý thuyết tự sự học dựa trên hai nền tảng cơ bản của thi pháp học và cấu trúc học. Tự sự học là khuynh hướng nghiên cứu có tính thời sự hiện nay ở Việt Nam . Mặc dù thế giới đã đi qua hai giai đoạn: tự sự học kinh điển (narratologie classique) và tự sự học hậu kinh điển (Narratologie post classique), nhưng ở Việt Nam, tự sự vẫn là một phân môn khá “non trẻ”. Tự sự đã trở thành một hướng nghiên cứu mới vừa hấp dẫn, vừa phức tạp trong giới lý luận - phê bình, và đặc biệt là ở các trường đại học Việt Nam. Việc vận dụng tự sự học vào nghiên cứu tiểu thuyết nhất là tiểu thuyết lịch sử hứa hẹn nhiều điều thú vị. 1.2. Văn học Việt Nam từ 1986 trở đi đã có nhiều thành tựu to lớn. Một trong những thành tựu đó phải kể đến là sự chuyển đổi theo hướng hiện đại hóa về phương thức sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn, nhà thơ. Tiểu thuyết Việt Nam, một thể loại được coi là rất quan trọng của nền văn học hiện đại Việt Nam thế kỉ XX. Tiểu thuyết vẫn được coi như là mảnh đất lưu giữ hình ảnh lịch sử của một dân tộc. Tiểu thuyết Việt Nam viết bằng Quốc ngữ dù sao vẫn còn là non trẻ trong độ dài khoảng 100 năm so với tiểu thuyết trong các nền văn học khác như Tây Ban Nha, Pháp, Trung Quốc có lịch sử nhiều thế kỉ... Đặc biệt là mảng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam, mặc dù 7 số lượng tác phẩm không nhiều nhưng vẫn để lại những dấu ấn quan trọng cho thể tài. Trong số các thể loại của văn học đương đại, “tiểu thuyết được coi là cỗ máy cái”, “là sử thi về đời tư” (Bê-lin-xki); là nơi mà cuộc đời được phơi trên trang giấy một cách chân thực nhất, sâu sắc nhất; là “giá trị không thể thay thế được”. Một tiểu thuyết hay không phụ thuộc độ dài, ngắn, số lượng trang, mà ở chỗ nó khám phá và lý giải ra sao về một lĩnh vực nào đó của đời sống, “đặt ra những câu hỏi” nhân sinh và tìm cách “trả lời những câu hỏi đó” như thế nào. Tiểu thuyết đương đại thể hiện một bước đột phá mạnh mẽ về “kỹ thuật tự sự”, tiết tấu trần thuật nhanh hơn; kết cấu phức tạp, biến hoá, đan xen nhiều tầng bậc; phương thức xây dựng nhân vật cũng hoàn toàn khác trước. Văn học đương đại nói chung và tiểu thuyết đương đại nói riêng không quan tâm quá mức đến việc nhà văn viết về đề tài gì: về cuộc sống, lịch sử, văn hóa…nữa mà chủ yếu là xem nhà văn đó viết như thế nào về cùng một đề tài với những người khác; xem “kỹ thuật” của anh ta có những nét gì mới và khác lạ. Trong cùng công việc là “cày xới mảnh đất hiện thực”, ai “trồng được cây” tốt hơn có nghĩa là người đó phải có một kỹ thuật riêng, ở đó phát huy đầy đủ và hiệu quả nhất toàn bộ bí quyết, “kỹ năng, kỹ xảo” và sở trường của anh ta. Từ 1986 trở đi, ta đã thấy có rất nhiều đổi mới trong phương thức sáng tạo ở các tác phẩm tự sự của các nhà văn: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Hướng, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thân,… Đặc biệt sự xuất hiện của những cuốn tiểu thuyết lịch sử của Lê Đình Danh, Nguyễn Mộng Giác… viết về đề tài Tây Sơn. Tuy nhiên chúng tôi mới chỉ thấy một số bài báo viết giới thiệu về tác giả này và bình luận về những tác phẩm mới đây của hai ông; chưa thấy có ai nghiên cứu chuyên sâu về nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn trẻ này. Mặt khác người tiếp nhận tiểu thuyết lịch sử vẫn còn nhầm lẫn về vai trò, nhiệm vụ, chức năng của thể loại này và đồng nhất nó như một tác phẩm lịch sử. Vì thế khi tác phẩm Sông Côn Mùa Lũ của nhà văn hải 8 ngoại Nguyễn Mộng Giác ra mắt đã dấy lên những tranh luận trong giới nghiên cứu và độc giả. 1.3. Trong lịch sử Việt Nam, triều đại Tây Sơn là một giai đoạn lịch sử hào hùng, một mốc son chói lọi trong sử sách với ánh hào quang là người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, sau là hoàng đế Quang Trung cùng với các sự kiện trọng đại bốn lần vào Nam truy chúa Nguyễn, ba lần ra Bắc diệt vương tôn, đánh tan ba kẻ thù xâm lược: Xiêm, Pháp và kì diệu nhất là trận đại phá quân Thanh… những chiến thắng đó không thể không nhắc đến các danh tướng kiên trung, hào kiệt dưới trướng vị lãnh tụ tài ba. Câu chuyện triều đại Tây Sơn đã trở thành đề tài hấp dẫn cho các nhà văn khai thác dưới nhiều góc độ và một loạt các tác phẩm đã ra đời: Hoàng đế Quang Trung, Gió lửa, Phẩm tiết, Sông Côn mùa lũ, Tây Sơn bi hùng truyện,… Với những lí do trên tôi quyết định tìm hiểu về đề tài: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Tự sự học là lĩnh vực tri thức liên ngành, nghiên cứu về một trong những phương thức căn bản kiến tạo lại bức tranh thế giới sự kiện khúc xạ vào hình dung của con người, hình thành ý nghĩa của nó trong quá trình truyền đạt, giao tiếp. Tự sự học hiểu theo nghĩa rộng như vậy có nguồn gốc và quá trình phát triển lâu đời bắt rễ từ lịch sử nghiên cứu văn hoá của nhân loại từ thời Cổ đại. Theo một nghĩa hẹp hơn, tự sự học như một hệ thống học vấn chặt chẽ như một khoa học lại được hình thành chỉ từ đầu thế kỷ XX và chỉ thực sự định hình từ những năm 1960-1970. Bắt nguồn từ lý thuyết trần thuật của một số nhà nghiên cứu phương Tây (Đức, Anh) đầu thế kỷ XX, tự sự học như một khoa học được hình thành dưới ảnh hưởng tư tưởng sâu đậm của nhiều học giả ngữ văn Nga từ những năm 1910-1920 cho đến nửa sau thế kỷ. Có thể nói, một trong những cái nôi của ngành khoa học vừa lâu đời vừa non trẻ, có sức sống mạnh mẽ trong thời hiện đại này, được thừa nhận là nước Nga. 9 Wolf Schmid-một trong những đại diện tiêu biểu của tự sự học đương đại đã khẳng định như sau trong sách Tự sự học (2003): “Những phạm trù của tự sự học hiện đại được hình thành dưới ảnh hưởng quan trọng của những nhà lý thuyết và trường phái nghiên cứu Nga, cụ thể là những người đại diện cho chủ nghĩa hình thức Nga (V.Shklovsky, B.Tomashevsky), những học giả của những năm 1920 như V.Propp, M.Bakhtin, V.Voloshinov, và cả những nhà lý thuyết thuộc trường phái Tartus-Moskva (Iu.Lotman, B.Uspensky). Ngoài lịch sử tự sự học Nga còn tự sự học Trung Quốc… Tự sự học hiện đại có thể chia làm ba thời kì. Tự sự học trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học cấu trúc chủ nghĩa và tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa. Trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học nghiên cứu các thành phần và chức năng của tự sự. B.Tomasepxki, năm 1925, đã nghiên cứu các yếu tố và đơn vị của tự sự. V.Shklovski chia truyện thành hai lớp: Fabula và syuzhet, hoặc chất liệu và hình thức. V.Propp nghiên cứu cấu trúc và chức năng tự sự trong truyện cổ tích (1928). Từ những năm 20 của thế kỉ trước, Bakhtin đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, ngôn từ trần thuật và tính đối thoại của nó. Họ trở thành những người mở đường cho tự sự học hiện đại. Ở phương Tây, với sáng tác của Flaubert ở thế kỉ XIX, cũng như sáng tác của Henry James (Mĩ) và M.Proust (Pháp) ở đầu thế kỉ XX, người ta đã biết rằng trong tiểu thuyết sự kiện không phải là cái quan trọng nhất, mà quan trọng nhất là ý thức, là phản ánh tâm lí của nhân vật đối với sự kiện, từ đó người ta quan tâm tới “trung tâm ý thức”, chi tiết trong tiểu thuyết phải lọc qua trung tâm ý thức của nhân vật mới bộc lộ ý nghĩa. Từ đó, các vấn đề điểm nhìn, dòng ý thức được đặc biệt quan tâm với Percy Lubbock (1921), K.Friedemann (1910). Về sau các vấn đề này còn được phát triển bởi một loạt tác giả Âu, Mĩ khác như J.Pouillon, A.Tate, Cl.Brooks, T.Todorov, G.Gennette... Những tìm tòi này gắn với ý thức về kĩ thuật của tiểu thuyết. 10 Giai đoạn thứ hai của lí thuyết tự sự là chủ nghĩa cấu trúc, đi tìm mô hình cho hình thức tự sự, mở đầu với công trình Dẫn luận phân tích tác phẩm tự sự của R.Barthes năm 1968 và “S/Z”, 1970 (tác phẩm này đã bắt đầu chuyển sang hậu cấu trúc chủ nghĩa). Todorov có Ngữ pháp “Câu chuyện mười ngày”.... Sơ khởi của quan niệm này là Hình thái học truyện cổ tích của Propp, tiếp theo là Nghiên cứu cấu trúc thần thoại của Claude Levi-Strauss và Mô hình hành vi ngôn ngữ của Roman Jakobson. Đặc điểm của lí thuyết tự sự chủ nghĩa cấu trúc là lấy ngôn ngữ học làm hình mẫu, xem tự sự học là sự mở rộng của cú pháp học, còn trữ tình là sự mở rộng của ẩn dụ. Todorov xem nhân vật như danh từ, tình tiết là động từ, trong chủ nghĩa hiện thực thì tình tiết thuộc thức chủ động, còn trong thần thoại lại thuộc thức bị động... A.J.Greimas vận dụng sự đối lập trục liên kết và trục lựa chọn để nghiên cứu cấu trúc tự sự. G.Genette tuyên bố mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu-chủ yếu là vị ngữ động từ và ông sử dụng tràn lan các thuật ngữ ngôn ngữ học. R.Barthes cũng tán thành quan điểm đó. Mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là nghiên cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự nhằm tìm một cách đọc tự sự mà không cần đối chiếu giản đơn tác phẩm tự sự với hiện thực khách quan. Mặc dù không phủ nhận được mối quan hệ văn học với đời sống, nhưng họ đã góp phần làm sáng tỏ bản chất biểu đạt và giao tiếp của tự sự. Song sự lạm dụng mô hình ngôn ngữ học đã làm cho tự sự học gặp khó khăn, và chính Todorov cũng vấp phải thất bại, bởi ông chỉ quan tâm ngữ pháp tự sự hơn là văn bản tự sự. Giai đoạn thứ ba của tự sự học là gắn liền với kí hiệu học, một bộ môn quan tâm tới các phương thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy văn bản làm cơ sở (Jean-Claude Coquet). Ở đây, hình thức tự sự là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm. Tư tưởng này gắn với việc phân tích ý thức hệ của M.Bakhtin. Các tác giả như Iu.Lotman, B.Uspenski, cũng theo hướng này, nhìn thấy đằng sau điểm nhìn một lập trường quan điểm xã hội thẩm mĩ nhất định. Đặc điểm của lí thuyết tự sự hiện nay, tuy cũng coi trọng phân tích hình 11 thức nhưng không tán thành việc sao phỏng giản đơn các mô hình ngôn ngữ học mà đi theo kí hiệu học và siêu kí hiệu học. Pierre Macherey, nhà mác xít Pháp cho rằng bất cứ sự đồng nhất nào giữa phê bình văn học với ngôn ngữ học đều sẽ thất bại, bởi nó bỏ qua vai trò tác động của hình thái ý thức, còn Iu.Lotman cho rằng thông tin ngôn ngữ là thông tin phi văn bản, mà điểm xuất phát của văn bản lại chính là chỗ bất cập của ngôn ngữ khiến nó trở thành văn bản. Nếu văn bản trở về với ý nghĩa của ngôn ngữ học thì có nghĩa là sự sụp đổ của văn hóa. Như thế lí thuyết tự sự phải gắn với chức năng nhận thức và giao tiếp. Tổng quan quá trình phát triển của lí thuyết tự sự, nhà lí luận tự sự Mĩ Gerald Prince chia làm ba nhóm theo ba loại hình. Nhóm một là những nhà tự sự học chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V.Propp, trong số này có Greimas, ông đã giản lược số chức năng của Propp xuống tới con số 20 và làm nổi bật lôgic tự sự. Các ông Todorov, Barthes, Remak, Norman Friedman, Northrop Frye, Etienne Souriau... mỗi người một cách, chú ý tới cấu trúc của câu chuyện được kể, đi tìm mẫu cổ của tự sự, chức năng của biến cố và qui luật tổ hợp, lôgic phát triển và loại hình cốt truyện… Đặc biệt khi nghiên cứu vào các cấu trúc tự sự cụ thể, thì người ta đều dùng thuật ngữ “tự sự học” (ví dụ: A.H.Plaks: Chinese Narrative - Tự sự học Trung Quốc; Wallace Martin: Recent theories of Narrative - Tự sự học đương đại; G.Genette: Narrative Discourse - Thoại ngữ tự sự. T.Todorov trong các trường hợp dùng từ Narratologie người ta đều dịch là tự sự học. Thuật ngữ trần thuật học gắn với một lí thuyết của M.Bakhtine phát triển từ những năm 30 (dưới tên hiệu Volosinop) (xem sách Todorov: Mikhail Bakhtine. Le principe dialogique, Nxb. Seuil, 1981, bản dịch Trung văn: 2001). Gọi là tự sự học, theo chúng tôi nghĩ, nó bao gồm cả phần lí thuyết cấu trúc văn bản tự sự, cấu trúc sự kiện, vừa bao gồm cả phần nghiên cứu các hình thức và truyền thống tự sự trong các nền văn học dân tộc cũng như sự so sánh chúng với nhau. 12 Tự sự học sẽ liên kết các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam với các nhà ngữ học và rộng hơn, các nhà văn hóa học, trong một cố gắng chung nhằm nghiên cứu truyền thống văn học Việt Nam, phong cách học tiểu thuyết Việt Nam, khám phá bản sắc dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực tự sự. Tự sự học từ Kinh điển đến Hậu kinh điển. Ở Việt Nam công trình nghiên cứu tự sự học có quy mô là quyển Tự sự học một số vấn đề lí luận và lịch sử của GS.TS Trần Đình Sử. 2.2. Mảng tiểu thuyết về hoặc liên quan tới phong trào Tây Sơn và anh hùng Nguyễn Huệ khá phong phú với các tác phẩm Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Gió lửa của Nam Dao, Quang Trung hoàng đế của Nguyễn Thu Hiền, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh… là một điểm nhấn ấn tượng vừa là bổ sung vừa làm phong phú bức tranh tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1985. Trong số đó Sông Côn mùa lũ là một tác phẩm đặc sắc về đề tài Tây Sơn. Sông Côn mùa lũ xuất bản lần đầu năm 1991 tại Nhà xuất bản An Tiêm, California, Hoa Kỳ, gồm 4 tập. Đây là lý do để chúng tôi xếp Sông Côn mùa lũ vào những cuốn tiểu thuyết lịch sử sau 1985. Bảy năm sau, năm 1998, Sông Côn mùa lũ lần đầu tiên được xuất bản tại Việt Nam, 4 tập. Năm 2003, in lần thứ hai, 2 tập, Nhà xuất bản Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. Lần gần đây nhất, năm 2007, in lần thứ ba, vẫn Nhà xuất bản Văn học Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 3 tập, với ngót 2000 trang. Như vậy, với nhiều người, Nguyễn Mộng Giác và Sông Côn mùa lũ không phải là xa lạ. 2.3. Sông Côn Mùa Lũ mặc dù không xa lạ với người đọc song đến nay vẫn chưa có những công trình nghiên cứu lớn mà chỉ mới dừng lại ở những bài tranh luận, những bài báo, và một số đề tài nghiên cứu thạc sĩ, nghiên cứu sinh có tính chất liên quan. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Các phương diện tự sự học chủ yếu như kết cấu, cốt truyện, chủ thể, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật ở tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ, có sự đối sánh với chính sử. 13 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài cần vận dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp tiếp cận thi pháp học, tự sự học, lịch sử học. - Phương pháp hệ thống. - Phương pháp phân tích. - Phương pháp thống kê phân loại. - Phương pháp so sánh, đối chiếu và tổng hợp khái quát. 5. Những đóng góp của luận văn - Người viết hy vọng luận văn đóng góp một phương diện nho nhỏ vào việc tìm hiểu thêm về ngành tự sự học nói chung và tiểu thuyết lịch sử qua cái nhìn tự sự học nói riêng (nghệ thuật trần thuật) mà cụ thể là qua tác phẩm Sông Côn mùa lũ. - Khảo sát và lý giải một cách có hệ thống, thuyết phục đối với những yếu tố nghệ thuật chính làm nên tính hấp dẫn của nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Mộng Giác. - Khẳng định có sự tiếp nối và cách tân trong nghệ thuật tự sự của Sông Côn mùa lũ. - Đưa tiểu thuyết lịch sử đến gần bạn đọc hơn, giúp người đọc phân biệt được đâu là tác phẩm văn học khai thác đề tài lịch sử, đâu là chính sử dựa trên cơ sở tự sự học. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo luận văn gồm có 3 chương Chương 1: Quá trình sáng tác Sông Côn Mùa Lũ và tiền đề lí luận của việc phân tích nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết này Chương 2: Chủ thể trần thuật trong tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ 14 Chương 1 QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC SÔNG CÔN MÙA LU VÀ TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN CỦA VIỆC PHÂN TÍCH NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT NÀY 1.1. Lí luận về kết cấu tác phẩm tự sự và kết cấu tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ 1.1.1. Quá trình sáng tác tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ 15 Nhà văn Nguyễn Mộng Giác sinh năm 1940 tại Bình Định. Học trung học ở trường Cường Để Qui Nhơn, trường Võ Tánh Nha Trang và trường Chu Văn An Sài Gòn. Học một năm ở Đại Học Văn Khoa Sài Gòn rồi ra Huế học Đại học Sư phạm ban Việt Hán. Năm 1963 tốt nghiệp thủ khoa Đại học Sư phạm Huế, khóa Nguyễn Du. Từ năm 1963-1973 dạy học tại các trường Đồng Khánh Huế, trường Cường Để Qui Nhơn. Năm 1973-1974 Chánh Sự Vụ Sở Học Chánh tỉnh Bình Định Năm 1974-1975 chuyên viên nghiên cứu giáo dục Bộ Giáo Dục, Sài Gòn. Bắt đầu viết văn năm 1971, đã cộng tác với các tạp chí Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức. Trước năm 1975 ông là giáo sư dạy văn nổi tiếng ở Sài Gòn và đã là tác giả của nhiều tập truyện dài. Năm 1982 đến định cư tại Hoa Kỳ cùng gia đình tại thành phố Westminster thuộc quận Orange, California. Cộng tác với các báo Đồng Nai, Việt Nam Tự Do, Người Việt, Văn, Văn Học Nghệ Thuật của người Việt hải ngoại tại Hoa Kỳ. Từ 1986 đến tháng Tám năm 2004 làm chủ bút tạp chí Văn Học, California, Hoa Kỳ. Qua đời lúc 22 giờ 15 phút ngày 2 tháng Bảy năm 2012 (ngày giờ địa phương ở California) tại nhà riêng ở Westminster, California. Những tác phẩm đã xuất bản: Nỗi băn khoăn của Kim Dung (tiểu luận, Nxb Văn mới, Sài Gòn, 1972); Bão rớt (truyện ngắn, Nxb Trí Đăng, Sài Gòn, 1973); Tiếng chim vườn cũ (Nxb Trí Đăng, 1973); Qua cầu gió bay (truyện dài, Nxb Văn mới, Sài Gòn, 1974); Đường một chiều (truyện dài, Nxb Nam Giao, Sài Gòn, 1974); Ngựa nản chân bon (truyện ngắn, Nxb Người Việt, 1983); Xuôi dòng (truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, 1987); Mùa biển động (trường thiên tiểu thuyết, Nxb Văn nghệ, 1984 - 1989); Sông Côn mùa lũ (trường thiên tiểu thuyết, Nxb An Tiêm, 1991)…Ngoài ra còn có một số bài tiểu luận phê bình khác. Thành công của nhà văn Nguyễn Mộng Giác chủ yếu trên lĩnh vực truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết. Tiểu thuyết lịch sử Sông Côn mùa lũ ra 16 đời là một đánh dấu trong sự nghiệp văn chương của ông. Là một nhà văn nặng lòng với quê hương, nhất là quê hương Bình Định, nơi sinh ra người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ và cũng là quê hương của nhà văn. Vì thế ông luôn canh cánh là phải làm một cái gì đó cụ thể cho quê hương mình. Mặc khác ông nhận ra rằng tìm hiểu lịch sử dường như đã trở thành nhu cầu và cảm hứng đối với văn nghê ê sĩ Viê t Nam. Đă êc biê t là làm rõ mối ê ê quan hê ê giữa văn chương và lịch sử, sự hư cấu nghê ê thuâ t với sự thâ t lịch ê ê sử. Chính điều đó làm cho nền văn học phát triển hơn, đă êc biê êt là thể loại tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Thể loại tiểu thuyết lịch sử đã tiến xa, ở Việt Nam sau những năm dài phân tranh chia rẽ, trở thành phức tạp, không thể đơn sơ! Đa số minh họa lịch sử, rất ít thành công văn chương. Thất bại vì viết theo mẫu, mà không độc đáo hóa nhân vật nhất là nhân vật phụ, hoặc không thật có kỹ thuật văn chương. Trong điều kiện đó có không ít tiểu thuyết lịch sử ra đời đã đánh dấu bước phát triển của văn học sau năm 1975. Trước sau với nhiều tác phẩm Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Tây Sơn Bi hùng truyện của Lê Đình Danh… và Sông Côn mùa lũ cũng để lại dấu ấn trong giai đoạn này. Sông Côn mùa lũ là đứa con chào đời sớm so với một số tác phẩm trên nhưng đến năm 1991 xuất bản ở Hoa Kỳ, năm 1998 tái bản ở Việt Nam. Có thể nói ý định viết tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ đến với Nguyễn Mộng Giác thật tình cờ vào dịp gần tết năm 1978 khi tác giả ở Việt Nam “… một lúc cao hứng, hứa với Hải sẽ viết một cuốn tiểu thuyết thật dài về tâm trạng trí thức thời loạn, chọn thời Tây Sơn của các nho sĩ thời xưa.” [22, 567]. Ngày 24-5-1978: Bắt đầu viết chương một của bản phác thảo Ngày 1-9-1980: Viết xong chương cuối của phần 6. Ngày 1-3-1981: Viết xong chương cuối phần kết từ. Ngày 6-8-1981: Sửa lại cấu trúc và xem lại sử liệu. 17 Như vậy bộ trường thiên tiểu thuyết đã được nhà văn hoàn thành sau bốn năm lao động nghệ thuật miệt mài 1978- 1981. Nhà xuất bản An Tiêm (Mĩ) phát hành năm 1991. Sông Côn mùa lũ là một trường thiên tự sự về lịch sử thế kỉ 18. Đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử gây sự chú ý trong của công luận, trước hết bởi nó có một số phận đặc biệt gắn với số phận của tác giả. Mặt khác, giữa những khuynh hướng viết tiểu thuyết lịch sử trái cực gây bàn cãi không dứt thì sự xuất hiện của Sông Côn mùa lũ như là một sự trung hoà giữa những lối viết. Nó đem đến cho người đọc một cảm giác vừa lạ vừa quen- lạ không đến nỗi gây sốc và quen nhưng không nhàm chán. Ngay từ ban đầu, Nguyễn Mộng Giác có ý định “viết về tâm trạng trí thức thời loạn nói chung, trong đó có một phần tâm trạng mình trong những năm nhiều biến chuyển sau tháng tư 1975”, ông muốn ký thác rất trực tiếp những trải nghiệm tinh thần của bản thân vào tác phẩm. Rõ ràng, chọn thời đại lịch sử nhiều biến động cuối thế kỉ XVIII, thời kì giới nho sĩ trí thức cả đàng trong lẫn đàng ngoài đều bị đặt trước những thử thách sinh tử. Nguyễn Mộng Giác đã nhìn thấy ở đó có nét tương đồng với giai đoạn lịch sử nhiều biến động cuối thế kỉ XX - thời điểm mà nhà văn viết tác phẩm này. Và nhân vật Quang Trung mà nhà văn sáng tạo ít nhiều đều là sản phẩm của sự hiểu biết và tưởng tượng mang màu sắc cá nhân và chủ quan của một con người sống ở cuối thế kỉ XX. Quang Trung hiện lên giản dị, mọi hành động và suy nghĩ đều gần gũi với đời thường. Vấn đề nhà văn đặt ra trong tác phẩm là thân phận con người trong cơn bão động của lịch sử, từ con người của chốn cung đình đến những người dân dưới đáy xã hội. Kết thúc cuối cùng của mỗi số phận con người như thế đều là bất hạnh, khổ đau. Thế mới biết, trong cơn vạn biến của lịch sử thân phận con người thật bé nhỏ, mong manh! Phải khẳng định rằng, khi chú trọng đến yếu tố tiểu thuyết thì lịch sử có thêm một sức sống mới. Lịch sử không còn là sự kiện biên niên mà đã được tái tạo và mang theo những vấn đề mà con người hiện tại quan tâm. Lịch sử được xem như một chất liệu để phản chiếu những vấn đề của con người ở tầm phổ quát nhất. 18 Nguyễn Mộng Giác đã có lần “tâm sự” khi viết Sông Côn Mùa Lũ ông nghĩ nhiều đến người đọc, với con số hai nghìn trang “bộ sách tràng giang đại hải như thế” có thể sẽ làm cho bạn đọc ngán ngẩm vất bỏ đi thì phí “công hì hục viết bao nhiêu năm” thế nên bộ truyện cần phải có một sự nhất quán, một sợi dây dẫn dắt người đọc đi suốt chiều dài những trang sách. Cái nhất quán mà tác giả mong muốn là câu hỏi lớn về triết lí lịch sử: thế nào là chính thống thế nào là ngụy triều? Nói theo ngôn ngữ hiện đại là chính nghĩa chính trị bị tác động bởi hoàn cảnh miền Nam và giới trí thức lúc ông viết, nhất là chương 90. Nhiệm vụ của một người viết tiểu thuyết nếu có theo ông là “phức tạp hóa những điều tưởng là đơn giản, để người ta nhớ rằng con người, đời sống là cái gì mong manh dễ vỡ, phải cố gắng thông cảm với những tế vi phức tạp của nó, nhẹ tay với đồng loại những lúc bất đồng, kiên nhẫn với những yếu đuối khó hiểu ...” Khi viết Sông Côn mùa lũ, ông vẫn nghĩ mình đang viết một cuốn tiểu thuyết lịch sử, nghĩa là đang chịu những qui luật thành văn hay bất thành văn của hai thể loại “tiểu thuyết” và “lịch sử”. Tiểu thuyết, nói cho cùng (trừ những thí nghiệm khai phá muốn làm khác đi mà thất bại nhiều hơn thành công) là một thể loại văn chương nhằm thỏa mãn nhu cầu muốn ngóng chuyện thiên hạ của người đời. Người viết tiểu thuyết là người kể. Người đọc tiểu thuyết là người muốn nghe kể. Người kể chuyện, giống như ông thầy đứng trên bục giảng giảng bài cho sinh viên ngồi phía dưới, phải kể thế nào để người nghe hiểu được câu chuyện của mình, nghĩa là cả hai bên phải nói cùng một ngôn ngữ, dùng cùng một tần số cho tín hiệu phát và thu, có chung một trục qui chiếu của lý luận và phương cách diễn đạt. Mà theo ông, căn bản của tiểu thuyết là chuyện thế sự, là chuyện con người và cuộc đời. Ngay cả những tiểu thuyết truyền kỳ hay viễn tưởng bạo dạn nhất như truyện kiếm hiệp Kim Dung, phim khoa học giả tưởng Mỹ, truyện ma quỉ của Bồ Tùng Linh, truyện thần kỳ như Tây Du Ký, căn bản hấp dẫn và lôi cuốn người nghe, người đọc, người xem những tác phẩm ấy vẫn là: những nhân vật huyễn 19 tưởng ấy cư xử y như người đời, y như những độc giả khán giả. Con người, đời sống trong tiểu thuyết cần thiết cho thể loại này hơn bất cứ thể loại nào khác. Nếu Nguyễn Du viết một thiên tiểu luận sâu sắc về thuyết “tài mệnh tương đối” chắc ngày nay không ai thèm đọc, nhưng ông lại làm khác đi, thuật rất tài cái ghen lạ lùng của Hoạn Thư, tả rất giỏi cảnh lầu xanh ở tận bên Tàu… Ý định bạn đầu là thế, thế nhưng khi bắt đầu tìm hiểu những tư liệu về thời đại Tây Sơn ông mới nhận ra định hướng đó có phần hạn hẹp. Nhà văn muốn tái hiện toàn cảnh giai đoạn lịch sử ấy từ chốn triều đình cho đến thân phận những người dân ở cùng đáy xã hội và phong trào Tây Sơn từ lúc khởi dấy cho đến khi Quang Trung mất. Tất cả đều được thể hiện trong cái gọi là tiểu thuyết lịch sử theo suy nghĩ của ông “tiểu thuyết lịch sử đúng nghĩa luôn luôn phải là một cuốn tiểu thuyết thế sự- bản chất của tiểu thuyết là thế sự. Thế sự là da thịt của tiểu thuyết lịch sử, cũng như lịch sử là xương cốt của tiểu thuyết lịch sử”. Có thể nói thế giới nghệ thuật trong Sông Côn Mùa Lũ mà nhà văn tạo ra rất gần gũi với cuộc đời. Ông đi sâu vào biến cố của từng gia đình: gia đình giáo Hiến, gia đình Hai Nhiều, gia đình Lợi, gia đình Huệ, Nhạc… đi sâu vào tâm lý từng nhân vật: An một hình mẫu của phụ nữ trong chiến tranh; một lãnh đạo phong trào quyết liệt mạnh mẽ như Nhạc nhưng cũng rất dân giã đời thường của một con buôn; một Nguyễn Huệ xuất thần tài tình nhưng cũng rất đời tư trong tình yêu với An, với cuộc sống gia đình; hay những Lợi cơ hội cá nhân; Chỉnh gian xảo, chờ đợi thời cơ; giáo Hiến trí thức thất thời; Lãng, Kiên, Thọ Hương những số phận bị cuốn theo dòng lịch sử. Về tiểu thuyết Việt Nam, Giải thưởng Sách hay trao cho trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ của nhà văn Nguyễn Mộng Giác (Nxb Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998) sau những đóng góp mà bộ tiểu thuyết đem đến cho nền văn học Việt Nam. Trao giải cho Sông Côn mùa lũ, Hội đồng tuyển chọn muốn khẳng định tài năng và tâm huyết của 20 tác giả Nguyễn Mộng Giác, người đã viết tác phẩm này trong những năm tháng khó khăn thời hậu chiến. Ra mắt lần đầu tiên ở Mỹ, sau đó được in lại trong nước, Sông Côn mùa lũ đã kết nối bạn đọc Việt Nam trong những hoàn cảnh xa cách nhau, cùng chung một tình tự dân tộc và một niềm tin về sức mạnh tinh thần của đất nước, điều mà tác phẩm đã gợi ra một cách nghệ thuật. 1.1.2. Lý thuyết kết cấu tác phẩm tự sự Khái niệm kết cấu, các dạng kết cấu. Kết cấu là toàn bô ê tổ chức phức tạp và sinh đô ng của tác phẩm. Khi ê bàn về kết cấu ta cần phân biê êt bố cục với kết cấu của tác phẩm. Nếu như thuâ êt ngữ bố cục là nói đến sự sắp xếp, phân bố các bô ê phâ n của tác phẩm ê theo mô êt trình tự mạch lạc nhất định thì kết cấu thể hiê ên mô êt nô êi dung rô ng ê rãi, phức tạp hơn. Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mă êt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bô ê phâ n, chương đoạn mà còn bao ê hàm sự liên kết bên trong nghê ê thuâ êt kiến trúc nô êi dung cụ thể của tác phẩm. Kết cấu còn bao gồm: tổ chức hê ê thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghê ê thuâ êt của tác phẩm; nghê ê thuâ êt tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyê ên, nghê ê thuâ êt trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyê ên… sao cho toàn bô ê tác phẩm thực sự trở thành mô êt chỉnh thể nghê ê thuâ êt. Kết cấu giữ những chức năng rất đa dạng như thể hiê ên được chủ đề và tư tưởng của tác phẩm; giúp nhà văn triển khai, trình bày cốt truyê n thâ êt hấp ê dẫn, cấu trúc hê ê thống tính cách hợp lí, tổ chức điểm nhìn trần thuâ êt của tác giả…Kết cấu giúp nhà văn có sự linh hoạt trong việc chọn lựa cách thức trần thuật. Sau đây là một số hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học. Những hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học rất phong phú và đa dạng. Ở đây có thể tìm hiểu một số hình thức kết cấu đã từng xuất hiện trong lịch sử văn học và đã tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị. Kết cấu theo trình tự thời gian.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất