BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
TRẦN THỊ XUYẾN
NGHỆ THUẬT TỰ SÙ
TRONG TIỂU THUYẾT NAM CAO
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SÈ: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS TRẦN ĐĂNG XUYỀN
HÀ NỘI - 2007
Lời cảm ơn
Để hoàn thành bản luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ quỹ báu của:
- Trường THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam.
1
- Ban giám hiệu, Phòng quản lý khoa học, Ban chủ nhiệm
khoa Ngữ văn - Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
Nhân đây tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất.
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đối với
Giáo sư Tiến sỹ Trần Đăng Xuyền, người đã tận tình hướng dẫn
và dìu dắt tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin cảm ơn các thầy, cô giáo, các bạn đồng nghiệp đã
có sự góp ý và trao đổi chân thành trong quá trình thực hiện
luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã
cổ vũ, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
Hà nội, ngày 10 tháng 11 năm 2007
Tác giả luận văn
Trần Thị Xuyến
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I.
II.
III.
Lý do chọn đề tài...........................................................
Lịch sử vấn đề................................................................
Nhiệm vụ của đề tài.......................................................
1
3
13
2
IV.
Phương pháp nghiên cứu................................................
14
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:
1.
2.
1.
2.
2.1.
2.2.
2.3.
1
2
2.1
2.2
2.3
2.4
1
2
CÁCH TIẾP CẬN HIỆN THỰC ĐỜI
SỐNG CỦA Nam CAO TRONG TIỂU THUYẾT
Tiếp cận hiện thực từ hướng thế sự, đời tư......................
Từ những cái xoàng xĩnh, tầm thường mà đề cập đến những
15
vấn đề lớn lao của đời sống con người.................
Chương 2: CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU
Cốt truyện......................................................................
Kết cấu..........................................................................
Kết cấu lắp ghép và kết cấu mở......................................
Kết cấu trong tiểu thuyết Sống mòn................................
Kết cấu trong Truyện người hàng xóm............................
Chương 3 : NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
30
15
37
37
47
47
53
57
61
Từ quan niệm nghệ thuật về con người của Nam 61
Cao.......
Đến các thủ pháp xây dựng nhân vật..............................
Khắc họa nhân vật từ đời sống nội tâm...........................
Miêu tả thiên nhiên, ngoại cảnh thể hiện nội tâm nhân vật.
Miêu tả ngoại hình thể hiện nội tâm nhân vật.................
Nghệ thuật phân tích tâm lý...........................................
Chương 4
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
Quan điểm trần thuật......................................................
Nhịp điệu trần thuật.......................................................
65
65
75
79
82
88
88
94
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
100
103
3
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Nam Cao là một nhà văn lớn có vị trí quan trọng lịch sử văn học
Việt Nam hiện đại. Ông là một trong số những gương mặt nổi bật của
nền văn xuôi hiện đại. Sù nghiệp văn chương của Nam Cao đánh dấu một
bước phát triÓn vượt bậc của văn học hiện thực giai đoạn cuối (1940 1945). Nếu như ở giai đoạn này, các trào lưu văn học khác dường như
chững lại, thậm chí trào lưu lãng mạn với Tù lực Văn đoàn và thơ mới đi
vào suy thoái thì trào lưu hiện thực với sù góp mặt mang ý nghĩa lớn lao
của Nam Cao đã lại là một bước tiÕn míi so víi chính nó giai đoạn
trước. Nguyên nhân này có thể được lý giải bằng hoàn cảnh lịch sử, văn
hoá, xã héi, song không thể không thấy sức sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn
trong các sáng tác của Nam Cao. Bên cạnh truyện ngắn, tiÓu thuyết của
Nam Cao có một vị trí đặc biệt khó ai có thể thay thế trong sự phát triÓn
của tiÓu thuyết Việt Nam hiện đại. Mặc dù được chú ý muộn, nhưng vị
trí của Nam Cao ngày ổn định và được khẳng định ngày càng chắc chắn.
Tác phẩm của Nam Cao là một mảnh đất hấp dẫn các nhà nghiên
cứu phê bình văn học. Có thể nói, so víi các tác giả văn học trước năm
1945, Nam Cao là một trong sè Ýt các nhà văn Việt Nam hiện đại được
nghiên cứu nhiều nhất, khá toàn diện và sâu sắc. Đã có nhiÒu công trình
khoa học lớn nhỏ, trong đó có nhiÒu công trình xuất sắc nghiên cứu về
4
Nam Cao. Song điÒu đó không có nghĩa là việc tìm hiÓu di sản văn học
của Nam Cao đã hoàn tất, không còn gì để tiếp tục khai thác. Trái lại,
trong việc tìm hiÓu, nghiên cứu về Nam Cao, nhiÒu vấn đề vẫn còn cần
được khai thác, đi sâu, mở rộng hơn nữa. Trước đây, trong một thời gian
dài, nhiÒu nhà nghiên cứu mới chỉ chú ý tíi đề tài, néi dung hiện thùc,
những ý nghĩa, những giá trị nội dung tư tưởng sâu sắc, mới mẻ trong
các sáng tác của Nam Cao mà chưa chú ý thích đáng đến hình thức thể
loại. Sau này, các nhà nghiên cứu đã chú ý hơn tới hình thức thể loại trong
các sáng tác của Nam Cao, song truyện ngắn vẫn được chú ý nhiÒu hơn
tiÓu thuyết. TiÓu thuyết Nam Cao được chú ý muộn, những thành công về
tiÓu thuyết của Nam Cao có được khẳng định nhưng lẻ tẻ trong một vài
công trình nghiên cứu, chưa có một công trình nghiên cứu thật toàn diện.
Sống mòn được coi là cuốn tiÓu thuyết tiêu biÓu cho ngòi bót tâm lý của
Nam Cao sáng tác về đề tài trí thức tiÓu tư sản. Gần đây đã có nhiÒu công
trình nghiên cứu về nghệ thuật tiÓu thuyết này. Sống mòn được nhìn nhận
lại sau một thời gian dài sù đánh giá còn lúng túng hoặc sai lệch khi căn cứ
vào quan điÓm xã hội học dung tục. Tuy nhiên những ý kiÕn nghiên cứu
về những cách tân nghệ thuật của Sống mòn vẫn còn tản mạn. Tư cách nhà
tiÓu thuyết của Nam Cao vẫn chưa được khẳng định chắc chắn. Người ta
hầu nh quên rằng trong quãng đời cầm bót chưa dài của mình, Nam Cao đã
viÕt nhiÒu tiÓu thuyết (tuy phần lớn đã thất lạc bản thảo), bên cạnh Sống
mòn còn có Truyện người hàng xóm- truyện dài được đăng báo vào năm
1944. Tác phẩm Truyện người hàng xóm còn Ýt được chú ý, nhất là những
thành công về nghệ thuật. Tác phẩm này có được nhắc đến trong nghiên
cứu về Nam Cao nhưng thường được gộp trong việc nghiên cứu với
phương diện néi dung tư tưởng, hoặc được gộp trong quá trình đánh giá
chung về thế giíi nghệ thuật của Nam Cao. Nam Cao víi tư cách là một nhà
5
tiÓu thuyết vẫn còn cần được nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện
hơn nữa.
Sống mòn là một tiÓu thuyết xuất sắc của Nam Cao, là một cái mốc
quan trọng đánh dấu sự phát triÓn của tiÓu thuyết Việt Nam theo hướng
hiện đại hoá. Đây là tác phẩm hiện nay đã được khẳng định thống nhất về
phương diện thể loại. Truyện người hàng xóm là mét trong hai tác phẩm
truyện dài còn lại của Nam Cao. Xoay quanh nhận định cho rằng tác phẩm
này là một tiểu thuyết, trong giới nghiên cứu còn có ý kiến chưa thống
nhất. Có những ý kiến cho rằng tác phẩm chỉ là một truyện vừa, song
những ý kiến khẳng định đây là một tiểu thuyết vẫn có nhiều căn cứ thuyết
phục. Bên cạnh những truyện ngắn đặc sắc, Nam Cao còn để lại cho chóng
ta hai tác phẩm tương đối dài hơi hơn là Sống mòn và Truyện người hàng
xóm. Để thuận lợi cho việc tìm hiểu nghệ thuật tự sự của Nam Cao trong
hai tác phẩm khá dày dặn có dấu hiệu đặc trưng của tiểu thuyết này, căn cứ
vào đặc trưng thể loại thể hiện trong tác phẩm, chúng tôi tạm xếp Truyện
người hàng xóm vào thể loại tiểu thuyết. Truyện người hàng xóm tuy
không xuất sắc bằng Sống mòn, song vẫn nằm trong sự thống nhất phong
cách tiÓu thuyết Nam Cao và có giá trị nghệ thuật đặc sắc, khẳng định
những sáng tạo vừa độc đáo, mới mẻ, vừa rất đa dạng trong ngòi bót của
Nam Cao. Có thể nói, Nam Cao là mét cây bót tiÓu thuyết có nhiÒu cách
tân mới mẻ về nghệ thuật, có một phong cách tiÓu thuyết riêng, đóng
góp đáng kể vào sự phát triÓn của tiÓu thuyết Việt Nam hiện đại.
Nghiên cứu nghệ thuật tù sù trong tiÓu thuyết của Nam Cao chính là góp
phần khẳng định vị trí xứng đáng của nhà văn trong hàng ngò những
tiÓu thuyết gia Việt Nam giai đoạn 1940- 1945.
II. Lịch sử vấn đề
6
Đương thêi, các sáng tác của Nam Cao chưa được đánh giá đúng
mức. Mặc dù các tác phẩm của nhà văn được đăng rải rác trên các báo,
nhưng bạn đọc hầu nh Ýt biÕt đến Nam Cao. Cho đến khi Chí Phèo víi
các tên Đôi lứa xứng đôi lần đầu được ra mắt, Nam Cao míi được nhắc
đến trên văn đàn song không nhiÒu nh mét số cây bót văn xuôi bậc đàn
anh lúc bấy giờ. Lê Văn Trương giíi thiệu về tác phẩm này có nhận xét
về văn Nam Cao là “lối văn míi sâu xa, chua chát và tàn nhẫn", nhưng đó
là nhận xét về truyện ngắn chứ không phải là tiÓu thuyết. Trước cách
mạng tháng Tám, giíi phê bình chưa hề biÕt đến bên cạnh mét Nam CaoCây bót truyện ngắn còn một Nam Cao- Nhà tiÓu thuyết và về phương
diện thể loại tiÓu thuyết, Nam Cao cũng có những thành công xuất sắc.
Mãi đến 1956, sau khi Nam Cao đã mất được 5 năm, Sống mòn míi được
in và bắt đầu được chú ý tíi.
Trong Mấy vấn đề văn học in 1956, Nguyễn Đình Thi đánh giá
Sống mòn "tả cuộc sống thiÓu não, quẩn quanh, nhá nhen của mấy tri
thức tiÓu tư sản nghèo… Rộng hơn là vận mệnh của mấy con người Êy,
ta thấy đặt ra một cách ám ảnh vấn đề vận mệnh chung của cả xã hội
chua xót, đau đớn, buồn thảm, tủi nhục, trong đó đời sống không có ý
nghĩa nào nữa, quay về phía nào cũng thấy dựng lên những bức tường bế
tắc”(47,115). Nhận xét trên cho thấy những đánh giá xác đáng về ý
nghĩa, giá trị lớn lao của tiÓu thuyết Sống mòn, bước đầu chỉ ra cách
tiÕp cận hiện thực mới mẻ của tiÓu thuyết Nam Cao nhưng tất cả mới
chỉ dừng ở đó.
Mãi tíi khoảng những năm 60 của thế kỷ XX, việc nghiên cứu Nam
Cao míi thực sự được tiÕn hành và có những công trình công phu.
Trong cuốn Nam Cao- Nhà văn hiện thực xuất sắc (NXB Văn hoá1961), một công trình nghiên cứu khá dày dặn về các sáng tác của Nam
7
Cao, nhà nghiên cứu phê bình văn học Hà Minh Đức đánh giá cao Sống
mòn víi nhận định: trong văn học công khai giai đoạn 1930-1945, Sống
mòn là một trong những tác phẩm có giá trị nhất. Ông đã phân tích về
quá trình tâm lý của nhân vật Thứ và thấy được vai trò của nó trong việc
thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Ông đánh giá Nam Cao là người
có hướng đi riêng trong cách tiÕp cận và phản ánh hiện thực: “Tìm tòi
trong những chuyện bình thường hàng ngày ý nghĩa sâu xa của đời sống
và gợi lên bên trong phần lặng lẽ nghiêm ngặt của hiện thực một cái gì
sôi nổi nồng cháy”(13,171). Song những thành công khác về phương
diện nghệ thuật của tiÓu thuyết này nh cốt truyện, kết cấu, cách xây
dựng nhân vật… trong tiÓu thuyết thì hầu nh chưa được chú ý đến.
Thậm chí trong quá trình đánh giá Sống mòn, bên cạnh khen, tác giả còn
chê tác phẩm có nhiÒu hạn chế và cho rằng tiÓu thuyết có vấn đề trong
việc “khắc hoạ tính cách điÓn hình”. Ông cho rằng yêu cầu của người
đọc đòi hái Nam Cao phải cá tính hoá nhân vật Sống mòn hơn nữa. Theo
ông, nhân vật được gọi là “Tâm trạng điÓn hình mà chưa gọi là tính cách
điÓn hình là vì tâm trạng đó chưa kết hợp thể hiện víi những cá tính
sinh động khác. Nhân vật chưa được gọi là nhân vật điÓn hình vì tâm
trạng Thứ có ý nghĩa phổ biÕn và tiêu biÓu nhưng ở Thứ còn thiÕu
những biÓu hiện sinh động của một con người cá biệt"(13,187). Như
vậy, Sống mòn được đánh giá cao về nội dung nhưng về nghệ thuật thì
chưa được đánh giá chính xác và thấu đáo. Cũng trong chuyên luận này,
khi đánh giá về Truyện người hàng xóm, Hà Minh Đức lại cho rằng đây
là tác phẩm mà “Nam Cao định đưa vào tác phẩm một số suy nghĩ và
quan điÓm tích cực nhưng chưa biÕn thành hiện thực. Các quan điÓm
và suy nghĩ Êy chưa chuyển hoá được vào các hình tượng nghệ thuật.
Tác phẩm còn nhiÒu nhược điÓm, chủ đề không tập trung, tính cách
8
nhân vật chưa đậm nét. Cốt truyện lại bị dẫn dắt lan man, ngôn ngữ có
phần thiÕu chọn lọc”(13,30). Như vậy Hà Minh Đức hầu như phủ nhận
hoàn toàn cả nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm
này. Mãi đến 1975, ông mới có đánh giá khác: "Bên cạnh Sống mòn,
Nam Cao đã xây dựng được bức tranh chân thực và độc đáo về những
người tiÓu tư sản và líp dân nghèo thành thị qua tiÓu thuyết Truyện
người hàng xóm". Nh vậy, tác phẩm này vẫn chưa được coi là một tiÓu
thuyết hiện thực có giá trị nghệ thuật.
Hồng Chương trong cuốn “Phương pháp sáng tác của văn học
nghệ thuật” (NXB Sự thật, Hà Nội, 1962) đã nhận xét nặng nề về Sống
mòn. Ông cho rằng: “Nam Cao- người có thể gọi là tiêu biÓu cho dòng
văn học hiện thực chủ nghĩa ở thời kỳ này đã miêu tả những người nông
dân cùng quẫn trong xã hội thực dân nửa phong kiÕn (Chí Phèo) hay
người tiÓu tư sản sống quẩn quanh bế tắc (…). Tuy còn có tính hiện thực
và tính phê phán nhưng chủ nghĩa hiện thực phê phán thời kỳ này bộc lé
rõ tính chất yếu đuối của thời kỳ suy tàn của nó. Nó đi sâu vào tâm lý tế
nhị của nhân vật (Sống mòn). Nã bộc lé tâm trạng của những con người
quẩn quanh không có lối thoát và cũng không có ý chí phấn đấu”(7,40).
Như vậy, do ảnh hưởng nặng nề của lối phê bình cứng nhắc, rập khuôn
máy móc theo lèi cò, căn cứ trên chủ nghĩa đề tài, Hồng Chương cho
rằng từ 1940 đến 1945 là giai đoạn suy tàn của chủ nghĩa hiện thực,
không thấy được những mới mẻ trong cách tân nghệ thuật của Nam Cao
đã góp phần đưa chủ nghĩa hiện thực lên một tầm cao míi.
Phong Lê là người đầu tiên viÕt riêng Sống mòn trong bài Sống
mòn và tâm sự của Nam Cao in trong Tạp chí văn học số 9/1968, đã
đánh giá chính xác về kiÓu nhân vật trong tiÓu thuyết của Nam Cao:
“Nam Cao xác nhận một cách đau đớn bi kịch con người trí thức tiÓu tư
9
sản. Ở đây không có cái nhìn ảo tưởng, tô vẽ về họ như một số nhà văn
khác cùng thời. Nam Cao đã vẽ đúng hình ảnh họ và đặt họ đúng vào vị
trí của họ trong đời (…) trong Sống mòn không còn bóng dáng nhân vật
nào có thể được xem là nhân vật chính diện thật sự"(33,36). Ông cũng đã
nhận ra “sự han gỉ trong tâm hồn một líp người trÝ thức tiÓu tư sản”,
biÓu hiện “một cách nhìn sâu”, cũng là “một cách nhìn dũng cảm”. Tác
giả cũng đã chú ý tíi cách thức thể hiện riêng của Nam Cao nhưng vẫn
mới chỉ đi sâu vào nội dung mà Ýt chó ý về giá trị nghệ thuật của tiÓu
thuyết Nam Cao.
Phan Cự Đệ trong công trình nghiên cứu công phu: TiÓu thuyết
Việt Nam hiện đại (NXB ĐH & THCN, HN, 1974) cũng đã bàn đến nghệ
thuật của tiÓu thuyết Nam Cao trong sù so sánh với tiÓu thuyết của các
nhà văn khác cùng thời. Ông cho rằng Tắt đèn có lối kết cấu “trong một
không gian ngắn, những mâu thuẫn dồn dập, cọ xát nhau nảy lửa. Những
sự kiện tíi tiÕp diÔn ra, dồn nhân vật vào chỗ cùng đường và làm nổ ra
những phản ứng kịch liệt. Nam Cao muốn diÔn tả những bi kịch không
lối thoát của Thứ nên đã sử dụng lối kết cấu vòng tròn"(10,245). Khi
đánh giá về ngôn ngữ của tiÓu thuyết Nam Cao, ông đã nhận thấy: “Nam
Cao chó ý hơn đến những động tác tâm lý bên trong. Ông đã xây dựng
thành công những đoạn độc thoại néi tâm nhân vật”(10,220) và thấy tính
chất “đa thanh” của trong ngôn ngữ tiÓu thuyết Sống mòn. Song những
đánh giá về nghệ thuật tiÓu thuyết của Nam Cao nh trên còn là những ý
kiÕn lẻ tẻ chưa thành hệ thống, chưa làm nổi rõ sự cách tân của Nam
Cao trong tiÓu thuyết hiện đại Việt Nam.
Có thể nói trong suốt 60 năm trở về trước, Sống mòn còng đã được
chú ý nhiÒu hơn song chưa có một công trình nghiên cứu công phu về
giá trị nghệ thuật của tiÓu thuyết này. Các công trình nghiên cứu mới chỉ
10
chú ý ở tác phẩm này về phương diện néi dung chứ chưa có khám phá
bao nhiêu về mặt nghệ thuật. Truyện người hàng xóm hầu nh chưa được
nhắc đến, nếu có được nhắc đến thì cũng bị đánh giá thấp.
Đến những năm 70, việc nghiên cứu tiÓu thuyết Nam Cao đã có
nhiÒu công trình nghiên cứu khá toàn diện và sâu sắc. Bên cạnh những
khám phá giá trị nội dung tư tưởng ở chiÒu sâu mới, phát hiện tư tưởng
nhân đạo mới mẻ trong tiÓu thuyết của Nam Cao, các nhà nghiên cứu đã
chú ý nhiÒu đến những thành công về nghệ thuật tiÓu thuyết của Nam
Cao, khẳng định cá tính sáng tạo rất mới mẻ, độc đáo của nhà văn.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung trong chương Nam Cao
(Lịch sử văn học Việt Nam 1930- 1945, tập V, NXB GD, 1974) đã phân
tích kỹ lưỡng những khám phá mới mẻ, sâu sắc của Nam Cao, chỉ ra
những điÓm nổi bật của phong cách Nam Cao. Ông chỉ ra sức mạnh tài
năng của Nam Cao bắt đầu từ “Sự chân thực đến kinh ngạc”, đặc biệt “từ
những cái hàng ngày nhỏ bé” để đạt đến những vấn đề “có ý nghĩa triÕt
lý sâu sắc”. Đó là ngòi bót “vừa tỉnh táo nghiêm ngặt vừa thắm thiÕt trữ
tình”, có sở trường miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật, thường “soi rọi
đời sống bên trong”. Ông khẳng định “Bằng một tài năng lớn, Nam Cao
đã có những đóng góp mới mẻ đối víi sù phát triÓn văn xuôi Việt Nam.
Nghệ thuật tiÓu thuyết Nam Cao có sắc thái hiện đại rõ rệt”(28,9). Đó là
những mới mẻ của tiÓu thuyết Nam Cao, nhưng người nghiên cứu míi
chó ý đến Sống mòn mà không nhắc đến Truyện người hàng xóm.
Đến khi viÕt Từ điÓn văn học, Nguyễn Hoàng Khung míi nhắc
đến Truyện người hàng xóm nhưng trong khuôn khổ có hạn của một mục
trong từ điÓn, ông chỉ giíi thiệu vài nét về nội dung tác phẩm: “Những
trang cảm động nhất là viÕt về đám trẻ nhỏ nhà nghèo sống thiÕu tình
thương, khi lớn lên thì rơi vào vực thẳm bế tắc sa ngã. Câu chuyện thật
11
buồn thảm nhưng ánh lên cái nhìn lạc quan nhân đạo về người nghèo
khổ, dù đó là một thằng câm, một gái điÕm hay một nhà văn trẻ lặn léi
trong cay cực, luôn tâm niệm “viÕt sự thực”(28,287).
Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Mạnh trong những bài viÕt
về Nam Cao luôn quan tâm và đánh giá cao vai trò cách tân nghệ thuật
của Nam Cao. Ông khẳng định vị trí của Nam Cao, “bản sắc độc đáo”
của Nam Cao là một “cây bót luôn tìm tòi, khám phá và sáng tạo”, đồng
thời khẳng định bản lĩnh và tài năng của Nam Cao khi viÕt về những
“cái hàng ngày” là xuất phát từ “những tư tưởng sâu, những tình cảm
lớn, từ cõi thơ cao khiÕt mà quan sát, miêu tả cái “văn xuôi” phàm tục
của cuộc đời”(40,62). Ông đánh giá tiÓu thuyết Sống mòn là “thật sự đạt
tới hình thức hiện đại”. Ông cho rằng đứng về mặt thÓ tài, tiÓu thuyết
Sống mòn là một hiện tượng độc đáo và đột xuất: "Một lèi tiÓu thuyết cứ
phóng bót một cách tuỳ tiện theo dòng tâm sự của nhân vật với nhiÒu
đoạn tạt ngang dài dòng tưởng như lạc đề. Vậy mà tác phẩm vẫn giữ
được tính thống nhất chặt chẽ xoay quanh quan niệm nhất quán của nhà
văn về sự sống và cái chết trong tâm hồn con người. Chủ đề triÕt lý
thấm sâu, liên kết các số phận nhân vật và đem đến cho những câu
chuyện vụn vặt, tủn mủn của mấy người tiÓu tư sản ý nghĩa khái quát,
xã hội rộng lớn…"(40,63). Về Truyện người hàng xóm, ông cho rằng:
“Theo dõi sát ngòi bót của Nam Cao, người đọc có thể cảm nhận được
Truyện người hàng xóm một vài yếu tố mới mẻ về tư tưởng và bót pháp,
một cái nhìn xã hội theo quan điÓm đối lập dứt khoát giữa nhân dân lao
động nghèo khổ nhưng tốt bụng với bọn bóc lột tàn ác. Một chủ nghĩa
lạc quan tươi sáng, làm cơ sở cho mét giọng văn Ýt chua chát hơn và
một bót pháp thiên về lý tưởng hoá khi viÕt về bản chất tốt đẹp, nghị lực
12
sống và mối tình cao cả như sen nở giữa bùn lầy của ba nhân vật trẻ
tuổi"(40,42).
Nhìn chung, tiÓu thuyết Sống mòn và Truyện người hàng xóm đã
bước đầu được các nhà nghiên cứu, được khẳng định nhưng mới chỉ chủ
yếu trên phương diện néi dung tư tưởng hoặc có đánh giá về mặt nghệ
thuật thì cũng mới chỉ là những nhận xét tản mạn, chưa có một công
trình nghiên cứu hoàn chỉnh. Sau này, trong các công trình nghiên cứu
của mình, các nhà phê bình văn học đã chú ý nhiÒu hơn tới những thành
công về nghệ thuật trong các sáng tác của Nam Cao. Xung quanh cuốn
tiểu thuyết Sống mòn in trong Nghĩ tiÕp về Nam Cao còn có bài Bót
pháp tự sự đặc sắc trong Sống mòn của Nguyễn Ngọc Thiện. Bài viết đã
chỉ ra những mới mẻ của tác phẩm “cốt truyện tâm lý, khắc hoạ chiÒu
sâu một mảng vi mô của đời sống con người”, bố cục “hoà trộn, đồng
hiện giữa không gian, thời gian quá khứ và hiện tại”(53,331), lối kể
chuyện với nhiều điểm nhìn, sinh động. Tuy nhiên trong phạm vi mét bài
viết, những phương diện nói trên cũng chưa được người viết phân tích
thật kỹ lưỡng. Đỗ Đức HiÓu trong Hai không gian trong Sống mòn đã có
phát hiện về không gian sống o bế của nhân vật Thứ loanh quanh chật
hẹp, sự mâu thuẫn “xung đột giữa không gian xã hội (xó nhà quê và
ngoại ô Hà Nội nhem nhuốc) và không gian tinh thần, mơ ước, không
gian hồi tưởng, không gian khát vọng”(53,338). Nhà nghiên cứu Phong
Lê trong Đọc lại và lại đọc Sống mòn khẳng định thêm về ba không gian
bị thu hẹp trong Sống mòn là “gian ở nơi trường học, gian nhà ông Học
và gian nhà của Thứ ở quê là những không gian tù đọng"(53,349). Đồng
thời Phong Lê khẳng định lại về tính chất hướng ngoại của tác phẩm đã
mở ra những số phận kiếp người, về sù thu nhỏ, dồn nén của không
gian, thời gian “tạo hình ảnh và ám ảnh về một sự ngưng đọng, sù mòn
13
rỉ- nó chính là tố chất để lấn át và làm tiêu mòn sự sống, để tạo nên nhịp
điệu và giọng điệu thích hợp với Sống mòn".
Trong cuốn Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, mét công trình nghiên
cứu khá toàn diện, công phu về Nam Cao, GS. TS Trần Đăng SuyÒn đã
nghiên cứu một cách có hệ thống về nghệ thuật tự sự trong các sáng tác
của Nam Cao về nhiÒu phương diện loại hình, thi pháp, nghệ thuật khắc
hoạ tâm lý, nghệ thuật trần thuật… Phân tích về nghệ thuật xây dựng cốt
truyện của Sống mòn và Truyện người hàng xóm, ông khẳng định về tính
chất nới láng cốt truyện “Đưa truyện về dạng “đời thật” nhất, đồng thời
soi rọi vào đó một luồng ánh sáng rất mạnh của tư tưởng, bắt những
chuyện vặt vãnh, những cảnh đời thường hàng ngày quen thuộc nói lên
những ý nghĩa sâu sắc về con người, về cuộc sống và nghệ thuật", và
“Sáng tác của Nam Cao đánh dấu sự đổi míi về thi pháp của tiÓu thuyết
hiện đại so víi tiÓu thuyết trung đại, tiÓu thuyết truyền thống”(52.45).
Còng trong cuốn chuyên luận này, nhà nghiên cứu đã phân tích sâu sắc
về những mới mẻ của tiÓu thuyết Nam Cao về các phương diện kết cấu,
xây dựng xung đột, mâu thuẫn, không gian và thời gian nghệ thuật, nghệ
thuật khắc hoạ tâm lý nhân vật sắc sảo có một không hai và các thủ pháp
nghệ thuật hướng vào làm sáng tỏ nội tâm nhân vật như nghệ thuật miêu
tả diện mạo nhân vật, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên… Tuy nhiên, những
thành công về phương diện nghệ thuật trong tiÓu thuyết Nam Cao của
công trình nghiên cứu này vẫn tập trung trong sự phân tích đánh giá về
nghệ thuật tự sự trong các sáng tác của Nam Cao nãi chung, bao gồm cả
truyện ngắn.
Gần đây nhiÒu công trình nghiên cứu văn học đã có chú ý nhiÒu
hơn tới Truyện người hàng xóm. Trong luận án tiến sĩ khoa học Ngữ văn
Những vấn đề trong sáng tác của Nam Cao qua thực tiÔn nghiên cứu về
14
nhà văn, bên cạnh việc xem xét lại mét số vấn đề về bi kịch vỡ mộng
trong Sống mòn, nhân vật Thứ là “tính cách điÓn hình” hay “tâm trạng
điÓn hình”, “tiÓu thuyết Sống mòn phải chăng là dấu hiệu lôi tàn của
văn học hiện thực trước cách mạng”, Hà Bình Trị đã có một bài phân
tích về những thành công của Truyện người hàng xóm là một bức tranh
hết sức chân thực đầy ám ảnh về những cảnh đời lầm than trong cuộc
sống đời thường của líp dân nghèo ngoại ô trước cách mạng. Đồng thời
trong luận văn khoa học này, Hà Bình Trị đã chỉ ra một số thành công về
nghệ thuật của tác phẩm vẫn “quen thuộc trong phong cách nghệ thuật
của Nam Cao, đồng thời tác phẩm cũng có những đặc sắc riêng Ýt thấy
trong các sáng tác khác của ông"(49,149) về các phương diện cốt truyện,
xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lý, ngôn ngữ. Nhưng trong khuôn khổ
một phần của chương viÕt, những thành công này chưa được phân tích
thật cụ thể.
Như vậy, trong một thời gian dài, tiÓu thuyết của Nam Cao đã
không được chú ý và đánh giá đúng mức, thậm chí còn có lúc bị xem
nhẹ, bị phê phán. Giíi nghiên cứu phê bình chú ý nhiÒu hơn tới truyện
ngắn của ông, đặc biệt là Lão Hạc và Chí Phèo. Trong khoảng vài chục
năm trở lại đây, tiÓu thuyết của Nam Cao cũng đã được nhìn nhận, đánh
giá lại, khẳng định lại tài năng xuất sắc của nhà văn trên phương diện thể
loại tiÓu thuyết, song hầu hết các công trình nghiên cứu mới chỉ chú ý tíi
giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm và quan tâm chủ yếu tới tiÓu
thuyết Sống mòn. Truyện người hàng xóm Ýt được các nhà nghiên cứu
nhắc tới. Tác phẩm này hầu nh chưa được các nhà nghiên cứu phê bình
chú ý đúng mức và có công trình nghiên cứu cụ thể. Rải rác vài năm gần
đây, tác phẩm này mới được để ý tíi. Khi nghiên cứu về Nam Cao, người
15
ta quên mất rằng trong suốt cuộc đời cầm bót của mình, Nam Cao đã
viÕt rất nhiÒu tiÓu thuyết, chỉ tiÕc là bị mất bản thảo. Vì thế, tư cách là
một nhà tiÓu thuyết những năm 1940- 1945 của Nam Cao chưa được
khẳng định. Có thể nói dù các tiÓu thuyết của Nam Cao còn lại không
nhiÒu, nhưng tiÓu thuyết của Nam Cao thể hiện mét phong cách tiÓu
thuyết độc đáo, đặc sắc vừa thống nhất với phong cách của Nam Cao nãi
chung, vừa có những nét đa dạng, độc đáo riêng về phương diện thể loại.
TiÓu thuyết của Nam Cao đã đóng một vai trò quan trọng, có thể coi như
một dấu mốc đánh dấu sự phát triÓn của văn xuôi Việt Nam hiện đại nãi
chung, tiÓu thuyết Việt Nam hiện đại nãi riêng. Bên cạnh những thành
công xuất sắc về phương diện néi dung tư tưởng, tiÓu thuyết Nam Cao
còn đạt tới mét nghệ thuật tự sự độc đáo, đặc sắc, đóng góp lớn vào tiÕn
trình phát triÓn của tiÓu thuyết Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu tìm hiÓu
về nghệ thuật tự sự trong tiÓu thuyết Nam Cao thực sự là một việc cần
thiÕt để khẳng định tư cách nhà tiÓu thuyết và tài năng tiÓu thuyết của
Nam Cao.
III. Nhiệm vụ của đề tài
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 tuy không dài nhưng là
một giai đoạn văn học phát triển mạnh mẽ và có những đóng góp to lớn
cho sự phát triển của văn học dân téc. Đây là thời kì nở ré của biết bao
tài năng văn học, bởi trong bối cảnh xã hội lúc bấy giê, sù khẳng định cái
tôi trong văn học trước hết là nhà văn phải để lại một dấu Ên riêng.
Trong dòng chảy Êy, Nam Cao nổi lên như một hiện tượng văn học độc
đáo dù đương thời, nhà văn không được đánh giá cao. Với sự cần mẫn và
nghiêm tóc trong nghề cầm bót trở thành một ý thức tự giác thường trực,
Nam Cao đã tạo được cho mình chỗ đứng vững chắc trong lòng bạn đọc
16
và giới phê bình văn học nhiều thế hệ. Đã qua hơn nửa thế kỉ, người đọc
vẫn chưa thôi ngỡ ngàng cảm phục nhà văn và không ngừng tìm thấy
những phát hiện mới mẻ về những chiêm nghiệm, khái quát của nhà văn
về cuộc đời và con người. Thời gian càng lùi xa, người ta càng thấy rõ
hơn tầm vóc của một nhà văn lớn.
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi sẽ đi vào nghiên cứu, tìm
hiÓu nghệ thuật tự sự của tiÓu thuyết Nam Cao trên các phương diện về
cách tiÕp cận hiện thực, sự độc đáo về cốt truyện và kết thúc, nghệ thuật
xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật. Đây là những phương diện
chủ yếu trong nghệ thuật tự sự của một tác phẩm, cũng là những phương
diện thể hiện rõ nhất tài năng tiÓu thuyết của Nam Cao. Đây cũng là dịp
nhìn lại, khẳng định lại những thành công của Nam Cao về phương diện
thể loại tiÓu thuyết. Đồng thời việc nghiên cứu, tìm hiÓu nghệ thuật tự
sự trong tiÓu thuyết của Nam Cao sẽ góp phần khẳng định một lần nữa
sự da dạng, phong phú, đặc sắc trong phong cách của Nam Cao, góp
phần khẳng định vị trí không thể thay thế của Nam Cao trong tiÕn trình
phát triÓn của tiÓu thuyết Việt Nam hiện đại.
Việc làm này cũng là một lần bày tỏ niÒm trân trọng, ngưỡng mộ
của người viÕt đối víi mét nhà văn có nhân cách đáng trọng, có nhiÒu
đóng góp quan trọng cho nền văn học nước nhà.
IV. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp hệ thống
Tìm hiÓu nghệ thuật tự sự của tiÓu thuyết Nam Cao phải dùa trên
sự hệ thống các phương diện thuộc về nghệ thuật tác phẩm, đặt các
phương diện của nghệ thuật tự sự trong một hệ thống, chóng không tách
rời, không độc lập mà nằm trong một chỉnh thể. Phương pháp hệ thống
17
giúp người viÕt nhận diện rõ về các đặc điÓm nghệ thuật tiÓu thuyết
của Sống mòn và Truyện người hàng xóm.
2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp nghiên cứu này giúp chúng tôi có thể phân tích về
những đặc điÓm, đánh giá những thành công xuất sắc của Nam Cao về
nghệ thuật tự sự trong tiÓu thuyết. Đây là một phương pháp không thể
thiÕu trong công tác nghiên cứu.
3. Phương pháp so sánh
Để làm nổi bật những đặc điÓm về nghệ thuật tự sự trong tiÓu thuyết
của Nam Cao, đồng thời góp phần khẳng định những thành công xuất sắc
của nhà văn về phương diện này, chúng tôi vận dụng tới phương pháp so
sánh. Đối tượng được dùng trong so sánh là các sáng tác tiÓu thuyết của
các nhà văn khác cùng trào lưu như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố…, so
sánh tiÓu thuyết của Nam Cao víi các truyện ngắn của chính ông, so
sánh tiÓu thuyết Sống mòn với Truyện người hàng xóm.
PHẦN NÉI DUNG
Chương 1
CÁCH TIÕP CẬN HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG CỦA Nam CAO TRONG
TIÓU THUYẾT
1. TiÕp cận hiện thực từ hướng thế sự, đời tư
Theo Từ điÓn thuật ngữ văn học" ( Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi chủ biên), tiÓu thuyết là “tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả
năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giíi hạn không gian và thời gian.
TiÓu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiÒu cuộc đời, những bức
18
tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điÒu kiện sinh hoạt giai
cấp, tái hiện nhiÒu tính cách đa dạng ….So víi các thể khác của loại tù
sự như ngụ ngôn, anh hùng ca ( sử thi ) thì đặc điÓm tiêu biÓu thứ nhất
của tiÓu thuyết là cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư. Đặc trưng này
thoạt đầu được hình thành ngay trong tiÓu thuyết cổ đại. Càng về sau
đời tư càng trở thành tiêu điÓm để miêu tả cuộc sống một cách tiÓu
thuyết. Tuỳ theo từng thời kỳ phát triÓn, cái nhìn đời tư có thể sâu sắc
tới mức thể hiện được, hoặc kết hợp được víi các chủ đề thế sự hoặc lịch
sử dân téc. Nhưng yếu tố đời tư càng phát triÓn thì chất tiÓu thuyết càng
tăng, ngược lại, yếu tố lịch sử dân téc càng phát triÓn thì chất sử thi
càng đậm đà.”(19,122). Còng trong công trình này, các tác giả cũng chỉ
ra rằng: "Ngoài hệ thống sự kiện, biÕn cố và những chi tiÕt tính cách,
tiÓu thuyết miêu tả suy tư của nhân vật về thế giíi, về đời người, phân
tích cặn kẽ các diÔn biÕn tình cảm, trình bày tường tận tiÓu sử của nhân
vật, mọi chi tiÕt về quan hệ giữa người và người, về đồ vật, môi trường,
nội thất... Xét từ phương diện này thì "Sống mòn của Nam Cao là tác
phẩm rất tiÓu thuyết"(19,224). Trong Từ điÓn văn học, tập II, phó giáo
sư Nguyễn Xuân Nam cùng ý kiÕn khi cho rằng : "TiÓu thuyết có khả
năng phản ánh những cuộc đấu tranh giai cấp phức tạp, những mối quan
hệ xã hội đan chéo vào nhau trong một cốt truyện. Nhân vật trong tiÓu
thuyết cũng được miêu tả tỉ mỉ từ ngoại hình đến nội tâm, nhất là ghi lại
quá trình hình thành và phát triÓn các tính cách nhân vật theo lịch sử các
biÕn cố”(56,389). Trong mục về tiÓu thuyết này, nhà nghiên cứu còn
chỉ ra: “ Kết cấu của tiÓu thuyết rất đa dạng, biÕn hoá, thường kết hợp
nhiÒu kiÓu kết cấu. Ngôn ngữ tiÓu thuyết phong phó: ngôn ngữ người
kể chuyện, ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ nội tâm nhân vật( độc thoại néi
tâm), những đoạn trữ tình ngoại đề...TiÓu thuyết là thể loại tạo điÒu
19
kiện cho tác giả thể hiện rộng rãi, đầy đủ quan điểm chính trị, tư tưởng,
tình cảm của mình đối víi cuộc đời"(56,389). Trên cơ sở những nhận
định trên, có thể khẳng định nh nhiÒu nhà nghiên cứu đã thống nhất là
Sống mòn của Nam Cao mang tính chất tiÓu thuyết đậm nét. Bên cạnh
đó cũng cần khẳng định Truyện người hàng xóm của Nam Cao thực sự là
một tiÓu thuyết . Đó là một tiÓu thuyết vừa vẫn mang những đặc điÓm
quen thuộc trong cách viÕt tiÓu thuyết của Nam Cao, vừa có những
sáng tạo hết sức mới mẻ, độc đáo cho thấy sức sáng tạo dồi dào, đa
dạng vô cùng của một nhà văn tài năng.
*
* *
Đời sống và văn học thường không thể tách rời. Văn học luôn gắn
bó với hiện thực đời sống, bám sát từng bước chuyển biến của hiện thực
đời sống......Bất cứ một tác phẩm văn học nào, dù viết theo thể loại gì,
hình thức, kết cấu ra sao, là loại truyện phiêu lưu mạo hiểm, kinh dị hay
truyện tâm lí...thì mọi nội dung được phản ánh trong tác phẩm đều có cội
nguồn từ đời sống tâm lí, tư tưởng của con người đương thời. Trước hết
nó là suy nghĩ, cách đánh giá, cảm nhận của nhà văn- người gắn với cuộc
sống đương đại trong một môi trường văn hoá, xã hội lịch sử nhất định.
Đây là một qui luật tất yếu trong sáng tạo nghệ thuật nói chung, trong
văn học nói riêng.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 gắn với một thời kì lịch sử
mà bối cảnh xã hội có nhiều biến đổi đặc biệt và nhanh chóng trên nhiều
phương diện của đời sống, từ kinh tế ,chính trị, văn hoá cho tới cả quan
niệm, cách cảm, cách nghĩ,....Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân téc giữa
dân téc Việt Nam với sự cấu kết của thực dân-phong kiến càng mạnh mẽ,
gay gắt hơn bao giê hết. Số phận con người nhá mọn, khèn khổ, không
20
- Xem thêm -