Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ch...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5

.DOCX
23
370
114

Mô tả:

Đề tài: Một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5. ====== A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài. 1.1, Cơ sở lí luận: Đặc điểm tâm lí tiêu biểu của trẻ tiểu học là chóng nhớ, chóng thuộc nhưng nhanh quên; các em thường dễ dàng ghi nhớ những kiến thức dạng hình ảnh và cụ thể. Những kiến thức trừu tượng phức tạp thường làm cho các em dễ nhầm lẫn hay mắc rối; đặc biệt là những kiến thức về ngữ pháp – từ ngữ trong chương trình Tiếng Việt lớp 5. Một trong những mục tiêu cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông qua giao tiếp và phục vụ giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cơ bản để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ Tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ Tiếng Việt cần được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý. Ngôn ngữ Tiếng Việt có nhiều khía cạnh khó, một trong những nội dung khó đó là phần nghĩa của từ. Trong chương trình Tiếng Việt lớp 5, phân môn luyện từ và câu được phân bố đều mỗi tuần 2 tiết. Trong đó, các bài về từ ngữ được học ngay từ tuần thứ nhất. Đây là những kiến thức về ngữ nghĩa được sắp xếp từ đơn giản đến phức tạp. Mặc dù độ khó của những kiến thức này chưa yêu cầu phải huy động quá trình phân tích tư duy nhưng rất cần sự nhạy bén so sánh và phân biệt. Song, việc so sánh và phân biệt hai mảng kiến thức từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là vấn đề không mấy dễ dàng đối với hầu hết học sinh lớp 5, vì đây là các mảng kiến thức có nhiều điểm tương đồng và không rõ ràng về ranh giới. Vậy mục tiêu dạy học dạy học hai mảng kiến thức này là học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Để phân biệt được hai loại từ này học sinh cần có căn cứ khoa học. 2.1, Cơ sở thực tiễn: Từ ngữ là mảng kiến thức thiết thực đối với học sinh tiểu học. Từ là đơn vị để tạo câu, là nền tảng của mỗi văn bản. Để hiểu được, viết được một câu văn, một đoạn văn, học sinh cần có một khả năng sử dụng từ ngữ tương đối vững chắc; điểu này không phải tất cả học sinh đều làm được. Thực tế dạy học từ ngữ ở chương trình tiểu học chưa được coi trọng, mà chỉ là một mảng kiến thức trong phân môn Luyện từ và câu. Trong các lần kiểm tra định kì, luyện từ và câu chỉ được kiểm tra trong một ý nhỏ; vì thế hầu hết các giáo viên và học sinh đều xem nhẹ việc dạy và học phân môn này. Dường như rất ít người nghĩ tới tầm quan trọng của phân môn này là phục vụ cho việc sử dụng đúng từ, đặt câu, dựng đoạn văn... Nói chung, từ Trang 2 ngữ là sợi chỉ xuyên suốt tất cả các phân môn trong bộ môn Tiếng Việt. Học sinh tiểu học có lượng ngôn ngữ còn ít, khả năng sử dụng ngôn ngữ còn hạn chế. Khi trình bày một vấn đề, học sinh tiểu học thường sử dụng ngôn ngữ một cách ngẫu hứng, có khi các em không hề hiểu từ ngữ mình đang nói có nghĩa gì; vì thế ý một đàng trình bày một nẻo. Trong các bài làm văn của các em, hầu như bài nào cũng có những từ ngữ sáo rỗng hoặc tối nghĩa. Những hạn chế về từ ngữ của học sinh phần lớn là hậu quả của quá trình học tập mảng kiến thức về từ ngữ chưa được chú trọng. Phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học được tích hợp từ nhiều mảng kiến thức. Trong đó, phần từ ngữ là mảng kiến thức không nhiều. Vì tích hợp nên các mảng kiến thức đều chỉ ở mức cơ bản, không chuyên sâu. Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của từ được tập trung biên soạn có hệ thống trong phần Luyện từ và câu. Khi tiếp cận với các bài Từ đồng nghĩa, Từ trái nghĩa, Từ đồng âm thì các em lĩnh hội tương đối dễ dàng. Song đến bài Từ nhiều nghĩa thì mạch kiến thức về nghĩa từ của các em đã có sự mắc rối, lẫn lộn. Việc lẫn lộn này không chỉ diễn ra ở học sinh yếu mà ngay cả học sinh khá, giỏi cũng có lúc mắc phải. Trăn trở về vấn đề này, qua nhiều năm dạy lớp 5, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Vì thế, tôi đã mạnh dạn đề xuất sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp5” Đây là một vấn đề đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu, song chỉ đề cập ở mức độ hàn lâm chuyên sâu vào phương pháp mà không chú trọng đến đối tượng học sinh. Vấn đề hết sức nhạy cảm, bức thiết, phù hợp với xu thế hiện tại của giáo dục hiện nay là dạy học gắn với đối tượng học sinh. Nếu đề tài này được nghiên cứu một cách nghiêm túc và ứng dụng kịp thời, thì có thể giải quyết cơ bản tình trạng khó phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, đồng thời khả năng sử dụng ngôn ngữ kém chính xác của một bộ phận không nhỏ học sinh tiểu học hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu. Nhằm nâng cao chất lượng dạy học từ ngữ ở lớp 5, phát triển kĩ năng sử dụng từ ngữ phù hợp và linh hoạt hơn. Hình thành ý thức sử dụng ngôn ngữ chính xác, chặt chẽ giàu giá trị biểu cảm và có trách nhiệm với lời nói của mình. Qua đó, học sinh có ý thức giữ gìn trong sáng tiếng Việt. Cung cấp con đường, cách thức học tập giúp học sinh có công cụ tìm kiếm và sử dụng kiến thức là mục tiêu cao nhất của quá trình dạy học. Có được các giải pháp sẽ tạo sự thuận lợi cho người giáo viên truyền thụ kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa; giải quyết phần nào những khó khăn mắc phải trong quá trình dạy học mảng kiến thức này. Vì vậy, việc đưa ra hệ thống các giải pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa phù hợp với đối tượng học sinh là việc làm tối ưu cần thiết, giúp người giáo viên nắm được bản chất vấn đề giúp HS cũng nắm được bản Trang 3 chất ấy nâng cao được chất lượng học tập. 3. Phương pháp tiến hành nghiên cứu Đề tài kết hợp nhiều phương pháp: - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp phân loại thống kê. - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động - Phương pháp thực nghiệm sư phạm ... *** B. NỘI DUNG I. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ 1. Về giáo viên: Trong quá trình dạy học từ ngữ, giáo viên ít quan tâm đến việc xác định đặc trưng của dạng bài học, vì vậy việc thiết kế bài giảng chưa được đầu tư bài bản nên khi trình bày nội dung bài học thường mang tính hàn lâm; nghĩa là quá trình dạy học chỉ dừng lại ở dạng nghiên cứu, học sinh tiếp thu bài học mang tính lí thuyết mà không nắm bắt được những vấn đề thực tiễn, cụ thể; điều này mâu thuẩn với đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học. Việc tổ chức dạy học thường phụ thuộc vào giáo án mẫu ít khi phân tích rõ đặc điểm học sinh lớp học và từng đối tượng cụ thể để chọn ra giải pháp phù hợp cho từng đối tượng. Vì thế, người giáo viên không thể truyền tải trọn vẹn kiến thức của bài học cần trình bày. Có khi thầy dạy để chỉ có thầy hiểu mà thôi. Thực tế trong quá trình đào tạo, giáo viên tiểu học không được trang bị kiến thức chuyên sâu về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Để nắm được bản chất đặc trưng của loại từ này, người giáo viên phải tự tìm tòi và nghiên cứu. Thông thường, giáo viên chỉ tham khảo các tài liệu hướng dẫn dạy học mà ít khi tìm đến những tài liệu về chuyên đề. Vì vậy, giáo viên chỉ nắm một cách phiến diện về vấn đề nên không thể sử dụng kiến thức một cách linh hoạt trong quá trình dạy học. Phân môn luyện từ và câu trong chương trình tiếng Việt tiểu học có thời lượng không nhiều. Trong đó, mảng kiến thức về từ ngữ chỉ là một phần nhỏ. Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa chỉ có thời lượng dạy học với 5 tiết gồm các bài 10, 12,13,14,16. Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là một vấn đề khá phức tạp, dễ nhầm lẫn thường ít gặp trong các đề kiểm tra nên giáo viên không thực sự chú trọng. Bên cạnh đó, mảng kiến thức này ít có tài liệu chỉ rõ phương pháp dạy học điều đó khiến giáo viên thường phớt lờ, không chú trọng đến giải pháp truyền dạy. Trong quá trình dạy học các bài học này, mỗi giáo viên đều làm đúng vai trò hướng dẫn, tổ chức cho học sinh. Tuy nhiên, do thời lượng 1 tiết học có hạn nên giáo viên chưa lồng ghép, liên hệ, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong các bài học. Do đó, sau các bài học đó học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội dung học một cách tách bạch. Đôi khi giảng dạy nội dung này, giáo viên còn khó khăn khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể ngoài sách giáo khoa để minh hoạ phân biệt Trang 4 từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. 2. Về học sinh. Học sinh tiểu học là đối tượng tiếp xúc với hoạt động học tập chưa lâu, kinh nghiệm sống còn ít, điều này cho thấy vốn ngôn ngữ của các em chưa phong phú. Mặt khác, học sinh tiểu học ở vùng nông thôn được tiếp xúc với các phương tiện thông tin chưa hiện đại, các đối tượng giao tiếp thường có trình độ ở mức thấp khiến cho môi trường học tập của các em thu hẹp trong phạm vi nhà trường. Thời gian học tập ở trường không nhiều so với thời gian lao động và sinh hoạt ở nhà. Đó là những lí do khiến cho vốn ngôn ngữ của các em càng nghèo nàn, không đáp ứng kịp với yêu cầu chương trình sách giáo khoa đã xây dựng. Qua tiếp xúc với các em tôi nhận thấy hầu hết các em có thể hiểu vấn đề, nhưng khi trình bày một vấn đề lại thiếu ngôn ngữ nên thường ấp úng hoặc không nói được theo ý muốn. Khi đưa ra một từ mới, đặc biệt là từ đồng âm và từ nhiều nghĩa thì các em không hiểu nghĩa hoặc giải nghĩa theo cách nêu thành ví dụ cụ thể, mà không thể nói chính xác được nghĩa của từ đó. Bên cạnh việc nghèo nàn về ngôn ngữ, học sinh tiểu học vùng nông thôn rất thiếu khả năng khái quát nghĩa từ. Việc sắp xếp các nhóm từ có cùng trường nghĩa là việc làm khó khăn đối với các em. Các bài tập kiểu này các em chỉ có thể làm được sau rất nhiều gợi ý. Hầu hết học sinh lớp 5 khi học các tiết luyện từ và câu về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa đều gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể là: - Khó khăn trong việc giải nghĩa các từ: học sinh còn giải nghĩa từ sai, lúng túng và còn lủng củng. - Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa: còn mơ hồ, không định rõ ranh giới. - Phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ; rất ít học sinh tìm đúng nghĩa gốc thậm chí không xác định đúng từ mà nhầm lẫn từ với tiếng. - Đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa: chưa chính xác, chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu. Trong thực tế, học sinh làm các bài tập về từ đông âm nhanh và ít sai hơn khi học các bài tập về từ nhiều nghĩa, cũng có thể do từ nhiều nghĩa trừu tượng hơn. Đặc biệt khi cho học sinh phân biệt và tìm các từ có quan hệ đồng âm, các nghĩa của từ nhiều nghĩa trong một số văn cảnh thì đa số học sinh lúng túng và làm bài chưa đạt yêu cầu. Ban đầu, khi học từng bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa thì phần đa các em làm được bài, song khi làm các bài tập lồng ghép để phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa thì chất lượng bài làm yếu hơn. Trí nhớ trở nên rối rắm, các định nghĩa về từ đồng âm lẫn lộn với định nghĩa về từ nhiều nghĩa bởi hai từ này có vỏ âm thanh giống nhau. Học sinh không thể hiểu được: Từ đồng âm là nhiều từ nhưng nghĩa các từ trong văn cảnh đều là nghĩa gốc (còn gọi là nghĩa chính hay nghĩa đen). Còn từ nhiều nghĩa thì chỉ là một từ có một nghĩa gốc còn các nghĩa khác là nghĩa chuyển từ nghĩa gốc. Trang 5 3. Nguyên nhân của những khó khăn: *Thứ nhất: Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức giống nhau, đọc giống nhau, viết cũng giống nhau chỉ khác nhau về ý nghĩa. Ví dụ 1: Từ đồng âm “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn công việc” xét về hình thức ngữ âm thì hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì hoàn toàn khác nhau: “bàn” (1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, chân đứng để đồ đạc hoặc làm việc, “bàn” (2) là động từ chỉ sự trao đổi ý kiến. Ví dụ 2: Từ nhiều nghĩa: “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn”(2) trong “bàn phím”. Hai từ “bàn” này, về hình thức ngữ âm hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì “bàn” (1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, có chân dùng để đi kèm với ghế làm đồ nội thất; “bàn”(2) là bộ phận tập hợp các phím trong một số loại đàn hoặc máy tính. bàn” trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn công việc” đều mang nghĩa gốc, VD2 “bàn” trong “cái bàn” mang nghĩa gốc còn “bàn” trong “bàn phím” mang nghĩa chuyển. *Thứ hai: Trong chương trình Tiếng Việt 5 chưa có dạng bài tập phối hợp cả hai kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học sinh rèn kĩ năng phân biệt. *Thứ ba: HS còn chưa phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa. *Thứ tư: Vốn ngôn ngữ nghèo nàn, khả năng giải nghĩa phổ thông của học sinh không vững. II. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG ÂM VÀ TỪ NHIỀU NGHĨA 1. Cơ sở để xây dựng giải pháp. Căn cứ vào đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học về ngôn ngữ, chú ý, trí nhớ, ý chí, tình cảm dẫn tới phát triển tư duy, nhận thức. Từ đó có thể vận dụng khả năng tư duy, nhận thức và nhu cầu ngôn ngữ để phục vụ giao tiếp. Nhận thức được vai trò của ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp thường ngày, giúp học sinh tích cực hơn trong việc rèn luyện ngôn ngữ. Thực tiễn trong dạy học, chất lượng học tập phụ thuộc nhiều vào điều kiện xã hội từng vùng. Trong các điều kiện xã hội, điều kiện kinh tế, văn hóa có vai trò chủ yếu tạo nên vốn ngôn ngữ địa phương. Học sinh tiểu học vùng nông thôn đa số ít được tiếp xúc với điều kiện kinh tế, văn hóa thuận lợi. Điều kiện học tập của các em gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, khi dạy học, người giáo viên phải hiểu được hoàn cảnh của học sinh để chọn những phương pháp dạy học phù hợp nhất. Đưa ra những giải pháp chung nhất, ứng dụng cho những tình huống phù hợp. Tuy nhiên, mỗi con người có một đặc điểm cấu trúc tâm lí khác nhau, nên cùng một hiện tượng có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Song hệ thống các giải pháp được đề cập là những phương pháp giải quyết những vấn đề chung nhất với kết quả tối ưu nhất. 2. Các giải pháp: 1.2; Xây dựng hệ thống bài tập tổng hợp từ dễ đến khó. Trang 6 Sau khi học xong bài Luyện tập về từ nhiều nghĩa ở tuần 8, học sinh bỗng trở nên mơ hồ, lẫn lộn giữa hai lớp từ. Vì vậy, tiết ôn luyện tiếp theo dùng cho ôn luyện tổng hợp về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đó là điều cần thiết. Trong tiết học này, giáo viên cho học sinh so sánh giữa hai khái niệm về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Qua đó, làm rõ những mặt khác biệt trong khái niệm đề cập. Thực chất, với thời lượng của một tiết học luyện tập tổng hợp là chưa đủ để giúp học sinh hiểu được: từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều được hình thành từ quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ - dùng ít kí hiệu nhưng biểu đạt được nhiều. Tuy nhiên, chúng là hai lớp từ khác nhau. Từ đồng âm là những từ có hình thức ngữ âm giống nhau nhưng có nghĩa hoàn toàn khác biệt nhau. Từ nhiều nghĩa là một từ nhưng có nhiều nghĩa. Vậy, giáo viên cần dành thêm một số tiết học tăng thời lượng để làm sáng tỏ vấn đề trên. Sau khi học sinh đã nắm được điểm khác biệt giữa hai lớp từ, giáo viên cung cấp hệ thống bài tập thực hành nhằm so sánh và phân biệt chúng. Ví dụ: Bài 1: Dòng nào dưới đây có từ nhiều nghĩa? a, đàn gà mới nở - hoa nở- nở nụ cuời b, con đường – cân đường – thời đường c, tổ quốc – chim quốc – cái cuốc Bài 2: Cặp từ nào dưới đây có từ đồng âm? a, vỗ bờ - vỗ tay b, vách đá - đá bóng c, mắt cá - mắt lưới d, lưng núi - đau lưng Bài 3: Trong các từ in đậm dưới đây, những từ nào có quan hệ đồng âm, những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau? Vàng: - Giá vàng nước ta tăng đột biến. - Tấm lòng vàng. - Ông tôi mua một bộ vàng lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải sản. 2.2; Cung cấp cách nhận dạng từng dấu hiệu của mỗi lớp từ theo yêu cầu của bài tập trên cơ sở loại suy. Dù trên phương diện âm hình thì từ đồng âm và từ nhiều nghĩa có vẻ giống nhau, nhưng xét về nghĩa lại hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, mỗi lớp từ có những dấu hiệu nhận dạng rất cụ thể. Để học sinh có thể nhận dạng mỗi lớp từ này, giáo viên cung cấp cho các em những dấu hiệu nhận dạng theo yêu cầu của bài tập, từ đó loại suy ra các từ không cùng bản chất. Căn cứ vào yêu cầu của các bài tập chúng ta có thể chia ra ba loại yêu cầu sau: a. Tìm từ đồng âm trong các tổ hợp từ. Đối với dạng yêu cầu này, nên dựa vào dấu hiệu của từ đồng âm để lựa chọn, tổ hợp từ nào không có dấu hiệu đồng âm thì loại ra. Cụ thể là: các tổ hợp từ nào mà nghĩa của mỗi từ độc lập, không có bất cứ mối quan hệ nào về nghĩa với nhau thì nó là những từ đồng âm. Ví dụ: Nhóm từ nào sau đây có quan hệ đồng âm? Trang 7 a, cái thang; hình thang, thang máy b, hoa mơ, giấc mơ, sáng tinh mơ c, máy in, in sách, giống như in Trong các nhóm từ trên, từ “mơ” có nghĩa độc lập nên nhóm b chính là các từ đồng âm, loại ra các nhóm còn lại. b. Tìm từ nhiều nghĩa trong các tổ hợp từ. Với dạng yêu cầu này, nên dựa vào dấu hiệu của từ nhiều nghĩa để lựa chọn và loại các nhóm từ còn lại. Để chọn từ nhiều nghĩa phải căn cứ vào các dấu hiệu về phát triển nghĩa theo hai con đường: * Thứ nhất. Nghĩa của từ phát triển từ chỗ từ gọi tên sự vật này chuyển sang gọi tên sự vật khác, do các sự vật, hiện tượng ấy có đặc điểm nào đó giống nhau (ẩn dụ), theo con đường này có 3 dạng: - Dạng 1: Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống nhau về hình dáng, vị trí của các sự vật hiện tượng. Ví dụ: mũi người → mũi thuyền; cổ người → cổ chai; miệng người → miệng bát; đầu người → đầu tàu... - Dạng 2: Nghĩa của từ phát triển dựa trên sự giống nhau của các sự vật, hiện tượng. Ví dụ: cắt cỏ → cắt đứt quan hệ ngoại giao → cắt tình ruột thịt;nghĩa của “cắt” giống nhau về chức năng chia tách đối tượng. - Dạng 3: Nghĩa của từ phát triển dựa trên sự giống nhau về kết quả của một kiểu tác động nào đó. Ví dụ: Tôi ngả xe rất đau1 → Nó nói tôi rất đau2; đau1 (đau do vết thương), đau2 (đau do cảm giác tâm lí) hai sự “đau” này đều là kết quả của sự tác động. Gốc là tác động bằng lực cơ học. * Thứ hai. Nghĩa của từ phát triển dựa trên quan hệ gắn bó, liên quan có thực giữa các sự vật, hiện tượng (hoán dụ), theo con đường này có 3 dạng: - Dạng 1: Nghĩa của từ phát triển từ chỗ từ gọi tên bộ phận (nghĩa gốc) chuyển sang gọi tên toàn thể. Ví dụ: khuôn mặt → có mặt trong lớp; chân → có chân trong đội bóng... - Dạng 2: Nghĩa của từ phát triển dựa trên quan hệ các chứa, cái bao chuyển sang chỉ cái được chứa, được bao bên trong. Ví dụ: cái thúng →ba thúng thóc; cái chai → uống hai chai rượu; cái chén → cho xin một chén... - Dạng 3: Nghĩa của từ phát triển từ chỗ từ gọi tên nguyên liệu, vật liệu chuyển sang sản phẩm được làm ra từ nguyên liệu đó. Ví dụ: bạc → giấy bạc (chỉ giá trị); đồng → một nghìn đồng... Để xác định được từ nhiều nghĩa, khâu quan trọng nhất là xác định được nghĩa gốc. Theo sự phát triển của từ như trên, nghĩa gốc của từ được xác định để gọi tên sự vật, đối tượng, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm. Các từ mang nghĩa gốc thì nêu được nghĩa khác nhau nhưng phải bằng cách diễn giải. Còn phần nhiều các từ mang nghĩa chuyển thì nêu nghĩa bằng cách thay thế bằng một từ khác (mang Trang 8 nghĩa phụ). Ví dụ: Nhóm từ nào sau đây có quan hệ nhiều nghĩa? a, lịch sử; lịch sự, sơ yếu lí lịch b, thê thiếp, ngủ thiếp đi, thiếp mời c, mặt trời, mặt giấy, đối mặt c. So sánh từ đồng âm và từ nhiều nghĩa (xác định mỗi lớp từ). Với dạng yêu cầu này, nên dựa vào dấu hiệu của từ đồng âm để lựa chọn và sắp xếp các nhóm từ cho phù hợp, bởi vì dấu hiệu về từ đồng âm là đơn giản hơn; khi không tìm thấy dấu hiệu quan hệ về nghĩa là từ đồng âm. Ví dụ: Trong các từ phát âm giống nhau dưới đây, những từ nào có quan hệ đồng âm, những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau? a. Nhóm nhạc năm dòng kẻ. b. Viết khoảng năm dòng là hết nội dung. c. Dòng sông Đà tuôn dài như một áng tóc trử tình... d. Trai tân mà lấy gái nạ dòng. Trong bài tập này ta thấy từ “dòngd” không có quan hệ với từ “dònga,b,c” nên nó là từ đồng âm với các từ còn lại. 3.2; Coi trọng việc dạy các tiết học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. a. Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa: * Từ đồng âm: Là những từ giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa (theo SGK TV5 - tập 1 - trang 51) Ví dụ: - bò trong kiến bò. chỉ hoạt động di chuyển ở tư thế áp bụng xuống nền bằng cử động của toàn thân hoặc những cái chân ngắn. - bò trong trâu bò: chỉ loài động vật nhai lại, sừng ngắn, lông thường có màu vàng, được nuôi để lấy sức kéo, thịt, sữa... - đầm trong đầm sen: chỉ khoảng trũng to và sâu giữa đồng để giữ nước. - đầm trong bà đầm: chỉ đàn bà, con gái phương Tây. - đầm trong cái đầm đất: chỉ vật nặng, có cán dùng để nện đất cho chặt. Đây là kiến thức cô đọng, súc tích nhất dành cho học sinh tiểu học ghi nhớ, vận dụng khi làm bài tập, thực hành. Đối với giáo viên tiểu học, cần chú ý thêm từ đồng âm được nói tới trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5 gồm cả từ đồng âm ngẫu nhiên (nghĩa là có 2 hay hơn 2 từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau, trùng nhau nhưng giữa chúng không có mối quan hệ nào, chúng vốn là những từ hoàn toàn khác nhau) như trường hợp “câu” trong “câu cá” và “câu” trong “đoạn văn có 5 câu” là từ đồng âm ngẫu nhiên và cả từ đồng âm chuyển loại (nghĩa là các từ giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa, đây là kết quả của quá trình hoạt động chuyển hóa từ loại của từ). VD: a) + cuốc (danh từ): cái cuốc → cuốc (động từ): cuốc đất; Trang 9 + đá (danh từ): hòn đá→ đá (động từ): đá bóng b) + thịt (danh từ): miếng thịt + thịt (động từ): thịt con gà Từ đồng âm hình thành do nhiều cơ chế: do trùng hợp ngẫu nhiên (gió bay, bọn bay, cái bay), do chuyển nghĩa quá xa mà thành (lắm kẻ vì nể, vì lý do gì), do từ vay mượn trùng với từ có sẳn (đầm sen, bà đầm, la mắng, nốt la), do từ rút gọn trùng với từ có sẳn (hụt mất hai ly, cái ly, hai ký, chữ ký...). Trong giao tiếp cần chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ hoặc dùng với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm. * Từ nhiều nghĩa: là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. (SGK Tiếng Việt 5 - trang 67) Ví dụ: - Đôi mắt của bé mở to (bộ phận quan sát của con người ở trên mặt) - Từ “mắt” trong câu “quả na mở mắt” là nghĩa chuyển. Đối với giáo viên có thể hiểu: Một từ có thể gọi tên nhiều sự vật hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm (khái niệm về sự vật, hiện tượng) trong thực tế khách quan thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ nhiều nghĩa có mối liên hệ mật thiết với nhau. Muốn hiểu rõ hơn khái niệm về từ nhiều nghĩa ta có thể so sánh từ nhiều nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của một sự vật, hiện tượng biểu đạt một khái niệm thì từ ấy chỉ có một nghĩa.Từ nào là tên gọi của nhiều sự vật, hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm thì từ ấy là từ nhiều nghĩa. Nhờ vào quan hệ liên tưởng tương đồng (ẩn dụ) và tương cận (hoán dụ) người ta liên tưởng từ sự vật này đến sự vật kia trên những đặc điểm, hình dáng, tính chất giống nhau hay gần nhau giữa các sự vật ấy. Từ chỗ gọi tên sự vật, tính chất, hành động này (nghĩa 1) chuyển sang gọi tên sự vật, tính chất, hành động khác (nghĩa 2), quan hệ đa nghĩa của từ nảy sinh từ đó. Ví dụ: Chín: (1) chỉ quả đã qua một quá trình phát triển, đạt đến độ phát triển cao nhất, hoàn thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng. (2) Chỉ quá trình vận động, quá trinh rèn luyện từ đó, khi đạt đến sự phát triển cao nhất. (Suy nghĩ chín, tình thế cách mạng đã chín, tài năng đã chín) (3) Sự bối rối mất tự nhiên trước người khác làm thay đổi màu da trên gương mặt. (ngượng chín cả mặt) (4) Thức ăn được nấu (nướng, luộc,...) đã đạt đến độ ăn được. (cơm chín). Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa, trước hết phải miêu tả thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa. Nghĩa của từ phát triển thường dựa trên hai cơ sở: *Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có ba dạng sau : Trang 10 Dạng 1: Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật, hiện tượng hay nói cách khác là dựa vào các kiểu tương quan về hình dáng. Ví dụ: Mũi1 (mũi người) và Mũi2 (mũi thuyền); Miệng1 (miệng xinh) và miệng2 (miệng bát) Dạng 2: Nghĩa của từ phát triểm trên cơ sở ẩn dụ về cách thức hay chức năng, của các sự vật, đối tượng . Ví dụ: cắt1 (cắt cỏ) với cắt2 (cắt quan hệ) Dạng 3: Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác động của các sự vật đối với con người. Ví dụ: đau1 (đau vết mổ) và đau2 (đau lòng ) *Theo cơ chế hoán dụ có các dạng: Dạng1 : Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và toàn thể. Ví dụ: Chân1, Tay1, mặt1 là những tên gọi chỉ bộ phận được chuyển sang chỉ cái toàn thể (anh ấy có chân2 trong đội bóng; Tay2 bảo vệ của nhà máy số ba có Mặt2 trong hội nghị) Dạng 2: Nghĩa của từ phát triển trên quan hệ giữa vật chứa với cái được chứa. Ví dụ 1: Nhà1 Là công trình xây dựng (Anh trai tôi đang làm nhà) Nhà2 là gia đình (Cả nhà có mặt) Ví dụ 2: Thúng1: Đồ vật dùng để đựng đan bằng tre hoặc nứa (Cái thúng này đan khéo quá) Thúng2: Chỉ đơn vị (Hai thúng lúa) Đối với học simh lớp 5, chúng ta không thể yêu cầu học sinh nắm vững các thành phần ý nghĩa của từ, cách thức chuyển nghĩa của từ song yêu cầu học sinh phải giải nghĩa một số từ thông qua các câu văn, các cụm từ cụ thể, xác định được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ, phân biệt từ nhiều nghĩa với từ đồng âm, tìm được một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của từ, đặt câu với các nghĩa của từ nhiều nghĩa (hiểu từ qua văn cảnh). b. Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm. Giáo viên tổ chức các hình thức dạy học để giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giúp học sinh phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập, từ đó rút ra được những kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Bước tiếp theo giáo viên tổng hợp và rút ra kiến thức như nội dung phần ghi nhớ. Đến đây, nếu là HS khá, giỏi, GV có thể cho các em lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa giúp các em nắm sâu và chắc phần ghi nhớ. Chuyển sang phần luyện tập, giáo viên tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập. Sau mỗi bài tập giáo viên lại củng cố, khắc sâu kiến thức liên quan đến nội dung bài học, liên hệ thực tế và liên hệ (tích hợp) với các kiến thức đã học của phân môn LTVC nói Trang 11 riêng và tất cả các môn học nói chung. Trong quá trình dạy học các bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên cần sử dụng đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh hoạ nhằm giúp học sinh dễ dàng phân biệt nghĩa của từ. Ví dụ: hòn đá đá bóng Tóm lại khi dạy khái niệm về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, cần thực hiện theo quy trình các bước: - Cho học sinh nhận biết ngữ liệu để phát hiện những dấu hiệu bản chất của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. - Học sinh rút ra các đặc điểm của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa theo định nghĩa. - Luyện tập để nắm khái niệm trong ngữ liệu mới. Việc dạy hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung khi dạy luyện từ và câu và vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học như: - Phương pháp hỏi đáp - Hình thức học cá nhân - Phương pháp giảng giải - Thảo luận nhóm - Phương pháp trực quan - Tổ chức trò chơi - Phương pháp luyện tập thực hành Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên chủ yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh củng cố, nắm vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa… * Yêu cầu học sinh hiểu và nắm ghi nhớ để vận dụng Tâm lí học sinh chỉ thích làm những bài tập đơn giản, để lộ kiến thức, ngại học thuộc lòng, ngại viết các đoạn, bài cần yếu tố tư duy. Biết vậy tôi thường cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ cho đọc nối tiếp, rồi ghép lại cho đọc toàn phần, đọc theo nhóm đôi, có lúc thi đua xem ai nhanh nhất, ai đọc tốt. Sau đó, kiểm tra bài cũ chỉ tập trung yêu cầu đọc thuộc lại nội dung đã học. Cách làm này tôi đã cho các em thực hiện ở các tiết học trước đó (về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa) do đó dạy đến từ đồng âm, từ nhiều nghĩa các em cứ sẵn cách tổ chức như trước mà thực hiện. Và kết quả có tới 22/25 học sinh thuộc ghi nhớ một cách trôi chảy tại lớp chỉ còn 3 em Trang 12 có thuộc song còn ấp úng, ngắc ngứ. * Giúp học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau Điều đặc biệt của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm giống nhau (nói đọc giống nhau viết cũng giống nhau). Ta thấy rõ ràng là “đường1” trong “đường rất ngọt”, “đường2” trong “đường dậy điện thoại” và “đường3” trong “ngoài đường xe cộ đi lại nhộn nhịp” đều phát âm, viết giống nhau. Vậy mà “đường 1” với “đường2” và “đường1” với “đường3” lại có quan hệ đồng âm, còn “đường 2” với “đường3” lại có quan hệ nhiều nghĩa. Để có được kết luận trên đây, trước hết học sinh phải hiểu rõ nghĩa của các từ đường1, đường2, đường3 là gì? Đường1: (đường rất ngọt): chỉ một chất kết tinh có vị ngọt Đường2: (đường dây điện thoại): chỉ dây dẫn, truyền điện thoại phục vụ cho việc thông tin liên lạc Đường3: (ngoài đường, xe cộ đi lại nhộn nhịp) chỉ lối đi cho các phương tiện giao thông, người, động vật Để có thể giải nghĩa chính xác các từ “đường” như trên, các em phải có vốn từ phong phú, có vốn sống. Vì vậy trong dạy học tất cả các môn, giáo viên luôn chú trọng trau dồi, tích lũy vốn từ cho học sinh, nhắc học sinh có ý thức tích lũy cho mình vốn sống và yêu cầu mỗi học sinh nên có một cuốn từ điển Tiếng Việt, biết cách tra từ điển Tiếng Việt đồng thời nắm được một số biện pháp giải nghĩa từ. Tiếp đó học sinh căn cứ vào định nghĩa, khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để xác định mối quan hệ giữa các từ “đường”. Xét nghĩa của 3 từ “đường” trên ta thấy: Từ đường1 và từ đường2 có nghĩa hoàn toàn khác nhau không liên quan đến nhau – kết luận hai từ đường này có quan hệ đồng âm. Tương tự như trên từ đường1 và từ đường3 cũng có mối quan hệ đồng âm. Từ đường2 và từ đường3 có mối quan hệ mật thiết về nghĩa trên cơ sở của từ đường3 chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của từ đường 2 (truyền đi) theo vệt dài (dây dẫn). Như vậy từ đường3 là nghĩa gốc, còn từ đường2 là nghĩa chuyển – kết luận từ đường2 và từ đường3 có quan hệ nhiều nghĩa với nhau. 4.2; Tổ chức dạy trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức Trong chương trình sách giáo khoa, bài dạy về từ nhiều nghĩa được sắp xếp sau bài dạy về từ đồng âm. Như vậy, để phòng xa sự nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa thì ngay ở bài dạy về từ đồng âm, cần ví dụ đúng về các trường hợp không phải đồng âm để các em nhận xét. Ví dụ: Từ “đi” trong các trường hợp sau đây có phải hiện tượng đồng âm hay không? - Mẹ hay đi bộ vào buổi tối để giảm béo. Trang 13 - Bố mới đi Hà Nội về. - Hè này, cả nhà em đi du lịch. - Cụ ốm nặng, đã đi hôm qua rồi. - Anh đi con mã, thì tôi đi con tốt. - Thằng bé đã đến tuổi đi học. Bài tập này giáo viên chủ yếu yêu cầu học sinh nhận diện từ “đi” trong các câu văn trên là hiện tượng đồng âm hay không phải đồng âm, không yêu cầu các em giải thích gì và sẽ có hai phương án trả lời: đồng âm/không đồng âm. Đến đây giáo viên gợi mở để biết từ “đi” trong các câu văn trên có phải là quan hệ đồng âm hay không, các em về nhà suy nghĩ tìm hiểu SGK các tiết luyện từ và câu sau các em sẽ được giúp tìm câu giải đáp. Để không mất nhiều thời gian tiết học cho nội dung trên, giáo viên viết sẵn nội dung câu hỏi gợi ý ra bảng phụ và tiến hành sau khi học sinh lấy ví dụ về từ đồng âm để khẳng định lại ghi nhớ. Lúc đó tự các em sẽ có một sự so sánh giữa các ví dụ về từ đồng âm với ví dụ trên đây, đồng thời giáo viên kích thích đươc tư duy của học sinh. Trước khi kết thúc tiết học, giáo viên cũng không quên nhắc học sinh về nhà tiếp tục suy nghĩ trả lời, giải thích về hiện tượng từ “đi” trong các câu văn đã cho. Trong bài dạy “từ nhiều nghĩa” giáo viên có thể lấy thêm một số trường hợp về từ nhiều nghĩa, sau đó quay lại lấy một ví dụ về từ đồng âm cho học sinh nhận định về các từ trong ví dụ. VD: từ “chỉ” trong các trường hợp sau là từ đồng âm hay nhiều nghĩa? Vì sao? Cái kim sợi chỉ – chiếu chỉ – chỉ đường – một chỉ vàng. Ở câu hỏi này, giáo viên yêu cầu học sinh giải thích lí do lựa chọn để khẳng định kiến thức và khả năng nhận diện, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại từ “chỉ” trong các trường hợp trên có quan hệ đồng âm, vì nghĩa của từ “chỉ” trong mỗi trường hợp khác nhau, không có quan hệ với nhau. Nội dung trên giáo viên cũng tiến hành trong khoảng 2-3 phút, dành thời gian cho các em làm bài tập phần luyện tập. Cuối tiết học giáo viên nhấn mạnh: các em cần lưu ý phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, tránh nhầm lẫn đáng tiếc giữa hai hiện tượng này. 5.2; Dựa vào yếu tố từ loại để giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Biện pháp này thực ra ít khi tôi vận dụng, bởi nếu học sinh đã hiểu đúng nghĩa của từ, thuộc được ghi nhớ thì không cần thiết phải dùng đến cách dựa vào yếu tố từ loại. Tuy nhiên, đối với một số học sinh trung bình và yếu thì giáo viên có thể kết hợp cả 3 biện pháp. Trong thực tế hàng ngày, học sinh có thể bắt gặp hiện tượng một từ nào đó phát Trang 14 âm gần nhau nhưng xét về từ loại khác nhau thì kết luận đó là hiện tượng đồng âm. Chẳng hạn khi chơi đùa học sinh hò reo đồng thanh để cổ vũ cho một học sinh được mệnh danh là “cụ cố” vì em này nhỏ, yếu: “cố lên cụ cố….ơi !”. “Cố” thứ nhất là tính từ, “cố” thứ 2 là danh từ. Đây là hiện tượng đồng âm dễ nhận diện. Tùy trường hợp những từ phát âm giống nhau nhưng cùng từ loại (cùng loại danh từ, động từ, tính từ) thì phải vận dụng biện pháp giải nghĩa từ trong văn cảnh, đồng thời xét xem các từ đó có mối quan hệ về nghĩa hay không để tránh nhầm lẫn những từ đồng âm với từ nhiều nghĩa hoặc quan hệ đồng nghĩa nếu có. Trong trường hợp này, thông thường ta dựa vào ngữ cảnh để nhận biết nghĩa của từ đồng âm, nói cách khác là dựa vào các tiếng đi với nó trong câu. Ngữ cảnh có tác dụng hiện thực hóa nghĩa của từ và giúp con người sử dụng ngôn ngữ tránh sự nhầm lẫn. VD: - đồng tiền – cánh đồng - vạc dầu – con vạc - con cò – cò súng - xe đạp – con xe (quân cờ) Xét câu văn sau: “Hôm nay tôi đánh rơi mười nghìn đồng ngay đoạn cánh đồng làng”. Các từ trong câu có mối quan hệ với từ ‘đồng’ thứ nhất gồm “đánh rơi” “mười nghìn”, nếu chỉ dừng lại ở đánh rơi 10 nghìn thì người đọc chưa rõ mười nghìn tiền Việt Nam hay tiền nước nào và chưa xác định rõ giá trị số tiền đánh rơi. Có từ “đồng” ngay sau cụm từ “đánh rơi mườn nghìn đồng” thì ta hiểu rõ số tiền đánh rơi ở đây là tiền Việt Nam và xác định được giá trị của nó. Vậy từ “đồng” thứ nhất là đơn vị tiền Việt Nam, từ “đồng” thứ 2 nằm trong mối quan hệ với từ “qua”, “cánh”, “làng”, “đồng” trong “cánh đồng” là khoảng đất rộng bằng phẳng trồng lúa hoặc hoa màu. Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ nhầm lẫn với từ nhiều nghĩa, hầu hết các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại. Trong quá trình dạy học, tôi gặp phần lớn các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại. Từ “đi” trong các trường hợp sau đều là động từ: đi bộ - đi chơi - đi ngủ - đi máy bay. Vì vậy, gặp những từ có cùng vỏ âm thanh giống nhau thì học sinh không được vội vàng phán quyết ngay hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa mà phải suy nghĩ thật kĩ, giải nghĩa chính xác các từ đó trong văn cảnh, tìm ra điểm khác nhau hoàn toàn hay giữa chúng có sự liên hệ với nhau về nghĩa. Trong một số bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi, có một số trường hợp giống nhau về âm thanh nhưng khó phân biệt hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa. VD: Các từ trong mỗi nhóm dưới đây có quan hệ như thế nào? a) Đánh cờ, đánh giặc, đánh trống b) Trong veo, trong vắt, trong xanh c) Thi đậu, xôi đậu, chim đậu trên cành Trang 15 Xét về từ loại thì nhóm (c) các từ “đậu” có quan hệ đồng âm với nhau vì “đậu” “trong thi đậu” là tính từ (đỗ, trúng tuyển) “đậu” trong “xôi đậu” là danh từ (chỉ một loại quả, củ dùng làm lương thực, thức ăn), “đậu” trong “chim đậu trên cành” là động từ “nghỉ tạm dừng lại”. Ở nhóm (a), các từ “đánh” đều là động từ nhưng xét về nghĩa các từ “đánh cờ” (một trò chơi), “đánh giặc” (chiến đấu với kẻ thù bằng nhiều cách) và “đánh trống” (dùng đùi hoặc tay gõ vào mặt trống cho phát ra âm thanh) thì nghĩa của chúng có liên quan đến nhau, đều tác động đến một sự vật khác, làm cho sự vật đó có sự thay đổi, vì vậy các từ “đánh” ở nhóm (a) có quan hệ nhiều nghĩa. Tuy nhiên, các từ “trong” ở nhóm (b) cũng là các từ có cùng từ loại (tính từ). Song chúng lại có quan hệ đồng nghĩa với nhau. Trong quá trình dạy có sự nâng cao nhằm bồi dưỡng học sinh giỏi, để giúp học sinh làm tốt các bài tập như trên, giáo viên yêu cầu các em luôn nắm chắc nghĩa của từ và suy xét kĩ lưỡng nghĩa của các từ đó, không được vội vàng ngộ nhận hoặc mới chỉ hiểu nghĩa mang máng mà đã vội kết luận mối quan hệ giữa các từ. 6.2; Tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Sau các bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, cùng với các bài luyện tập, có thể giúp học sinh rút ra so sánh như sau: Điểm khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa: Từ đồng âm Từ nhiều nghĩa - Là hai hoặc nhiều từ có cùng hình - Là một từ nhưng có nhiều nghĩa: thức ngữ âm: (hòn) đá và đá (bóng) (hòn) đá và (nước) đá. - Các nghĩa hoàn toàn khác biệt nhau - Các nghĩa có mối liên quan với không có bất cứ mối liên hệ gì: nhau. Ví dụ: (hòn) đá chỉ chất rắn có sẵn trong tự nhiên, thường thành tảng, hòn rất - Ví dụ: hòn (đá) chỉ chất rắn có trong cứng. Còn đá (bóng) chỉ hành động tự nhiên, thường thành tảng, khối vật dùng chân hất mạnh vào vật (quả bóng) cứng. Còn (nước) đá chỉ nước đông nhằm đưa ra xa hoặc làm tổn thương. cứng lại thành tảng giống như đá. - Không giải thích được bằng cơ chế - Do cơ chế chuyển nghĩa tạo thành. chuyển nghĩa. 7.2; Nghiên cứu, tập hợp các bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ * Đối với từ đồng âm: phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau: Cánh đồng1 – tượng đồng2 – một nghìn đồng3. Bài tập này, giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ “đồng” ở mỗi trường hợp: “đồng”1 chỉ khoảng đất rộng, bằng phẳng, dùng để cấy, trồng trọt. “Đồng” 2 là kim loại có nghĩa của các từ “đồng” khác nhau, chúng là những từ đồng âm. * Đối với từ nhiều nghĩa: Trong những câu sau, câu nào có từ “chân” mang nghĩa gốc và câu nào có từ “chân” mang nghĩa chuyển? Chân: a. Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. Trang 16 b. Ông bị đau chân. c. Hồng Sơn là chân sút nổi tiếng của một thời. Đối với bài tập trên giáo viên yêu cầu học sinh nêu được nghĩa của từ “chân” trong mỗi câu và xác định nghĩa chuyển, nghĩa gốc “chân” trong câu a chỉ một bộ phận làm trụ đỡ của cái kiềng – nghĩa chuyển, “chân” trong câu b một bộ phận của cơ thể đỡ và di chuyển cơ thể – nghĩa gốc, chân trong câu c chỉ vị trí, mức độ tài năng của một cầu thủ bóng đá. Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm hoặc nhiều nghĩa * Đối với từ đồng âm Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm: bàn, cờ, nước, chân, đường... Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh với mỗi từ các em cần đặt ít nhất là hai câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau. VD: Bàn: - Bố mua cho em một cái bàn mới. - Tối thứ bảy, bố mẹ lại bàn về chuyện học tập của chúng em. * Đối với từ nhiều nghĩa VD. Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “đứng” Đứng: Nghĩa 1: ở tư thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền. Nghĩa 2: Ngừng chuyển động. Giáo viên có thể gợi ý, nghĩa 1 nói tới một tư thế của người hoặc động vật. Nghĩa 2 nói tới trạng thái của một đồ vật hiện tượng, dựa vào gợi ý đó học sinh có thể đặt câu. Nghĩa 1: Trong lúc chào cờ, chúng em đứng nghiêm trang. Nghĩa 2: Kim đồng hồ đứng hẳn lại Dạng 3: Phân biệt quan hệ đồng âm, quan hệ nhiều nghĩa VD: Trong các từ in đậm dưới đây, những từ nào có quan hệ đồng âm, những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau? Vàng: - Giá vàng nước ta tăng đột biến - Tấm lòng vàng - Ông tôi mua một bộ vàng lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải sản Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của các từ “vàng” rồi xác định mối quan hệ giữa chúng dựa vào các căn cứ phân biệt. Giúp học sinh đưa ra đáp án: từ “vàng” ở câu 1,2 có quan hệ nhiều nghĩa, từ “vàng” ở câu 3 có quan hệ đồng âm với từ “vàng” ở câu 1 và 2. Dạng 4: Nối từ hoặc cụm từ với nghĩa đã cho * Đối với từ đồng âm: Ví dụ: Nối các cụm từ ở cột A với nghĩa thích hợp của từ “sao” ở cột B A B 1. Sao trên trời có khi tỏ khi mờ a. Chép lại hoặc tạo ra văn bản khác theo đúng 2. Sao lá đơn này thành ba bản bản chính 3. Sao tẩm chè b. Tẩm một chất nào đó rồi sấy khô 4. Sao ngồi lâu thế? c. Nêu thắc mắc không biết rõ nguyên nhân 5. Đồng lúa mượt mà làm sao! d. Nhấn mạnh mức độ làm ngạc nhiên, thán phục e. Các thiên thể trong vũ trụ Đáp án: 1-e, 2-a, 3-b, 4-c, 5-d Trang 17 * Đối với từ nhiều nghĩa: Ví dụ: Tìm ở cột B lời giải nghĩa thích hợp cho từ “chạy” trong mỗi câu ở cột A A B 1. Bé chạy lon ton trên sân a. Hoạt động của máy móc 2. Tàu chạy băng băng trên đường ray b. Khẩn trương tránh những điều 3. Đồng hồ chạy đúng giờ không may sắp xảy đến 4. Dân làng khẩn trương chạy lũ c. Sự di chuyển nhanh của phương tiện giao thông d. Sự di chuyển nhanh bằng chân Đáp án: 1-d, 2-c, 3-a, 4-b Đối với những bài tập trên, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận để nối những cụm từ hoặc câu với nghĩa thích hợp ở những trường hợp dễ nhận thấy trước. Trường hợp khó còn lại nếu học sinh chưa hiểu nghĩa các em có thể vận dụng cả phương pháp loại trừ. Ở cả từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có mặt cả bốn dạng bài tập trên. Bên cạnh đó, mỗi nội dung lại có một số dạng bài tập riêng. * Đối với từ đồng âm có dạng bài tập đố vui (chơi chữ): Trùng trục như con chó thui Chín mặt, chín mũi, chín đuôi, chín đầu (Là con gì?) Hoặc dạng bài tập chỉ ra từ đồng âm được dùng để chơi chữ trong các câu sau: a. Bác bác trứng, tôi tôi vôi b. Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa. Với bài tập này ngoài việc chỉ ra các từ đồng âm, đối với học sinh khá giỏi, giáo viên nên yêu cầu các em nêu cách hiểu của mình về các câu trên. * Đối với từ nhiều nghĩa có dạng bài tập thay thế từ. VD. Tìm từ có thể thay thế từ “mũi” trong các cụm từ sau: - Mũi thuyền - Mũi súng - Mũi đất - Mũi quân bên trái đang thừa thắng xốc tới - Tiêm ba mũi 8.2; Tích lũy một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong giao tiếp, trong sách báo đọc hàng ngày để có thêm vốn từ trong giảng dạy. * Đối với từ đồng âm: a. bạc: - Cái nhẫn bằng bạc - Đồng bạc trắng hoa xòe - Cờ bạc là bắc thằng bần - Ông Ba tóc đã bạc - Đừng xanh như lá, bạc như vôi - Cái quạt máy này cần phải thay bạc Trang 18 b. đàn - Cây đàn ghi ta - Vừa đàn vừa hát - Lập đàn để tế lễ - Bước lên diễn đàn - Đàn chim tránh rét trở về c. đình - Qua đình ngã nón trông đình Đình bao nhiêu ngói, anh thương mình bấy nhiêu. - Công việc bị đình lại vì không có người làm - Mới uống vài chén rượu anh em nhà nó đã làm nổi đình nổi đám. d. đơn - Lan bị ốm, phải viết đơn xin nghỉ học - Nhà đơn người, chỉ có một mẹ một con - Bé Mai bị đơn không đi học được. e. mai - Nếu miền bắc có hoa đào thì miền nam có hoa mai - Rùa, mực, cua là các con vật có mai - Nay đây mai đó g. lồng - Con ngựa đang đứng bỗng lồng lên - Mua được con chim, mà không có lồng để nhốt. - Máy vừa lồng đất được hai vòng thì hết dầu. Một số trường hợp dùng từ đồng âm để chơi chữ: h. chèo - Ăn no rồi lại nằm khoèo Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem (ca dao) - Kể chi tuổi tác già mua Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng (Mẹ Suốt – Tố Hữu) - Lỗ mộng bị chèo nên không vào được. i. lợi - Bà già ra chợ cầu Đông Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng? Thầy bói gieo quẻ nói rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng không còn. - Làm ăn thời buổi chúng ta Lợi mình thì phải bằng ba lợi người. - Cây đại đao của Quan Vân Trường thật lợi hại. Trong bài thơ “Rắn đầu biếng học” của Lê Quý Đôn cũng sử dụng từ đồng âm để chơi chữ: Trang 19 Chẳng phải liu điu cũng giống nhà Rắn đầu biếng học lẽ không tha Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ Nay thét mai gầm rát cổ cha Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối Lằn lưng cam chịu vệt năm ba Từ nay Trâu Lỗ xin gắng học Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia Câu chuyện vui sau đây cũng sử dụng từ đồng âm để chơi chữ: Xưa, có anh chàng mượn của người hàng xóm một cái vạc đồng. ít lâu sau anh ta trả cho người hàng xóm hai con cò, nói là vạc đã biến mất nên đền hai con cò này. Người hàng xóm bèn đi kiện. Quan gọi hai người đến xử. Người hàng xóm thưa: “Bẩm quan, con cho hắn mượn vạc, hắn không trả”, anh chàng nói: “bẩm quan, con đã đền cho anh ta cò”. - Nhưng vạc của con là vạc thật - Dễ cò của tôi là cò giả đấy phỏng? – Anh chàng trả lời - Bẩm quan, vạc của con là vạc đồng - Dễ cò của tôi là cò nhà đấy phỏng? * Đối với từ nhiều nghĩa: a. chạy - Cầu thủ chạy đón quả bóng - Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại - Tàu chạy trên đường ray - Đồng hồ này chạy chậm - Mưa ào xuống, không kịp chạy lúa vào nhà - Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi - Con đường mới mở chạy qua làng tôi b. lá - Lá bàng đang đỏ ngọn cây (Tố Hữu) - Lá khoai anh ngỡ lá sen (ca dao) - Lá cờ thêu sáu chữ vàng căng lên trong gió (Nguyễn Huy Tưởng) - Này là lá thư nghiêng nghiêng nét chữ cô em học trò (bài hát) c. quả - Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao - Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân - Trăng tròn như quả bóng - Quả đất là ngôi nhà chung của chúng ta - Quả hồng như thể quả tim giữa đời d. cứng - Lúa đã cứng cây - Lí lẽ rất cứng - Học lực vào loại cứng - Cứng như thép, vững nho đồng. Trang 20 - Thanh tre cứng quá, không uốn cong được - Quai hàm cứng lại, chân tay tê cứng - Cách giải quyết hơi cứng, thái độ cứng quá e. sườn - Nó hích vào sườn tôi - Con đèo chạy ngang sườn núi - Tôi đi qua phía sườn nhà - Dựa vào sườn của bản báo cáo để trình bày… g. xuân - Mùa xuân là tết trồng cây Làm cho đất nước càng ngày càng xuân (Hồ Chí Minh) - Ngày xuân con én đưa thoi (Nguyễn Du) - Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán So với ông Bành vẫn thiếu niên (Hồ Chí Minh) - Khi người ta đã ngoài 70 xuân thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp. 3. Khả năng ứng dụng của đề tài. Đề tài có thể ứng dụng vào việc dạy cách phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5. Lớp 5 là lớp học cuối cấp ở bậc học tiểu học, ở lớp học này các em đã hình thành ý thức cá nhân, khả năng khái quát hóa phát triển, bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Vì vậy đề tài ứng dụng phù hợp cho việc dạy cách phân biệt hai lớp từ có tính lí thuyết, trừu tượng cho học sinh lớp 5, góp phần phát triển kiến thức cho học sinh, làm tiền đề cho các em bước ra cuộc đời và học lên lớp trên. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho phụ huynh học sinh trong quá trình kèm cặp con em học tập. Rèn luyện kĩ năng tư duy và khái quát hóa kiến thức, làm phong phú thêm vốn từ, góp phần giúp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Đây là mục đích cao nhất của quá trình dạy học nói chung và dạy học Tiếng Việt nói riêng; trang bị kiến thức vững chắc góp phần xây dựng nhân cách cho học sinh. Từ học tập, rèn luyện trong nhà trường để trang bị kiến thức và kĩ năng sống trong cuộc đời cho học sinh. Đây cũng là dụng ý mà đề tài muốn hướng tới. *** C. KẾT LUẬN 1. Kết quả ứng dụng. Sau khi nghiên cứu và đưa đề tài vào vận dụng để dạy học phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, tôi nhận thấy lớp học có nhiều biến chuyển, cụ thể là: học sinh sử dụng từ ngữ tương đối chính xác; trình bày về một vấn đề trôi chảy hơn; các em có ý thức giữ gìn ngôn ngữ trong sáng... điều đó chứng tỏ các em đã có vốn ngôn ngữ và biết cách sử dụng nó một cách linh hoạt. Trang 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất