Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng triển khai tài chính vi mô tại Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhìn từ ...

Tài liệu Thực trạng triển khai tài chính vi mô tại Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhìn từ mô hình tài chính vi mô thành công nhất của Hội

.DOC
70
402
72

Mô tả:

Chuyên đề tốt nghiệp 1 Học viện Ngân hàng LỜI MỞ ĐẦU 1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Để hoàn thành mục tiêu thiên niên kỉ về xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói, trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam cùng với chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đã đặc biệt quan tâm vấn đề đảm bảo an sinh xã hội mà trong đó có công cuộc xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng về giảm nghèo và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân thông qua việc thực hiện đồng loạt các chương trình trọng điểm, duy trì mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo như Chương trình phát triển kinh tế xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2006 - 2010, Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh, bền vững đối với 62 huyện nghèo… Với những nỗ lực và rất nhiều các chính sách hướng đến người dân như an sinh xã hội, đầu tư cho “tam nông”… của Đảng và Nhà nước, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 28.9% năm 2002 xuống còn 14% năm 2011, dự kiến năm 2012 sẽ giảm còn 12% và sẵn sàng cho việc đạt được các mục tiêu thiên niên kỷ vào năm 2015. Đóng góp chung vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, trong những năm qua, lĩnh vực tài chính vi mô đã cung cấp các dịch vụ tài chính cho nhiều người nghèo. Trong số các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô tại Việt Nam tiêu biểu có Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (Hội). Hội là một tổ chức chính trị-xã hội đại diện cho phụ nữ trên khắp các vùng, miền Việt Nam. Hội luôn chú trọng công tác xóa đói, giảm nghèo nhằm giúp phụ nữ cả nước xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tiến bộ. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã lựa chọn tài chính vi mô như một công cụ chính, công cụ hữu hiệu và luôn thể hiện vai trò tiên phong trong việc ứng dụng và đổi mới tài chính vi mô tại Việt Nam. Và thành công nhất của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong lĩnh vực tài chính vi mô đó là Hội đã trở thành đơn vị đầu tiên được nhận giấy phép thành lập và hoạt động tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai các hoạt động tài chính vi mô, Hội cũng gặp phải những khó khăn không nhỏ. Vì vậy, việc phân tích thực trạng hoạt động tài chính vi mô của Hội và đề ra các giải pháp sẽ không chỉ hữu ích cho việc đánh giá và định hướng hoạt động tài chính vi mô của Hội mà còn đem lại những bài học thiết thực cho các tổ chức tài chính vi mô khác tại Việt Nam. Vì lý do trên, em đã chọn đề tài chuyên đề “Thực trạng triển khai tài chính vi mô tại Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhìn từ mô hình tài chính vi mô thành công nhất của Hội”. 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 1.3. 2 Học viện Ngân hàng Hệ thống hóa lý luận chung về tài chính vi mô. Phân tích thực trạng hoạt động tài chính vi mô của Hội Đề xuất các giải pháp thúc đẩy hoạt động tài chính vi mô của Hội. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1.4. Chuyên đề tập trung vào các hoạt động tài chính vi mô của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là một mô hình thành công nhất của Hội Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt động tài chính vi mô của Hội PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để đạt mục đích nghiên cứu, chuyên đề sử dụng đồng bộ hệ thống phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp biện chứng và logic trong khái quát tổng quan và luận giải vấn đề, sử dụng kết hợp hệ thống các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp… để làm sáng tỏ thực tiễn. Đồng thời sử dụng hệ thống bảng biểu, sơ đồ minh họa để làm tăng tính trực quan và thuyết phục trong quá trình nghiên cứu. 1.5. KẾT CẤU CHUYÊN ĐỀ Chuyên đề gồm 3 chương sau: Chương 1: Lý luận chung về tài chính vi mô Chương 2: Thực trạng triển khai tài chính vi mô tại Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy tài chính vi mô tại Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Em xin chân thành cám ơn ban lãnh đạo TYM cùng các anh chị cán bộ văn phòng TYM đã tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ em hoàn thành chương trình thực tập và chuyên đề tốt nghiệp này. Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 3 Học viện Ngân hàng CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI CHÍNH VI MÔ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ 1.1.1. KHÁI NIỆM TÀI CHÍNH VI MÔ Tài chính vi mô thông thường được hiểu là việc cấp cho các hộ gia đình rất nghèo các khoản vay rất nhỏ (gọi là tín dụng vi mô), nhằm mục đích giúp họ tham gia vào các hoạt động sản xuất, hoặc khởi tạo các hoạt động kinh doanh nhỏ. Tài chính vi mô thường kéo theo hàng loạt các dịch vụ khác như tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm, ... vì những người nghèo và rất nghèo có nhu cầu rất lớn đối với các sản phẩm tài chính, nhưng không tiếp cận được các thể chế tài chính chính thức. Theo quan điểm của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), “Tài chính vi mô là việc cung cấp một phạm vi rộng các dịch vụ như tiền gửi, các tài khoản tiết kiệm, thanh toán, bảo hiểm, chuyển tiền cho người nghèo hoặc các hộ gia đình có thu nhập thấp, những hoạt động kinh doanh cá thể hoặc các doanh nghiệp rất nhỏ”. Theo Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Tín dụng vi mô tại Washington tháng 2 năm 1997: “Tín dụng vi mô là việc cung cấp các khoản vay quy mô nhỏ đến đối tượng người nghèo, với mục đích giúp những người thụ hưởng thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh để tạo lợi nhuận từ đó nâng cao chất lượng đời sống cho cả người vay vốn và gia đình của họ”. Theo quan điểm của Nhóm tư vấn hỗ trợ những người nghèo nhất (CGAP): "Tài chính vi mô là hoạt động cung cấp tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm vi mô, chuyển tiền và các dịch vụ phi tài chính khác cho nhóm người có thu nhập thấp bởi một cơ chế thích hợp, giúp họ có thể tiến hành sản xuất, phát triển nghề nghiệp tăng thêm thu nhập cải thiện chất lượng cuộc sống". Có thể hiểu dịch vụ tài chính bao gồm các hoạt động huy động tiền gửi, cho vay, hoạt động thanh toán, chuyển tiền, bảo hiểm (nhân thọ và phi nhân thọ), còn những dịch vụ khác có thể bao gồm như đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, hướng dẫn phương pháp sản xuất. Đối tượng có thu nhập thấp bao gồm không chỉ những người nghèo (nghèo tương đối và tuyệt đối) mà còn các doanh nghiệp nhỏ, những cơ sở sản xuất thủ công, những hộ gia đình, ...Những đối tượng này có những nhu cầu rất khác nhau: những người nghèo có nhu cầu tiêu dùng hàng ngày cho cuộc sống như học hành, khám chữa bệnh, phát triển sản xuất. Trong khi đó, các đơn vị sản xuất có nhu cầu mua sắm thêm phương tiện sản xuất, mở rộng địa điểm kinh doanh, nguyên liệu, ... 1.1.2. CƠ SỞ KINH TẾ HỌC CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 4 Học viện Ngân hàng Người ta cho rằng giá trị hoàn trả biên của những khoản vay nhỏ có hình dạng đường cong hữu dụng biên. Người nghèo có khả năng kinh doanh sinh lợi đạt được lợi nhuận trên mỗi đơn vị vốn lớn hơn người khá giả và sẵn sàng trả lãi vay cao hơn cho những khoản tín dụng từ ngân hàng. Khi được trợ giá về vốn, chi phí đầu vào giảm, giá rẻ hơn, người sản xuất sẽ mở rộng được quy mô. Mô hình dưới đây minh họa phần lợi ích tài chính vi mô đóng góp cho an sinh xã hội thông qua việc cho người nghèo vay tín dụng mở rộng sản xuất. Thặng dư người sản xuất tăng (a+b). Chí phí trợ giá cho người sản xuất (b+c+d). An sinh xã hội bằng -c. Nguồn lực sử dụng thêm (b+c+d). Tiết kiệm ngoại tệ để nhập khẩu (b+d). Hình 1: Đường giá trị hoàn trả biên Hình 2: Lợi ích của tài chính vi mô giữa người nghèo và người giàu hơn cho an sinh xã hội (Nguồn: Milford Bateman Microfinance work?) (2010), Why doesn’t (Nguồn: Milford Bateman Microfinance work?) (2010), Why doesn’t Tiếp theo đây là mô hình minh họa Hình 3: Lợi ích của tài chính vi mô cho tác động tích cực của tài chính vi mô vào sản xuất Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 5 sản xuất tiêu dùng được hưởng tín dụng ưu đãi nghĩa là người sản xuất đã được trợ giá đầu vào. Sản xuất tăng từ Q1 đến Q2. Thặng dư người sản xuất thay đổi từ (a+b) sang (b+c+f+g). Nếu a>(c+f+g) thì người sản xuất không được lợi và ngược lại. Thặng dư người tiêu dùng tăng thêm (a+d+e). Người ta ngày càng tin tưởng rằng tài chính vi mô trên cơ sở lý thuyết kinh tế đã và đang tạo động lực kích thích cho quá trình tạo ra lợi nhuận trong nhân dân. Cùng với tiết kiệm, tài chính vi mô đã thúc đẩy tăng trưởng sản xuất, khuyến khích tiêu dùng và mở rộng tích lũy đầu tư. Học viện Ngân hàng (Nguồn: Milford Bateman Mrofinance work?) (2010), Why doesn’t 1.1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ a. Khách hàng của tài chính vi mô là những người thu nhập thấp. Người nghèo, người thu nhập thấp được hiểu bao gồm những người nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối là những người có mức thu nhập không đủ để thoả mãn những nhu cầu cơ bản ở một mức độ tối thiểu, mức thu nhập đó hiện nay được xác định là 1.25 USD/ngày (Ngân hàng Thế giới) cho mỗi người. Nghèo đói tương đối là những người có điều kiện sống thấp hơn mức bĩnh quân chung của cộng đồng. Nghèo đói tương đối là kết quả của tình trạng chênh lệch thu nhập và điều kiện sống của dân cư trong các khu vực khác nhau, như nông thôn, thành thi hay giữa công nghiệp và nông nghiệp. Cùng với sự phát triển kinh tế, tình trạng đói nghèo tuyệt đối sẽ ngày càng giảm nhưng nghèo đói tương đối sẽ còn tồn tại lâu dài. Khách hàng của tài chính vi mô là những người nghèo nên không thể vay vốn từ các tổ chức tài chính trong khu vực chính thức. Là các đơn vị, cơ sở kinh doanh nhỏ lẻ dựa vào tiềm lực kinh tế gia đình là chủ yếu, họ tham gia vào những công việc dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp truyền thống hoặc ở thành thị họ là những người bán hàng trên hè phố, những thợ cắt tóc, đạp xích lô hay bán hoa quả dạo. Tài sản của những khách hàng như vậy thường không đáng kể. Do đó, họ không có khả năng thế chấp để vay vốn, nguồn thu nhập không ổn định và thấp càng làm cơ hội tiếp cận tài chính chính thức trở nên khó khăn. Ngoài ra, cũng phải kể đến những sản phẩm, dịch vụ được cung cấp với giá cả đắt đỏ và càng không phù hợp với những người nghèo. b. Cơ chế cho vay: tín chấp, bảo lãnh nhóm Để tài chính vi mô đến được với các đối tượng nghèo, một trong những mô Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 6 Học viện Ngân hàng hình phổ biến nhất hiện nay trên thế giới là cho vay theo nhóm và thay thế vật thế chấp bằng bảo lãnh nhóm. Theo cách thức này, vốn từ các nhà cung cấp có thể được phân bổ cho các nhóm khác hàng, rồi từ đó đến các thành viên; hoặc vốn có thể được cung cấp trực tiếp từ nhà cung cấp đến khách hàng, nhưng nhóm vẫn là một đơn vị thống nhất, có người đại diện đứng ra bảo lãnh cho tất cả cá món vay cũng như thanh toán các chi phí. Đối với khách hàng, việc tạo nhóm sẽ góp phần tiết kiệm chi phí cho mỗi thành viên trong nhóm, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ, tăng khả năng quản lý vốn vay, sử dụng hiệu quả và đúng cách các món vay đó để tăng thu nhập. Đối với nhà cung cấp, đó cũng là biện pháp để dễ dàng để thu thập hay truyền đạt thông tin, đồng thời giảm thiểu rủi ro khách hàng không hoàn trả vốn. Từ những lợi ích đó, hình thức cho vay theo nhóm vẫn được coi là hình thức cho vay phổ biến nhất củ tài chính vi mô. c. Lãi suất hiệu dụng cho vay vi mô cao Tài chính vi mô bao gồm nhiều sản phẩm, dịch vụ khác nhau như tín dụng, thanh toán, bảo hiểm…hướng đến đối tượng là người nghèo, những người có nhu cầu sản xuất, kinh doanh có quy mô nhỏ. Vì vậy, các khoản vay phù hợp với họ cũng có quy mô nhỏ. Tuy nhiên, chi phí cho các khoản vay này thường cao so với các khoản vay lớn. Hãy làm một phép so sánh giữa khoản vay 10000 USD và khoản vay 50-100 USD. Cả hai đều phải mất chi phí nhân công, thời gian, thủ tục, quy trình nhưng khoản vay nhỏ phải chịu tỷ lệ chi phí lớn hơn. Do vậy, lãi suất của các dịch vụ tài chính vi mô thường lớn hơn lãi suất của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính chính thức. Để giảm bớt mức lãi suất mà khách hàng tài chính vi mô phải chi trả, các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô bán chính thức hay chính thức thường tìm kiếm các nguồn vốn bao cấp, tài trợ hay vốn giá rẻ, nhưng những nguồn này cũng chỉ có hạn và đến một thời điểm nhất định. Vì thế, để hoạt động bền vững, các tổ chức cung ứng tài chính vi mô một mặt giữ lãi suất cao, mặt khác cắt giảm tối đa các chi phí khác (thủ tục, thời gian, nhân sự, vận hành,…) và tiết giảm các chi phí thông qua các dịch vụ, sản phẩm đa dạng. Câu hỏi đặt ra là tại sao với chi phí cao như vậy, tài chính vi mô vẫn tồn tại và phát triển. Thứ nhất, tài chính vi mô cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho người nghèo không đòi hỏi tài sản thế chấp. Thứ hai, tài chính vi mô cung cấp những sản phẩm, dịch vụ phù hợp với quy mô nhu cầu của người nghèo, đảm bảo đủ dùng và đủ năng lực chi trả. Thứ ba, tài chính vi mô thường đi kèm với thủ tục đơn giản và dịch vụ thuận tiện. Thay vì phải chuẩn bị những hồ sơ với nhiều giấy tờ, số liệu, khách hàng tài chính vi mô được hướng dẫn trực tiếp cách tiếp cận dịch vụ, được hỗ trợ làm thủ tục và cấp miễn phí các loại hồ sơ, mẫu biểu cần thiết. Thứ tư, tài chính vi mô thường lồng ghép các chương trình xã hội, đem lại cơ hội học hỏi, kinh doanh cho người Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 7 Học viện Ngân hàng nghèo. Từ những lý do đó, tài chính vi mô vẫn tồn tại và phát triển bất chấp chi phí cao hơn thông thường. d. Các khoản vốn vay thường quay vòng nhanh, mức tăng dần qua các đợt Mục tiêu của tài chính vi mô là hỗ trợ người nghèo tự tạo việc làm tăng thu nhập nên các khoản vốn thường được cung cấp để sử dụng vào mục đích kinh doanh, sản xuất. Với các khoản vay nhỏ, quy mô kinh doanh sản xuất nhỏ, người nghèo thường sử dụng vốn vào các dự án kinh doanh, sản xuất ngắn hạn, mang tính thời vụ từ 6 tháng đến 1-2 năm. Chẳng hạn, người dân nông thôn vay vốn để trồng hoa màu, nuôi bò, lợn, gà. Trong khi đó, người dân thành thị có thể đầu tư vào các sạp hàng nhỏ hay các dịch vụ hàng ngày. Tuy các khoản vốn vay tài chính vi mô quay vòng nhanh, người dân nghèo, thu nhập thấp lại được tiếp cận liên tục, đợt này qua đợt khác, năm nay qua năm khác. Mức vay của tài chính vi mô cũng được thiết kế tăng dần qua từng đợt, nhằm giúp người nghèo trải nghiệm từ việc làm quen với việc sử dụng vốn vay nhỏ để tích luỹ kinh nghiệm và sử dụng các khoản vay lớn hơn một cách hiệu quả. Chính nhờ yếu tố này, tài chính vi mô có khả năng giảm rủi ro trong quá trình hoàn trả. e. Các khoản đóng góp (tiết kiệm, bảo hiểm) nhỏ, thực hiện định kỳ Do đối tượng của tài chính vi mô là người nghèo nên việc sử dụng dịch vụ như tiết kiệm, bảo hiểm đã là một điều khó khăn. Tuy nhiên, các sản phẩm này vẫn được triển khai xuất phát từ thực tế người nghèo cũng rất cần các dịch vụ này, thậm chí cần hơn cả các đối tượng khác do họ không có nguồn tiền mặt sẵn có. Vậy làm thế nào để người nghèo có thể sử dụng các dịch vụ này? Một khoản lớn đóng một lần sẽ là điều khó khăn đối với họ. Chính vì vậy, tài chính vi mô cho phép khách hàng gửi tiết kiệm hay trả phí bảo hiểm với các khoản tiền nhỏ đóng định kỳ theo tuần/tháng. Chính cơ chế linh hoạt này giúp người nghèo có khả năng tích cóp, tận dụng những khoản tiền rất nhỏ trong cuộc sống hàng ngày để hưởng lợi từ những dịch vụ có lợi ích thiết thực đối với gia đình họ. f. Tài chính vi mô là hoạt động sinh lời Tài chính vi mô có mục đích là phục vụ người nghèo, nhưng không mang tính chất như trợ cấp xã hội. Thực tế, người nghèo không thể thoát nghèo nhờ một, hai khoản vốn. Họ nghèo do thiếu nguồn vốn, thiếu công cụ và kiến thức để thực hiện các hoạt động tăng thu nhập. Do đó, tài chính vi mô xuất hiện để cung cấp hỗ trợ từng bước và lâu dài, giúp người nghèo thoát nghèo bền vững. Để làm được như vậy, nguồn vốn mà tổ chức tài chính vi mô phát ra cần được thu về đầy đủ gốc lãi. Có như vậy, các tổ chức tài chính vi mô mới có nguồn và động lực để hoạt động lâu dài. 1.1.4. NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ Qua quá trình nghiên cứu tài chính vi mô trên thế giới, CGAP đã đúc kết một số Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 8 Học viện Ngân hàng nguyên lý cơ bản về tài chính vi mô. Những nguyên lý này đã được ghi nhận bởi 28 thành viên của CGAP là các nhà tài trợ, và được ghi nhận trong hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo G8 ngày 10 tháng 6 năm 2004. a. Người nghèo cần một dịch vụ tài chính đa dạng chứ không chỉ là vốn. Giống như những người khác, người nghèo cần một loạt các dịch vụ tài chính thuận tiện, linh hoạt và có giá cả hợp lý. Tùy thuộc vào hoàn cảnh từng gia đình, người nghèo không chỉ cần tín dụng mà còn cần dịch vụ tiết kiệm, chuyển tiền và bảo hiểm. b. Tài chính vi mô là công cụ có tác động mạnh trong việc chống lại đói nghèo. Việc tiếp cận được các dịch vụ tài chính bền vững cho phép người nghèo tăng thu nhập, tích lũy tài sản và giảm nguy cơ tổn thương trước những cú sốc từ bên ngoài. Tài chính vi mô cho phép các hộ gia đình nghèo chuyển từ tình trạng sống sót qua ngày sang khả năng lập kế hoạch cho tương lai, đầu tư vào dinh dưỡng, điều kiện sống, và sức khỏe cũng như việc giáo dục của con cái. c. Hoạt động tài chính vi mô có nghĩa là xây dựng một hệ thống tài chính phục vụ người nghèo. Người nghèo chiếm phần lớn dân số ở hầu hết các nước đang phát triển. Vậy mà, một số lượng lớn người nghèo tiếp tục thiếu tiếp cận đối với các dịch vụ tài chính cơ bản. Ở nhiều nước, tài chính vi mô tiếp tục bị coi là một ngành ngoài lề và cơ bản chỉ là vấn đề mang tính "phát triển" của các nhà tài trợ, chính phủ và các nhà đầu tư có trách nhiệm xã hội. Để đạt được tiềm năng tối đa trong việc tiếp cận đông đảo người nghèo, tài chính vi mô nên trở thành một phần không thể thiếu trong ngành tài chính. d. Bền vững tài chính là yếu tố cần thiết để tiếp cận với số đông người nghèo. Phần lớn người nghèo không có khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính truyền thống bởi vì thiếu các trung gian tài chính bán lẻ hoạt động lớn mạnh. Xây dựng các tổ chức bền vững về tài chính không phải là cái đích cuối cùng. Đó là cách duy nhất để đạt được một quy mô và tác động đáng kể, vượt xa những gì mà các đơn vị tài trợ có thể cấp vốn. Bền vững là khả năng trang trải mọi chi phí của một tổ chức tài chính vi mô. Nó cho phép tổ chức tài chính vi mô tiếp tục hoạt động và cung cấp các dịch vụ tài chính cho người nghèo. Đạt được bền vững tài chính nghĩa là giảm được các chi phí giao dịch, cung ứng các sản phẩm và dịch vụ tốt hơn, đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tìm được những hướng đi mới để tiếp cận những người nghèo, những người không thể sử dụng dịch vụ ngân hàng. e. Tài chính vi mô là xây dựng các tổ chức tài chính hoạt động lâu dài tại địa phương. Xây dựng hệ thống tài chính cho ngươì nghèo có nghĩa là xây dựng các trung Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 9 Học viện Ngân hàng gian tài chính đủ mạnh để có thể cung cấp dịch vụ tài chính cho người nghèo trên cơ sở lâu dài. Những tổ chức này phải có khả năng huy động và quay vòng tiết kiệm nội bộ, giải ngân tín dụng và cung ứng một loạt các dịch vụ. Sự phụ thuộc vào nguồn tài trợ từ các nhà tài trợ và chính phủ - bao gồm các ngân hàng phát triển do nhà nước cấp vốn - sẽ dần dần giảm bớt khi các tổ chức tài chính địa phương và các thị trường vốn tư nhân đến độ trưởng thành. f. Tài chính vi mô không phải lúc nào cũng là câu trả lời. Tín dụng vi mô không thích hợp với mọi người và mọi tình huống. Những người túng thiếu và đói nghèo đến mức không có thu nhập hoặc phương tiện hoàn trả lại cần những hình thức hỗ trợ khác trước khi họ có thể sử dụng vốn vay. Trong nhiều trường hợp, các khoản tài trợ nhỏ, những biện pháp cải thiện cơ sở hạ tầng, việc làm, các chương trình đào tạo và các dịch vụ phi tài chính khác có thể là công cụ thích hợp hơn đối với mục tiêu giảm nghèo. Ở bất cứ nơi nào có thể, dịch vụ phi tài chính như vậy nên đi liền với việc xây dựng quỹ tiết kiệm. g. Trần lãi suất có thể hủy hoại cơ may tiếp cận dịch vụ tài chính của người nghèo. Giải ngân các món vốn nhỏ sẽ mất nhiều chi phí hơn việc giải ngân vài khoản vốn lớn. Trừ khi các tổ chức cho vay vi mô có thể áp dụng các mức lãi suất trên mức lãi suất trung bình của ngân hàng, họ không thể trang trải các chi phí, và khả năng tăng trưởng cũng như bền vững sẽ bị hạn chế do nguồn vốn trợ cấp khan hiếm và không ổn định. Khi chính phủ điều tiết lãi suất, họ thường ấn định mức lãi suất quá thấp, khiến các tổ chức tín dụng vi mô khó có khả năng bền vững. Đồng thời, các tổ chức cho vay vi mô cũng không nên chuyển các chi phí phát sinh do hoạt động kém hiệu quả sang khách hàng dưới hình thức giá thành dịch vụ (lãi suất và các loại phí khác), những mức giá cao quá mức cần thiết. h. Vai trò của Chính phủ là hỗ trợ, không phải trực tiếp cung cấp các dịch vụ tài chính. Chính phủ quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập một môi trường chính sách mang tính hỗ trợ nhằm kích thích sự phát triển của các dịch vụ tài chính, đồng thời bảo vệ quỹ tiết kiệm của người nghèo. Điều cốt yếu mà một chính phủ có thể làm cho tài chính vi mô là giữ cho kinh tế vĩ mô ổn định, tránh trần lãi suất, và tránh bóp méo thị trường bằng những chương trình phát vốn trợ cấp không ổn định và có tỷ lệ chậm trả cao. Chính phủ cũng có thể trợ giúp dịch vụ tài chính cho người nghèo bằng cách cải thiện môi trường kinh doanh cho các nhà doanh nghiệp, loại bỏ tham nhũng, cải thiện điều kiện tiếp cận với thị trường và cơ sở hạ tầng. Trong tình huống đặc biệt, nguồn tài trợ của chính phủ cho các tổ chức tài chính vi mô độc lập và lành mạnh có thể được đảm bảo khi ngành Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 10 Học viện Ngân hàng tài chính vi mô đang thiếu các nguồn vốn khác. i. Nguồn của các nhà tài trợ là để bổ sung, không phải để cạnh tranh với nguồn vốn của khu vực tư nhân. Các nhà tài trợ phải dùng các công cụ tài trợ, vốn và vốn cổ phần phù hợp trên cơ sở tạm thời để xây dựng năng lực thể chế của các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô, để phát triển cơ sở hạ tầng thuận lợi (như các đơn vị đánh giá xếp hạng, các vụ tín dụng, năng lực kiểm toán, v.v) và hỗ trợ các dịch vụ và sản phẩm thí điểm. Trong một số trường hợp, các nguồn tài trợ lâu dài đòi hỏi phải tiếp cận bộ phận dân cư sinh sống rải rác hoặc khó tiếp cận. Để có hiệu quả, nguồn tài trợ phải lồng ghép dịch vụ tài chính cho người nghèo vào các thị trường tài chính địa phương, ứng dụng kiến thức chuyên môn để thiết kế và thực hiện dự án, đòi hỏi các tổ chức tài chính và các đối tác khác đáp ứng các tiêu chuẩn kết quả tối thiểu để được tiếp tục hỗ trợ và lập kế hoạch từ đầu cho việc rút khỏi hoạt động của các thị trường này. Thiếu năng lực thể chế và con người với các mục tiêu xã hội, năng lực phải được xây dựng ở tất cả các cấp, từ tổ chức tài chính qua các cơ quan điều chỉnh, giám sát đến các thực thể phát triển của chính phủ và các đơn vị tài trợ. Đa số các nhà đầu tư vào ngành này, gồm cả nhà đầu tư công và tư nhân, nên tập trung vào việc nâng cao năng lực. j. Tầm quan trọng của sự minh bạch về tài chính và phạm vi tiếp cận. Thông tin chính xác, chuẩn hóa và có thể đem ra so sánh về kết quả hoạt động tài chính và xã hội của các tổ chức tài chính cung ứng dịch vụ tài chính vi mô là vấn đề bắt buộc. Các cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, các nhà tài trợ, nhà đầu tư và quan trọng hơn là các khách hàng tài chính vi mô cần thông tin này để đánh giá đầy đủ về rủi ro và lợi nhuận. 1.2. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ 1.2.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ TRÊN THẾ GIỚI Khái niệm tài chính vi mô đã xuất hiện từ đầu thế kỷ mười tám. "Susus" tại Ghana, "chit funds" tại Ấn Độ, "tandas" tại Mê-hi-cô, "arisan" tại In-đô-nê-xia, "cheetu" tại Sri Lanka, "tontines" tại Tây Phi và "pasanaku" tại Bo-li-via là một số ví dụ của các nhóm tín dụng-tiết kiệm đã hoạt động hàng thế kỷ qua. Khách hàng của những tổ chức này là những người thường thiếu sự quan tâm của các ngân hàng có quy mô lớn hơn. Và những tổ chức này đã xuất hiện để cho những người đó một cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính để nâng cao điều kiện kinh tế cho gia đình họ. Một trong những tổ chức tín dụng vi mô lâu đời nhất cung ứng vốn nhỏ cho người nghèo khu vực nông thôn là hệ thống Quỹ Vốn vay I-ran. Jonathan Swift, một tác giả đồng thời là một người theo chủ nghĩa dân tộc, đã bắt đầu hoạt động tài chính Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 11 Học viện Ngân hàng vi mô từ đầu những năm 1720. Ông sử dụng tiền từ nguồn quyên góp được và giúp người I-ran tiếp cận các khoản vốn vay không lãi suất. Tổ chức này đã chứng kiến sự tăng trưởng nhanh chóng nhờ một luật đặc biệt ra đời năm 1823, cho phép chuyển đổi các quỹ từ thiện thành các trung gian tài chính, từ đó hình thành Ban Quỹ vốn năm 1836. Ban Quỹ vốn điều tiết và giám sát việc tiếp nhận các nguồn và vốn. Vào thời điểm đỉnh cao, hàng năm hệ thống Quỹ vốn I-ran đã phát vốn cho 20% số hộ gia đình I-ran. Đáng tiếc, các ngân hàng thương mại đã sử dụng quyền lực và tầm ảnh hưởng của họ để ngừng các khoản vốn thông qua việc yêu cầu chính phủ ấn định giới hạn lãi suất vào năm 1843. Cuối cùng, các quỹ đã không còn tồn tại từ năm 1950. Hamburg đã thành lập một hệ thống tài chính tương tự do cộng đồng sở hữu vào năm 1778 nhưng đáng tiếc hệ thống này cũng chấm dứt do những can thiệp từ bên ngoài. Giai đoạn 1880-1950, các tổ chức tài chính vi mô bắt đầu lan đến các vùng khác trên thế giới như Mỹ La-tinh và In-đô-nê-xia (Các Ngân hàng Tín dụng Nhân dân Inđô-nê-xia). Các tổ chức mới đa số tập trung vào khu vực nông thôn. Mục tiêu của việc can thiệp tài chính vào các khu vực nông thôn là hiện đại hoá ngành nông nghiệp, tăng thương mại hoá của các khu vực nông thôn cũng như xoá bỏ hệ thống phong kiến áp bức-một hệ thống đã làm tăng tình trạng nợ nần. Một trong những khó khăn chính mà các tổ chức tài chính vi mô nông thôn mới phải đối mặt là thực tế rằng đa số những ngân hàng cho người nghèo không thuộc sở hữu của người nghèo như đã thấy vào thế kỷ 18 và 19 tại châu Âu. Các ngân hàng do các cơ quan chính phủ kiểm soát hoặc các ngân hàng ngoài quốc doanh không phải bao giờ cũng mang lại phúc lợi cho người dân. Qua thời gian, các tổ chức này trở nên kém hiệu quả và có những lúc bị lạm dụng. Các tổ chức này đánh mất sự tin tưởng của người dân và phải đóng cửa. . Vào những năm 1970, các chương trình thực nghiệm tại Băng-la-đét, Bra-xin và một vài quốc gia khác đã phát các món vốn nhỏ cho các nhóm phụ nữ nghèo để đầu tư vào kinh doanh vi mô. Loại hình tín dụng doanh nghiệp vi mô này được dựa trên phương pháp cho vay theo nhóm, nghĩa là mỗi thành viên trong nhóm bảo đảm việc hoàn trả của mọi thành viên. Những chương trình “cho vay doanh nghiệp vi mô” tập trung vào tín dụng cho các hoạt động tăng thu nhập và hướng đến đối tựơng người nghèo vay vốn (thường là phụ nữ). Loại hình cho vay này đảm bảo trách nhiệm của người vay. Đó là yếu tố chính còn thiếu trong các doanh nghiệp tài chính vi mô khác. Bởi vì mỗi thành viên trong nhóm vay địa phương phải đảm bảo khả năng hoàn trả của tất cả những người khác tham gia vào món vốn, nếu một trong số những cá nhân này không có khả năng hoàn trả vốn vay của mình, cả nhóm sẽ hõ trợ thành viên đó về cả tài chính và tình cảm, ttừ đó khuyến khích kết quả kinh doanh tốt hơn. Các tổ chức tín dụng và tiết kiệm chính thống cho người nghèo đã hoạt động Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 12 Học viện Ngân hàng được hàng thế kỷ. Chúng cung ứng cho khách hàng là những người thường bị các ngân hàng thương mại bỏ qua, giúp họ tiếp cận các dịch vụ tài chính thông qua các hợp tác xã và các tổ chức tài chính đổi mới. 1.2.2. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ TẠI VIỆT NAM Tài chính vi mô du nhập vào Việt Nam từ những năm 1980 theo nhiều con đường khác nhau, chủ yếu thông qua các dự án tiết kiệm-tín dụng hoặc hợp phần tín dụng trong các dự án phát triển tổng hợp của các tổ chức phi chính phủ quốc tế, các tổ chức quốc tế (FAO, UNFPA, UNDP, WB, ADB,...) hoặc dự án song phương (BTC, SIDA Thụy Điển,...) nhằm vào nhóm đối tượng mục tiêu tại các vùng lựa chọn của họ. Đối tác của các dự án này thường là các đoàn thể chính trị xã hội, các hội nghề nghiệp, ... trong đó Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là đối tác lớn nhất với mạng lưới tới tận cơ sở trong cả nước. Cả bốn cấp của Hội Liên hiệp Phụ nữ (trung ương, tỉnh, huyện, xã) cùng tham gia làm đối tác của các chương trình khiến cho hoạt động tài chính vi mô trải rộng khắp các vùng, miền của Việt Nam, với các quy mô lớn nhỏ khác nhau, cấp độ phát triển và quản lý khác nhau, làm tăng thêm tính đa dạng và phân tán của tài chính vi mô Việt Nam. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của trào lưu chung về phát triển tài chính vi mô trên thế giới, tài chính vi mô Việt Nam cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm, thậm chí có lúc bị lệch lạc bởi sự nhận biết là khác nhau. Có thể chia tiến trình phát triển tài chính vi mô ở Việt Nam theo ba giai đoạn như sau: a. Giai đoạn khởi đầu (trước những năm 1980): Cũng giống như các nước trên thế giới, tài chính vi mô tại Việt Nam, với định nghĩa truyền thống, nó được hiểu là cho vay các món nhỏ, không hoặc có thể đòi hỏi vật bảo đảm, không lãi hoặc lãi cao. Với góc nhìn như vậy, có thể nói tài chính vi mô xuất hiện và tồn tại ở Việt Nam đã từ lâu đời, gắn với nền kinh tế tiểu nông, kinh tế tự cung tự cấp và nếp sống làng xã thường ngày của người dân trên tất cả các vùng miền, đặc biệt là khu vực nông thôn. Nó ít ý nghĩa trong phát triển kinh tế nhưng lại có ý nghĩa to lớn trong việc cứu giúp những người, những hộ gia đình gặp rủi ro bất ngờ, đe doạ cuộc sống và có thể đẩy họ rơi vào thảm cảnh. b. Giai đoạn mở rộng nhanh (1990-2000): Vào cuối những năm 1980, sau 30 năm trải nghiệm tại Băng-la-đét và Bra-xin cũng như một số nước khác, người ta phát hiện và khẳng định rằng người nghèo hoàn toàn có năng lực ngân hàng. Cũng giống như mọi người khác, người nghèo cần rất nhiều loại công cụ tài chính khác nhau để tạo dựng tài sản, để đảm bảo các chi dùng hàng ngày và tự bảo vệ mình trước các rủi ro bất kỳ lúc nào cũng có thể ập đến. Vào những năm này, cùng với trào lưu chung của thế giới, tài chính vi mô bắt đầu du nhập Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 13 Học viện Ngân hàng vào Việt Nam. Hội nghị Quốc tế khu vực Châu Á - Thái Bình Dương về "việc làm và tăng thu nhập cho phụ nữ" do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đăng cai tổ chức tại Hà Nội vào tháng 10 năm 1987 được coi là điểm xuất phát cho cá dự án tín dụng - tiết kiệm dành cho phụ nữ. Cơ quan phát triển Quốc tế của Thụy Điển (SIDA) ở Việt Nam là tổ chức đầu tiên tài trợ một dự án tín dụng cho phụ nữ 7 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam thông qua đối tác là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA) kết hợp với sự trợ giúp kỹ thuật của Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) đã cùng với Hội Liên hiệp Phụnữ Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam (1990 - 1993) tiến hành thử nghiệm dự án VIE/91/P01, với việc ngân hàng cấp vốn (tín dụng) không đòi hỏi thế chấp mà thông qua các nhóm phụ nữ tiết kiệm do Hội phụ nữ thành lập ở hai tỉnh là Hậu Giang (nay là Cần Thơ) và Hà Sơn Bình (nay sáp nhập vào Hà Nội). Sau ba năm thử nghiệm thành công, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã đề xuất cụm từ "Nhóm phụ nữ tiết kiệm" vào Nghị định 14 của Chính phủ về việc cho hộ nông dân vay mà không cần thế chấp. UNFPA cũng tiếp tục giai đoạn 2 của Dự án mở rộng ra 18 tỉnh trong cả nước. Vào những năm 1990, cơ quan phát triển quốc tế của một số nước như SIDA (Thụy Điển), DFID (Vương quốc Anh), BTC (Bỉ) và các tổ chức phát triển quốc tế như UNDP, UNFPA, UNICEF và các tổ chức phi chính phủ quốc tế cũng tiến hành các dự án tín dụng, tiết kiệm. Các tổ chức phi chính phủ quốc tế có dự án quy mô từ 10000 thành viên trở lên phải kể đến như Quỹ Nhi đồng Anh (SCUK), tổ chức Hành động Viện trợ Anh (Action Aid International in Vietnam). Các mô hình thực hiện tài chính vi mô của các tổ chức này cũng rất đa dạng bởi mục đích và phương pháp tiếp cận của mỗi tổ chức là khác nhau. Dự án lớn từ các tổ chức quốc tế và dự án song phương thường chỉ coi tín dụng nhỏ la yếu tố lồng ghép để thúc đẩy một số chương trình xã hội như kế hoạch hóa gia đình, giáo dục kiến thức cuộc sống, vệ sinh môi trường, ...Các dự án thuộc các tổ chức phi chính phủ quốc tế thường mang nhiều yếu tố kỹ thuật hơn. Các tổ chức này sử dụng một trong hai phương pháp tiếp cận: a) ứng dụng một phần phương pháp của Ngân hàng Grameen hoặc b) ứng dụng phương pháp ngân hàng làng xã cải tiến. Trong vô vàn các kiểu loại khác nhau, mô hình tài chính vi mô hai cấp được coi là hợp lý và có cơ sở để quản lý tốt. Theo kiểu này có các dự án của AAV, CIDSE, SCUS, CRS, OXFAM Anh, OXFAM Bỉ, GRET,...đặc biệt là mô hình hai cấp hạch toán độc lập của ActionAid được coi là theo hướng thể chế, có khả năng tiếp cận thị trường, phát triển nhanh và chi phí thấp. ActionAid theo đuổi phương pháp tiếp cận bảo đảm quyền cơ bản của người nghèo mà trong đó tiếp cận tín dụng được coi là một quyền quan trọng. sau 10 năm hoạt động (1993 - 2003), ActionAid đã xây dựng được 7 hệ thống dịch vụ 2 cấp ở 7 huyện trên 5 tinh từ miền núi Sơn La, tới Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 14 Học viện Ngân hàng duyên hải Ninh Thuận. Hệ thống này đã bao phủ 55 xã, phường và 7 huyện, thị đã cung cấp dịch vụ tiết kiệm và tín dụng cho trên 27000 thành viên. Cơ ngơi này là niềm tự hào không phải chỉ của chị em các dân tộc mà còn của các cộng đồng và được chính quyền các nơi đánh giá cao và ghi nhận vai trò tích cực của nó trong việc xóa đói giảm nghèo và bình đẳng dân tộc. Quỹ Nhi đồng Anh áp dụng mô hình cấp xã trực tiếp quản lý. Trong 10 năm, họ đã thiết lập được chương trình tại 16 xã của huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa và 22 xã thuộc huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh với nguồn vốn tài trợ lên đến hàng chục tỉ đồng. Phương pháp tiếp cận chủ yếu là cung cấp tín dụng nhỏ không thế chấp có gắn kết với tiết kiệm. Nhìn chung, các tổ chức quốc tế hoạt động tại Việt Nam đã đóng vai trò to lớn trong việc đặt nền móng cho sự phát triển tài chính vi mô tại Việt Nam. Họ đã cung cấp một nguồn lực đáng kể và tạo đà cho các tổ chức đại ương tiếp tục phát triển và trưởng thành. Các nhà tài trợ và các tổ chức tài chính vi mô bên ngoài cũng có nhiều đóng góp quan trọng trong việc hỗ trợ tài chính, hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ Việt Nam trong lĩnh vực tài chính vi mô. Ngay từ những năm 1995, Quỹ Tình Thương (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) đã gia nhập mạng lưới tín dụng, tiết kiệm cho người nghèo thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và sau đó là Quỹ CEP (Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh). Cả hai quỹ đã gia nhập mạng lưới Grameen toàn cầu và đã được đào tạo khá bài bản về công nghệ và quản lý tổ chức tài chính vi mô. Một số tổ chức hoạt động tài chính vi mô khác của Việt Nam như các chương trình của ActionAid cũng được công nhận là thành viên của phong trào tín dụng thượng đỉnh toàn cầu từ những năm 1997 tới nay. Vào thời điểm này, các nhà hoạt động tài chính vi mô có ảnh hưởng lớn mà đứng đầu là Giáo sư, tiến sĩ Muhammad Yunus đã phối hợp, thúc đẩy và tổ chức thành công "hội nghị thượng đỉnh vì tín dụng toàn cầu", lần đầu tiên họp tại Washington. Có tới 2900 đại biểu từ 300 quốc gia, các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ, các tổ chức phi chính phủ quốc tế và các nhà thực hành tài chính vi mô đã đến đây "...để nói những gì mà từ trước tới giờ chưa bao giờ nói, để lập nên những kế hoạch mà từ trước tới giờ chưa bao giờ lập và để làm những gì mà từ trước tới giờ chưa bao giờ làm, để mang đói nghèo ra khỏi hành tinh này". Hội nghị đã phát động phong trào tín dụng nhỏ với mục tiêu "tới năm 2005 sẽ có 100 triệu hộ nghèo được tiếp cận tới các dịch vụ tài chính để thay đổi cuộc sống". Tại phiên họp toàn thể bế mạc hội nghị, các đại biểu đã viết bản cam kết và kế hoạch hành động của quốc gia mình để thực hiện mục tiêu này. Đại biểu chính thức của Việt Nam tham gia Hội nghị này là các nhà lãnh đạo Quỹ Tình Thương (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam). Những cuộc hội nghị tiếp theo, thành phần tham dự của Việt Nam có thêm Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 15 Học viện Ngân hàng Quỹ CEP và một số tổ chức khác. Những đại diện này khi trở về đã có những nỗ lực thúc đẩy tài chính vi mô Việt Nam phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa. c. Giai đoạn phát triển theo chiều sâu (từ năm 2000 đến nay): Vào đầu thế kỷ 21, tài chính vi mô không còn là một chương trình trọng tâm của các tổ chức trên thế giới. Do đó, nhiều dự án, chương trình có hợp phần về tài chính vi mô tại Việt Nam đều lần lượt chấm dứt. Chương trình tín dụng có phạm vi lớn của UNICEF mà hội phụ nữ là đối tác thực hiện ở 42 tỉnh/thành cũng ngừng hoạt động, tiết kiệm của thành viên bị trả lại, quỹ vốn quay vòng được thu gom và sử dụng cho mục đích khác. Nhiều nhà tài trợ lớn đã rút hỏi chương trình và đem theo nguồn vốn của họ, bỏ lại đằng sau sự hụt hẫng của những người nghèo đang tham gia các chương trình đó. Chương trình của các tổ chức phi chính phủ quốc tế cũng lần lượt bàn giao cho địa phương tự quản lý trong khi mô hình còn chưa hoàn chỉnh, chưa rõ rnàg về mặt tổ chức, về tính pháp lý và quyền sở hữu, ...Có thể nói, đây là giai đoạn cực kỳ khó khăn với các tổ chức họat động tài chính vi mô bởi lẽ: 1) Cơ quan được giao thực hiện chưa phải là pháp nhân độc lập để tiếp nhận bàn giao; 2) Cơ quan nhận bàn giao chương trình không hiểu rõ về tài chính vi mô. Trong khi đó, cơ sở pháp lý để tiếp nhận chương trình còn nhiều bất cập, không rõ ràng về quyền sở hữu. Cơ quan kiểm tra hành chính không phù hợp với giám sát hoạt động tài chính vi mô. Tất cả những khó khăn đó đã dẫn tới hàng loạt chương trình tài chính vi mô bị thu hẹp hoặc tàn lụi như UNICEF, UNFPA, CIDSE, OXFAM Anh, OXFAM Hồng Kông, Quây cơ Mỹ,...Những chương trình chuyên về tài chính vi mô từng nổi danh một thời như chương trình của SCUK cũng đã mai một do định hướng không chuẩn. Quỹ Tình Thương (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) bề thế như vậy nhưng suốt trên 8 năm liền (1998 - 2005) cũng không nhận được thêm nguồn tài trợ và hỗ trợ kỹ thuật nào từ bên ngoài khiến cho việc mở rộng bị hạnh chế trong một thời gian dài. Trong bối cảnh đó, một số tổ chức đã quyết tâm củng cố, chuyển đổi cơ cấu tổ chức và tài chính, tăng cường năng lực và chuyên nghiệp hóa, sẵn sàng hòa vào dòng chảy tài chính chính thức khi luật pháp cho phép. Hàng loạt quỹ xã hội được thành lập dựa trên cơ sở pháp lý là Nghị định 177-1999/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của các quỹ xã hội, quỹ từ thiện nhân đạo và sau này được thay thế bởi Nghị định cùng tên số 148/2007/NĐ-CP. Bảy chương trình tiết kiệm -tín dụng do ActionAid tài trợ đã lựa chọn khung pháp lý trên để chuyển đổi. Tính tới nay, có khoảng 9 quỹ xã hội hoạt động tài chính vi mô. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý này cũng còn nhiều bất cập. Năm 2006, Quỹ Tình Thương (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) đã quyết định chuyển đổi thành đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam để tăng tính độc Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 16 Học viện Ngân hàng lập và hạch toán đầy đủ. Về khung pháp lý và chính sách, mặc dù Chính phủ đã dự thảo Nghị định từ những năm 2002 nhưng phải đến năm 2005 Nghị định 28/2005/NĐ-CP về thành lập và hoạt động tổ chức tài chính quy mô nhỏ mới được ban hành, tiếp sau đó là Nghị định 165 bổ sung Nghị định 28. Lần lượt các thông tư hướng dẫn đã ra đời. Đến nay mới chỉ có Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và M7 là hai tổ chức được cấp phép thành lập và hoạt động tài chính vi mô theo khung pháp lý mới. Với giấy phép này, Quỹ tình Thương (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) sẽ được chuyển đổi thành Tổ chức Tài chính quy mô nhỏ trách nhiệm hữu hạn một thành viên Tình Thương, góp mặt vào hoạt động tài chính vi mô chính thức của quốc gia. 1.3. CUNG, CẦU CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ TẠI VIỆT NAM 1.3.1. CẦU ĐỐI VỚI TÀI CHÍNH VI MÔ TẠI VIỆT NAM Cũng như tài chính vi mô tại các nước trên thế giới, đối tượng của tài chính vi mô Việt Nam là các hộ dân thu nhập thấp, tập trung vào những hộ nghèo theo chuẩn nghèo của chính phủ (400,000đ/người/tháng trở xuống tại nông thôn và 500,000đ/người/tháng trở xuống tại thành thị). Tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2008 là 13%, năm 2009 được giảm xuống còn 11% (theo báo cáo của Chính phủ). Đến năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo cả nước tăng đột biến lên 14.2%. Từ năm 2010, do thực hiện tốt các chính sách về giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam đã liên tục giảm xuống còn 11.76% năm 2011 và 9.6% năm 2012. Tuy nhiên, so với dân số Việt Nam trên 88 triệu người (hết năm 2012), số lượng người nghèo vẫn là một con số khá lớn. Và giải pháp giảm nghèo một phần chính là tài chính vi mô. Trong số các đối tượng nghèo kể trên, nhóm đối tượng chính của tài chính vi mô Việt Nam là phụ nữ. Việc xác định đối tượng này xuất phát từ một số yếu tố sau: - Tài chính vi mô không yêu cầu thế chấp. Đây là một cơ hội cho phụ nữ tiếp cận tín dụng vì thông thường ngân hàng yêu cầu thế chấp trong khi các tài sản có giá trị của gia đình như đất đai, phương tiện đi lại thường đứng tên người chồng. - Các dịch vụ tài chính vi mô mà phụ nữ tiếp cận thường có ảnh hưởng sâu rộng đối với cả gia đình. Thông thường, các thu nhập tăng lên nhờ các khoản vốn vay được đầu tư trở lại cho gia đình như cải thiện điều kiện sống, bảo đảm sức khỏe, giáo dục cho con cái. - Dịch vụ tài chính vi mô giúp phụ nữ tự chủ về tài chính, từ đó giảm sự lệ thuộc của phụ nữ vào chồng, con trong gia đình. - Song song với các dịch vụ tài chính, phụ nữ tham gia các chương trình tài chính vi mô được thụ hưởng các nội dung lồng ghép như sinh hoạt cộng đồng, giao lưu văn hóa, văn nghệ, đặc biệt là đào tạo một số kiến thức và kỹ năng hữu ích. Việc làm này nhằm mục đích nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 17 Học viện Ngân hàng 1.3.2. CUNG ĐỐI VỚI TÀI CHÍNH VI MÔ TẠI VIỆT NAM Tại Việt Nam, các dịch vụ tài chính vi mô được cung ứng qua 3 nhóm chính: Chính thức - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam - Các Quỹ tín dụng Nhân dân. - Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện Việt Nam. - Tổ chức tài chính quy mô nhỏ trách nhiệm hữu hạn một thành viên Tình Thương (TYM). - Tổ chức tài chính vi mô trách nhiệm hữu hạn M7 a. Nhóm chính thức. Bán chính thức - - 57 - Một số tổ chức Phi chính phủ Quốc tế. - Trên 50 tổ chức tài chính vi mô bao gồm các quỹ xã hội hoạt động chuyên về tài chính vi mô. - Hàng trăm dự án, chương trình tín dụng nhỏ hoặc tài chính vi mô do Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thực hành. Phi chính thức Họ/Hụi (Hình thức phổ biến các hội tiết kiệm và quay vòng vốn) Họ hàng, bạn bè, hàng xóm Người cho vay lãi  Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam. Với mạng lưới 610 chi nhánh tại 63 tỉnh, thành phố và dội ngũ cán bộ, nhân viên lên đến gần 8 000 người, đến tháng 9/2009, Ngân hàng chính sách xã hội đã cho vay 46% số người nghèo ở nông thôn và miền núi. Sau khi có sự phân định đối tượng, hầu hết các chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn không còn cung cấp món nhỏ cho các hộ nghèo. Thay vào đó, Ngân hàng chính sách xã hội được phân công khu vực này và khu vực 3 của miền núi. Tuy nhiên, với cơ chế “lấy cho vay trung hạn làm chủ yếu và mức vốn lớn”, Ngân hàng chinh sách xã hội đã để lại khoảng trống giữa các hộ nghèo chưa được vay và cả những hộ đang có dự nợ không còn cơ hội vay tiếp trong khi vẫn còn nhu cầu. Mặt khác, sự phân định thị trường đã vô tình loại ra ngoài tầng lớp cận nghèo chiếm tỷ lệ không nhỏ.  Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Cùng với ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn là hai tổ chức chính thức cho vay dân cư lớn nhất ở khu vực nông thôn và miền núi. Từ năm 2003, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã chuyển giao việc cho vay hộ nghèo cho Ngân hàng chính sách, nhưng vẫn thực hiện một số dự án tín dụng do các tổ chức quốc tế tài trợ thông qua nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 18 Học viện Ngân hàng thức (ODA) cùng với các chương trình tín dụng trựa tiếp khác từ chính phủ. Vốn vay của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ yếu cung cấp cho những người nông dân ở khu vực nông thôn thuộc tầng lớp trên và cho vay các doanh nghiệp lớn.  Quỹ tín dụng nhân dân. Quỹ TDND Trung ương được thành lập lần đầu tiên vào năm 1993. Quỹ TDND là tổ chức tín dụng nông thôn thành lập tại xã để cung cấp dịch vụ tài chính cho các hộ nông dân tại địa phương. Sự ra đời của hệ thống này đã góp phần quan trọng vào cho vay nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên phương pháp tiếp cận có tài sản đảm bảo của Quỹ Ttn dụng nhân dân cũng chưa thực sự hấp dẫn đối với người nghèo.  Công ty dịch vụ Tiết kiệm bưu điện Việt Nam. Được thành lập vào năm 1999, công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện hoạt động dưới quyền của Tổng cục Bưu chính viễn thông Việt Nam.Chức năng chính của công ty là cung cấp sản phẩm tiết kiệm dưới dạng phục vụ cho bộ phận dân cư Việt Nam (nông thôn, phụ nữ, người nghèo) để vận động tiết kiệm cho việc đầu tư phát triển chính phủ. Hiện nay công ty đã có chi nhánh hoạt động rộng khắp các tỉnh, thành phố, mức gửi tối thiểu là 50 000 nhưng cũng rất khó khăn đối với những hộ nghèo, dân tộc miền núi ở xa các trạm, chi nhánh bưu điện.  Tổ chức tài chính quy mô nhỏ trách nhiệm hữu hạn một thành viên Tình Thương (TYM) Tiền thân là Quỹ Tình Thương (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam), được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập năm 1992. Trải qua 20 năm hoạt động, Quỹ Tình Thương đã tiếp cận và cung cấp dịch vụ tài chính và phi tài chính cho trên 80 000 thành viên là phụ nữ nghèo thuộc 10 tỉnh phía Bắc. Ngày 17/8/2010, được Ngân hàng Nhà nước cấp phép thành lập và hoạt động tài chính quy mô nhỏ, Quỹ Tình Thương chuyển đổi thành Tổ chức tài chính quy mô nhỏ trách nhiệm hữu hạn một thành viên Tình Thương (TYM).  Tổ chức tài chính vi mô trách nhiệm hữu hạn M7 M7-MFI được thành lập trên cơ sở góp vốn của 03 Quỹ xã hội (Quỹ Hỗ trợ phụ nữ miền núi phát triển Mai Sơn, Quỹ Khuyến khích phụ nữ phát triển thị xã Uông Bí và Quỹ Hỗ trợ phụ nữ Đông Triều) hoạt động tại địa bàn 02 tỉnh là Sơn La và Quảng Ninh. M7 đã đựoc Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp Giấy phép hoạt động số 16a/GP-NHNN ngày 13/01/2012 về việc thành lập và hoạt động của M7-MFI với tên đày đủ là Tổ chức tài chính vi mô trách nhiệm hữu hạn M7. b. Nhóm bán chính thức. Các nhà cung cấp tài chính bán chính thức bao gồm các tổ chức được thành lập Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 19 Học viện Ngân hàng theo luật pháp Việt Nam. Những tổ chức tài chính vi mô này được coi là khuyến khích người nghèo hơn và hướng tới việc cung cấp dịch vụ tài chính sâu rộng hơn và thích hợp hơn so với khu vực tài chính chính thức. Hiện nay, tại Việt Nam có khoảng 57 tổ chức tài chính vi mô hoạt động trong nhóm bán chính thức, tiêu biểu là Quỹ CEP. c. Nhóm phi chính thức Các tổ chức này là thành phần còn lại của thị trường. Loại hình này rất đa dạng, với nhiều hình thức hỗ trợ tài chính không chính thức, như hỗ trợ từ phía gia đình, bạn bè, người cho vay cá nhân, hiệu cầm đồ hay hội/hụi/họ/biêu/phường. Đặc điểm của các nhóm nhà cung cấp dịch vụ nà là họ biết nhau và sống trong cùng một cộng đồng nên họ nắm bắt được tình hình tài chính của nhau. Bên cạnh đó, do chi phí hoạt động thấp nên họ cung cấp các dịch vụ một cách nhanh chóng, thuận lợi, dễ dàng. Tuy nhiên, cá sản phẩm tài chính này không đa dạng, kỳ hạn ngắn và ẩn chứa rủi ro cao. 1.4. VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ TẠI VIỆT NAM Với những sản phẩm, dịch vụ và hoạt động của ngành, tài chính vi mô đã và đang đóng một số vai trò quan trọng trong sự phát triển của quốc gia, cụ thể: 1.4.1. CUNG CẤP CÁC DỊCH VỤ TÀI CHÍNH CHO XÃ HỘI Cũng như những đối tượng xã hội khác, người nghèo cũng có những nhu cầu khác trong cuộc sống như nhà ở, lương thực, chăm sóc sức khỏe, học hành, v.v. và các nguồn tài chính để đáp ứng những nhu cầu trên. Sự ra đời và phát triển của tài chính vi mô với đối tượng là khách hàng nghèo và thu nhập thấp góp phần thỏa mãn nhu cầu của họ cũng như của xã hội nói chung, qua đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội. 1.4.2. THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Hoạt động của khu vực tài chính chính thức thường gồm các ngân hàng thương mại hay các công ty tài chính với đối tượng phục vụ là các doanh nghiệp lớn hay các khách hàng truyền thống có khả năng về tài sản. Cơ hội cho những người nghèo, người thu nhập thấp đối với các dịch vụ này là rất ít. Do đó, sự ra đời và hoạt động của tài chính vi mô góp phần bổ sung một nguồn cung tiềm năng, phục vụ cho một đối tượng khách hàng mà trước đó chưa được quan tâm bởi các nhà cung cấp tài chính chính thức. Xét về mặt cấu trúc thị trường, sự tham gia của những nhà cung cấp dịch vụ mới này sẽ khiến thị trường tăng tính cạnh tranh, sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trở nên đa dạng và thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng và xã hội. Tài chính vi mô, khi chứng tỏ được thế mạnh của mình, sẽ khiến các nhà cung cấp dịch vụ chính thức phần nào hướng sự quan tâm sang ngành này và thúc đẩy sự phát triển của tài chính vi mô nói riêng và hệ thống tài chính nói chung. 1.4.3. GÓP PHẦN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Nghèo đói là vấn đề nhức nhối trong các quốc gia đang phát triển, trong đó có Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII Chuyên đề tốt nghiệp 20 Học viện Ngân hàng Việt Nam. Để giúp người nghèo, các cách thức thường được áp dụng là giúp họ phát triển sản xuất bằng vốn vay, bằng kỹ thuật. Nhưng tốt hơn cả là giúp họ tự tạo việc làm ổn định, đối phó với rủi ro và từng bước thoát nghèo. Đó chính là những gì tài chính vi mô đang thực hiện. Với các sản phẩm lồng ghép đa dạng, tài chính vi mô cung cấp cho người nghèo nguồn vốn phù hợp với khả năng chi trả mà không đòi hỏi thế chấp, cho phép họ tận dụng các nguồn lực sẵn có để sản xuất kinh doanh, đồng thời cho họ một tấm lưới an toàn để tránh tái nghèo. 1.4.4. NÂNG CAO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG BIÊN Trong một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, các yếu tố sản xuất như vốn, kỹ thuật, phương tiện và các nguồn lực khác đều rất hạn chế. Trong khi đó, chúng ta lại có một nguồn lao động dồi dào. Trong khi dân số tăng nhanh hàng năm, các yếu tố sản xuất bổ sung không tăng hoặc không tăng kịp tốc độ tăng dân số. Thực trạng này dẫn đến mỗi đơn vị sản phẩm trên một đơn vị lao động giảm dần. Để giải quyết tình trạng này, việc giảm tỷ lệ gia tăng dân số là không đủ, mà còn cần bổ sung các yếu tố sản xuất. Và các dịch vụ tài chính vi mô đã phần nào cho người nghèo tiếp cận vốn và kỹ thuật, kết hợp với nguồn lực sẵn có của họ như sức lao động, ruộng vườn, địa điểm kinh doanh sản xuất để tạo việc làm bổ sung cho bản thân và xã hội. Từ đó, năng suất lao động biên của họ và xã hội cũng tăng lên. 1.4.5. ĐA DẠNG HÓA CÁC KHOẢN THU NHẬP NGOÀI SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở nước ta, người nghèo phần lớn tập trung ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, nơi mà họat động sản xuất nói chung phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và chỉ mang tính mùa vụ. Ngoài thời gian dành cho nông nghiệp, người dân có thể thực hiện các công việc khác nhưng lại thiếu vốn, thiếu kỹ thuật cũng như các phương tiện sản xuất, kinh doanh khác. Khi có các dịch vụ tài chính vi mô, họ có một phần nguồn để nghĩ đến các ngành nghề phụ hay các công việc kinh doanh, buôn bán khác. Nhờ đó, nguồn thu nhập của họ đa dạng hơn, giảm sự phụ thuộc vào các điều kiện thiên nhiên. 1.4.6. GIÚP NGƯỜI NGHÈO TRÁNH, GIẢM RỦI RO VỀ KINH TẾ Như đã đề cập trên đây, người nghèo phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên. Họ cũng không có đủ điều kiện tài chính để ứng phó với những cú sốc bên ngoài nên một khi gặp rủi ro, những nỗ lực suốt một quá trình dài của họ có thể không được giữ lại. Một lần bạo bệnh, một lần thiên tai có thể khiến họ mất nguồn thu, thậm chí phải bán hết tài sản với giá rẻ để giải quyết những khó khăn đột xuất. Để hỗ trợ người nghèo thoát nghèo bền vững, tài chính vi mô đã cung cấp cho họ dịch vụ bảo hiểm vi mô để giảm thiểu tác động của những rủi ro trong cuộc sống. Nhờ đó, thành quả lao động của họ không bị mất đi, mà vẫn góp phần giúp họ từng bước thoát nghèo. Phạm Thị Vân Lớp: 8A7 - VBII
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất