Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bài thu hoạch sự cần thiết của việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng...

Tài liệu Bài thu hoạch sự cần thiết của việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh

.DOC
21
24630
134

Mô tả:

LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QUỐC PHÒNG AN NINH ĐỐI TƯỢNG 3 BÀI THU HOẠCH SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG AN NINH Họ và tên: LƯU THỊ LAN ANH Đơn vị: Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động –Thương binh và Xã hội HÀ NỘI, THÁNG 11/2010 1 MỤC LỤC NỘI DUNG MỞ ĐẦU TRANG 3 PHẦN THỨ NHẤT Những kết quả đạt được của quá trình kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh 6 1. Quan điểm và sự chỉ đạo của Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị 6 2. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực Kinh tế - xã hội 7 3. Một số hạn chế và nguyên nhân 12 4. Bài học kinh nghiệm 14 PHẦN THỨ HAI Một số đề xuất về kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố an ninh quốc phòng trong chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2011 - 2020 15 1. Những vấn đề cần quan tâm trong việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố an ninh quốc phòng 15 2. Một số vấn đề trọng tâm trong chiến lược 16 KẾT LUẬN 20 2 MỞ ĐẦU Họat động kinh tế là họat động cơ bản thường xuyên gắn liền với sự tồn tại của xã hội loài người. Đó là tòan bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội phục vụ nhu cầu đời sống con người. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh ở nước ta là họat động tích cực chủ động của nhà nước và nhân dân trong việc gắn kết chặt chẽ họat động kinh tế - xã hội quốc phòng an ninh trong một chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương thúc đẩy nhau cùng phát triển góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc phòng an ninh là những mặt họat động cơ bản của mỗi quốc gia dân tộc độc lập có chủ quyền mỗi lĩnh vực có mục đích, họat động riêng và chịu sự chi phối của hệ thống quy luật riêng, song giữa chúng lại có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, tác động tích cực qua lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của quốc phòng an ninh, lợi ích kinh tế suy đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn xung đột xã hội, để giải quyết mâu thuẫn đó cần có quốc phòng và an ninh. Bản chất của chế độ kinh tế xã hội quyết định đến bản chất quốc phòng an ninh, xây dựng sức mạnh quốc phòng an ninh vì mục đích bảo vệ và đem lại lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội là do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa quy định, còn tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh vì mục đích bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản cầm quyền thực hiện chiến tranh xâm lược là do bản chất của chế độ kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa quyết định. 3 Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp cơ sở vật chất kỹ thuật nhân lực cho họat động quốc phòng an ninh vì vậy để xây dựng quốc phòng an ninh vững mạnh phải xây dựng phát triển kinh tế vững chãi. Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho quốc phòng an ninh qua đó quyết định đến tổ chức, biên chế của lực lượng vũ trang quyết định đến đường lối chiến lược quốc phòng an ninh. Quốc phòng – an ninh không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động trở lại với kinh tế - xã hội trên cả góc độ tích cực và tiêu cực. Quốc phòng an ninh vững mạnh sẽ tạo môi trường hòa bình ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh trong thời bình ở mức độ nhất định nào đó cũng có tác dụng kích thích kinh tế phát triển. Để hạn chế những tác động tiêu cực đến nền kinh tế và ảnh hưởng xấu đến quốc phòng an ninh thì sự kết hợp tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh với phát triển kinh tế - xã hội vào một thể thống nhất. Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với quốc phòng, an ninh là một trong những nguyên tắc cơ bản trong việc hoạch định chiến lược phát triển cũng như trong chỉ đạo điều hành của mỗi quốc gia. Đây là mối quan hệ trọng yếu mà mỗi quốc gia, nhà nước, mỗi dân tộc đều phải quan tâm đặc biệt. Lịch sử phát triển của thế giới cho thấy, các quốc gia phát triển mạnh về kinh tế đều quan tâm đến phát triển quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh, chính trị và trật tự xã hội có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ được thành quả của sự phát triển đất nước. Nhìn vào tiến trình phát triển của các quốc gia trên thế giới chúng ta thấy dù là nước lớn hay nước nhỏ kinh tế phát triển hay chưa phát triển, dù chế độ chính trị như thế nào thì mỗi quốc gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh. Tuy nhiên các nước khác nhau với chế độ chính trị xã hội khác nhau thì sự kết hợp cũng có sự khác nhau về 4 mục đích, nội dung, phương thức và kết quả ngay cả trong một nước trong mỗi giai đọan phát triển thì sự kết hợp cũng khác nhau. Ở Việt nam sự kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh đã có lịch sử lâu dài dựng nước đi đôi với giữ nước đó là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc. Trong xây dựng và phát triển kinh tế đã sử dụng nhiều chính sách khai hoang lập ấp ở những nơi xung yếu để phục binh sẵn sàng phá thế, âm mưu phá hoại từ xa của giặc đồng thời sản xuất và tạo thế trận đánh giặc cơ động lực lượng trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng do nắm vững quy luật và biết thừa kế kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh một cách nhất quán bằng những chủ trương sáng tạo phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lượng (1945 – 1954) Đảng đã đề ra chủ trương “Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” “vừa chiến đấu,, vừa tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm, vừa phát triển kinh tế ở địa phương, vừa tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp cả nước. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975) kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh đã được Đảng chỉ đạo thực hiện ở mỗi miền với nội dung và hình thức thích hợp. Thời kỳ đất nước độc lập 1975 đến nay kết hợp với phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh được Đảng ta khẳng định là một nội dung quan trọng trong đường lối xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và được triển khai quy mô rộng lớn toàn diện hơn. Nhờ có chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh chúng ta đã phát huy được tiềm năng cho xây dựng tổ quốc trong thời bình cùng với việc phát triển kinh tế là chăm lo củng cố tiềm lực quốc phòng thế trận quốc phòng. Kết hợp sức mạnh dân tộc với 5 sức mạnh thời đại tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù do vậy góp phần giữ gìn và phát triển đất nước ổn định cho đến ngày nay. Trong bài thu hoạch này là một số vấn đề nổi lên trong quá trình thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và những đề xuất cơ bản cho việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn 2010- 2020. PHẦN THỨ NHẤT NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA QUÁ TRÌNH KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG AN NINH. 1. Quan điểm và sự chỉ đạo của Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị. Ở nước ta, việc kết hợp đầu tư phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh đã được tổ chức thực hiện và từng bước phát triển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, lần đầu tiên Đảng ta đã đưa vấn đề “Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh” trở thành một trong sáu quan điểm cần quán triệt và thực hiện trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời là một trong sáu tư tưởng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, tại hội nghị Trung ương 8 (khoá 9), Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Quốc phòng, An ninh trong tình hình mới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Kết hợp kinh tế với củng cố quốc phòng – an ninh theo phương châm phát triển kinh tế - xã hội là nền tảng để bảo vệ tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố quốc phòng – an ninh vững mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội”. Bộ Chính trị cũng đã ban hành: Nghị quyết về phương hướng phát triển kinh tế- xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc 6 bộ đến năm 2010; Nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Nghị quyết về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; về phát triển kinh tế- xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên và Trung Bộ. Các nghị quyết thể hiện rất rõ nhiệm vụ gắn kết giữa phát triển kinh tế- xã hội với quốc phòng, an ninh. Coi nhiệm vụ xây dựng đất nước đặt lên hàng đầu nhưng luôn phải nêu cao tinh thần cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh luôn là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Nhà nước, cả hệ thống chính trị và của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng 2. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực Kinh tế- Xã hội Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 được thực hiện trong xu thế toàn cầu hoá nhanh và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng với nhiều cơ hội và thách thức đan xen; tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế toàn cầu năm 2008. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi rất cơ bản là chính trị- xã hội ổn định, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và tiềm lực của đất nước được tăng cường, quan hệ quốc tế được mở rộng, chúng ta cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức, khó khăn như: ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế khu vực từ năm 1997; sự yếu kém, bất cập trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội chậm được khắc phục; sự chống phá của các thế lực thù địch làm cho chúng ta phải dành nhiều công sức cho việc bảo đảm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; thiên tai dịch bệnh liên tiếp xảy ra trên nhiều vùng trong cả nước gây thiệt hại nặng nề. 7 Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã tranh thủ thời cơ thuận lợi, vượt qua thách thức khó khăn, nỗ lực phấn đấu để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. - Tiềm lực kinh tế được nâng cao, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. tốc độ tăng trưởng kinh tế cao so với nhiều nước và tăng liên tục trong nhiều năm, đã đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Đây là kết quả to lớn và có ý nghĩa quan trọng nhất. Thời kỳ 2001- 2010 đạt khoảng 7,2 %/ năm thấp hơn Trung Quốc ( 10 % ) và Malaysia ( 9,4 % ) xét về tốc độ tăng trưởng GDP. - Quy mô, thực lực của nền kinh tế tăng lên không ngừng, sau 10 năm quy mô GDP tính theo giá so sánh tăng gấp đôi. Nếu theo giá thực tế tính bằng đô la Mỹ năm 2010 tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt khoảng 106 tỷ USD, gấp 3,4 lần so với năm 2000 (31,2 tỷ USD). Năm 2008, GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đã đạt khoảng 1200 USD, gấp khoảng 3 lần so với năm 2000. Chỉ số phát triển con người ( HDI ) của Việt Nam năm 2007-2008 đạt 0,7333, xếp hạng 105/177 quốc gia và vùng lãnh thổ, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới. Nước ta đã ra khỏi nước đang phát triển có thu nhập thấp. - Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong cơ cấu GDP giai đoạn 2001- 2007 tăng liên tục, từ 36,7 % năm 2000 lên 41,5% năm 2007. Do chịu ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên tốc độ tăng trưởng công nghiệp và xây dựng năm 2008, 2009 giảm mạnh và đến năm 2010 dự tính tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP còn 40,3%. Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 24,5% xuống còn khoảng 19,9% và tỷ trọng dịch vụ giữ mức 38,9%. - Năng lực sản xuất tăng đáng kể, một số sản phẩm chủ lực của nền kinh tế đã hình thành và phát huy tác dụng. 8 Trong 10 năm 2001- 2010, năng lực sản xuất tăng nhanh, sản lượng thép tăng 4,4 triệu tấn, than tăng 30,4 triệu tấn, xi mănng tăng 37,2 triệu tấn, điện tăng 62,4 tỷ Kwh, phân hoá học tăng 1,6 triệu tấn. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, giảm mức tiêu thụ điện năng, nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhiều sản phẩm đã có uy tín và tạo được thương hiệu trên thị trường trong nước và thế giới. - Vốn đầu tư toàn xã hội tăng cao. Môi trường đầu tư được cải thiện, thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Trong 10 năm, tổng đầu tư xã hội cũng như tỷ trọng vốn đầu tư xã hội so với GDP tăng liên tục và duy trì ở mức cao. Tỷ lệ vốn đầu tư xã hội/ GDP năm 2010 dự kiến đạt khoảng 41,5 %, bình quân dự kiến đạt 40,7%, vượt mục tiêu đề ra; trong đó, vốn trong nước chiếm khoảng 70%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký 10 năm ước đạt 168 tỷ USD, thực hiện ước đạt 59 tỷ USD, giải ngân 20 tỷ USD. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đang trở thành một nguồn vốn đáng kể trong nền kinh tế. Cơ cấu đầu tư đã có bước chuyển biến tích cực. Đầu tư nhà nước (bao gồm cả đầu tư từ ngân sách và đầu tư của các DNNN) vẫn tăng về quy mô, tập trung cho những ngành, lĩnh vực quan trọng, các dự án, công trình trọng điểm thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, đầu tư nhiều hơn cho vùng nghèo, vùng khó khăn, bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. - Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân cơ bản được bảo đảm. Ngân sách nhà nước được cải thiện, thâm hụt quốc gia và nợ ngân sách ở mức an toàn. Năm 2010, thu ngân sách gấp hơn 4 lần so với năm 2000. Cơ cấu nguồn thu chuyển biến tích cực, tỷ trọng thu nội địa tăng nhanh, từ 51% năm 2000 lên 64,6% năm 2010. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân 8 năm 9 2001- 2008 đạt khoảng 26% GDP. Năm 2009 và 2010, mặc dù chính phủ đã thực hiện chính sách kích cầu để chống suy giảm kinh tế, miễn giảm thuế, tỷ lệ huy động NSNN ước đạt khoảng 23,3- 23,6% GDP. Tỷ trọng chi ngân sách so với GDP giai đoạn 2001- 2008 khoảng 30,2%. - Văn hoá, xã hội đạt được những thành tựu quan trọng; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên, có một số mặt đạt trình độ của các nước phát triển trung bình. Văn hoá, xã hội có bước phát triển khá, một số lĩnh vực đạt được những thành tựu quan trọng. Chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên, từ 0,688 năm 2000 lên 0,733 năm 2008, xếp thứ 105/177 nước tham gia xếp hạng, thuộc nhóm nước trung bình cao. Thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân được nâng lên. Thu nhập thực tế sau 10 năm gấp 3,5 lần so với năm 2000. Theo số liệu điều tra năm 2008, thu nhập thực tế tăng từ 221 nghìn đồng/ người/ tháng năm 1999 lên 728,5 nghìn đồng/ người/ tháng vào năm 2008. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2,09 lần năm 2004 và 2 lần năm 2008. Công tác phát triển nhà ở được chú trọng, đã huy động mọi nguồn vốn cho việc phát triển nhà ở tại các khu đô thị mới. Hàng năm tăng thêm khoảng 30 triệu m2 sàn, diện tích bình quân tăng từ 11m2 sàn/ người năm 2000 lên 18,6 m2 sàn/ người. Chất lượng về nhà ở ngày càng được nâng cao. Xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Việt Nam đã hoàn thành phần lớn mục tiêu Thiên niên kỷ cam kết trước cộng đồng quốc tế. Hầu hết các mục tiêu đặt ra cho năm 2015 đều đã đạt và vượt vào năm 2008 (xoá bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói; phổ cập giáo dục tiểu học; tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ; giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; tăng cường sức khoẻ bà mẹ; sốt rét và các dịch bệnh khác được 10 đẩy lùi; thiết lâp đối tác toàn cầu vì phát triển; có 2 mục tiêu chưa đạt là ngăn ngừa tình trạng HIV/ AIDS và đảm bảo bền vững về môi trường). Công tác xoá đói giảm nghèo đạt được nhiều kết quả, hộ nghèo giảm đáng kể. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước trung bình mỗi năm giảm 2- 3%, bình quân mỗi năm giảm được khoảng 400 nghìn hộ, đến năm 2010 tỷ lệ nghèo còn khoảng 10 %. Hằng năm, Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo đã hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho hàng nghìn xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn và hải đảo. Đang triển khai chương trình giảm nghèo cho 62 huyện nghèo nhất cả nước. Xã hội ổn đinh, đồng thuận và cởi mở hơn. Nhân dân tích cực hưởng ứng chủ trương của Đảng, nhà nước về phát triển kinh tế nhiều thành phần, đẩy mạnh các phong trào xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa… Việc kết hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh đã có bước chuyển cả về nhận thức và tổ chức thực hiện; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các khu kinh tếquốc phòng; phát triển công nghiệp quốc phòng đúng hướng, gắn kết với công nghiệp quốc gia, góp phần trực tiếp tham gia xây dựng, phát triển kinh tế- xã hội. Các vấn đề biên giới và lãnh thổ trên đất liền, trên biển và hải đảo được giải quyết phù hợp. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001- 2010 đã được thực hiện; đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,2%/ năm. Đến năm 2010, tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1.200 USD. Cơ cấu kinh tế 11 chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt; tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng; bình đẳng giới có nhiều tiến bộ. Công tác đối ngoại hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, quốc phòng an ninh được giữ vững, tạo môi trường hoà bình, ổn định và tăng them nguồn lực cho phát triển đất nước. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Chính trị- xã hội ổn định; thế và lực của đất nước vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đạt được những thành tựu nêu trên là nhờ phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc, năng động sang tạo của toàn dân, toàn quân dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước. 3. Một số hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những thành quả đã đạt được trong quá trình phát triển kinh tế gắn với củng cố an ninh quốc phòng vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phụ trong thời gian tới để ngày càng giữ vững ổn định chính trị đất nước. - Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức, cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; kinh tế phát triển chưa bền vững, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu; các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc: - Chất lượng tăng trưởng còn thấp, chủ yếu dựa vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng. - Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô và hàng công nghiệp chủ yếu là hàng gia công, hàm lượng công nghệ thấp và giá trị gia tăng thấp. Khoảng cách về thu nhập bình quân đầu người so với các nước trong khu 12 vực vẫn còn lớn. Mặc dù đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP tương đối cao trong những năm qua, nhưng thu nhập bình quân đầu người ở nước ta vẫn còn thấp. Năm 2008, thu nhập bình quân của đầu người ở Việt Nam chỉ đạt 890 USD, trong khi Thái Lan 2840 USD; Malaysia 6970 USD và Indonesia 2010 USD; Philippin 1890 USD. - Năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp: Hiệu quả đầu tư thấp: Nếu tính theo giá hiện hành, ICOR của Việt Nam thời kỳ 2001- 2008 là 5,26. - Việc thực hiện các chính sách về hỗ trợ hộ nghèo còn nhiều bất cập; chất lượng xoá đói giảm nghèo chưa vững chắc. Tỷ lệ hộ tái nghèo còn cao, số hộ cận nghèo còn nhiều. Việc xác định hộ nghèo đến nay vẫn chưa theo chuẩn quốc tế. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội chưa vững chắc, hơn 80% lực lượng lao động chưa tham gia BHXH. - Hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu và sự thay đổi của cơ cấu bệnh tật. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân còn nhiều bất cập. - Tiềm lực quốc phòng chưa đủ mạnh. Sức chiến đấu của quân đội có mặt còn hạn chế, vũ khí trang bị kỹ thuật còn lạc hậu. Việc phát triển các khu kinh tếquốc phòng còn nhiều khó khăn. Công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược có lúc, có nơi còn bị động. - Tuy nhiên, những thành tựu đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho phát triển còn hạn chế. Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt còn nhiều bức xúc. Môi trường đang bị ô nhiễm.Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng 13 vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ, vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị- xã hội và đe doạ chủ quyền quốc gia. Những yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Tư duy phát triển kinh tế xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn bất cập. Tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức còn nhiều hạn chế. Tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém, chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết có hiệu quả những khâu đột phá, then chốt và những vấn đề xã hội bức xúc. Quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ. Kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. 4. Bài học kinh nghiệm Từ thực tiễn phát triển đất nước và kết quả thực hiện Chiến lược 10 năm qua có thể rút ra các bài học chủ yếu, cũng là những yêu cầu quan trọng cần quán triệt và vận dụng tốt hơn trong thời kỳ Chiến lược tới. Một là, phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phải thực hiện đổi mới toàn diện và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với lộ trình và bước đi thích hợp, tập trung vào mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ và phát huy sức sang tạo của mình; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tích cực chủ động hội nhập quốc tế, huy động các nguồn lực và tranh thủ điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 14 Hai là, đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Ba là, bảo đảm độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị xã hội, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước Bốn là, bảo đảm gắng kết chặt chẽ giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quả lý của Nhà nước, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. PHẦN THỨ HAI MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ KẾT HỢP GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ AN NINH, QUỐC PHÒNG TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC GIAI ĐOẠN 2011- 2020 1. Những vấn đề cần quan tâm trong việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố an ninh, quốc phòng Trong giai đoạn hội nhập sâu rộng hơn, việc phát triển kinh tế gắn với đảm bảo quốc phòng - an ninh phải được nhận thức sâu sắc hơn. Gắn phát triển kinh tế với đảm bảo quốc phòng - an ninh được thể hiện sinh động qua nhiều chương trình, kế hoạch. Đơn cử, trong lĩnh vực đầu tư, việc thẩm định các dự án đầu tư trong cả nước đã có thêm một quy trình quan trọng, đó là thẩm định của các cơ quan quốc phòng và công an để đảm bảo thế trận quốc phòng - an ninh trong cả nước. Bên cạnh đó, việc đảm bảo nguồn lực quốc phòng - an ninh gắn với phát triển kinh tế cần được đánh giá toàn diện hơn. Ngoài nguồn lực của quốc gia, thì việc huy động nguồn lực khác vào nhiều lĩnh vực phục vụ quốc phòng - an ninh, 15 phát triển kinh tế cũng cần được chú ý, như y tế, giáo dục đào tạo, tìm kiếm cứu nạn, giải quyết thảm hoạ môi trường… - Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược và quá trình thực hiện chiến lược. - Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát triển mạnh văn hoá và phát huy dân chủ. - Phát triển kinh tế-xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường. Đồng thời phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. - Đổi mới đồng bộ, phù hợp với kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. - Thực hành dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. - Phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng át triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đât nước để tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả. - Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. 2. Một số vấn đề trọng tâm trong chiến lược: 2.1. Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội Cần quan tâm đến một số giải pháp như: 16 - Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực. - Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, tạo nền tảng cho một nước công nghiệp. - Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững. - Phát triển mạnh cac ngành dịch vụ, nhất là các dich vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh. - Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông. - Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hoá xã hội hài hoà với phát triển kinh tế. - Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo. - Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. - Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khi hậu. 2.2. Trong phát triển các vùng miền - Phát triển hài hoà , bền vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới. - Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch và có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển, phát huy lợi thế của từng vùng, tạo sự liên kết giữa các vùng. Thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan toả đến các vùng khác; đồng thời, tạo điều kiện phát triển nhanh hơn các khu vực còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các vùng biên giới, hải đảo, Tây Nam, Tây nguyên, Tây Bắc và phía tây các tỉnh miền Trung. 17 - Vùng đồng bằng: Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, hình thành các vùng chuyên canh sản xuất lúa hang hoá lớn, đẩy mạnh thâm canh sản xuất lúa. Hiện đại hoá công nghiệp bảo quản chế biến. Hình thành các khu công nghiệp, các cụm, nhóm sản phẩm công nghiệp và dịch vụ công nghệ cao, tiết kiệm đất gắn với đô thị lớn để hình thành các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, có tầm cỡ khu vực, có vai trò dẫn dắt và tác động lan toả đến sự phát triển các vùng khác. - Vùng trung du miền núi: Phát triển mạnh các vùng sản xuất lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi đại gia súc tạo thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung, trước hết là các vùng công nghiệp chế biến và xuất khẩu, bảo vệ và phát triển rừng. Khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai, thuỷ điện và khoáng sản; xây dựng hồ chứa nước và phát triển thuỷ lợi nhỏ kết hợp thuỷ điện. Khuyến khích phát triển công nghiệp và dịch vụ có nhu cầu diện tích đất lớn. Phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm đường ô tô tới các xã thông suốt bốn mùa và bảo đảm có đường ô tô đến các thôn, bản. Chú trọng phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội tại các khu vực biên giới, nhất là tại các cửa khẩu. - Vùng biển, vùng ven biển và hải đảo: Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biểm của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển và hợp tác quốc tế. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, đóng tầu, xi măng, chế biến thuỷ sản chất lượng cao… Đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, tạo thành các trung tâm kinh tế biển vững mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ….Phát triển kinh tế đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và lợi thế của từng đảo. Quy hoạch và phát triển có hiệu quả nghề muối, đảm bảo nhu cầu của đất nươc và của đời sống nhân dân. 18 2.3. Trong lĩnh vực quốc phòng an ninh đối ngoại - Giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại,chủ động hội nhập nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. - Tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển, hải đảo trong mọi tình huống. Giữ vững hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. - Bố trí thế trận quốc phòng, an ninh phù hợp với tình hình mới. Gắn kết quốc phòng với an ninh. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình dự án. Lồng ghép các chương trình để xây dựng các khu kinh tếquốc phòng ở vùng biên giới, hải đảo. Xây dựng lực lượng quân đội nhân dân và công an nhân dân vững mạnh toàn diện, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; bảo vệ tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội; làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, mọi ý đồ và hành động xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không để bị động, bất ngờ. - Thực hiện tốt đường lối đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế tạo môi trường hoà bình, ổn định và tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài để phát triển đất nước. Chủ động, tich cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả, góp phần phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Thực hiện có trách nhiệm các cam kết quốc tế. Phát huy vai trò và nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vào phát triển đất nước. - Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để tu hút mạnh các nguồn vốn quốc tế; thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ cao, công nghệ nguồn, mở rộng thị trường xuất khẩu. 19 KẾT LUẬN Là một cán bộ hiện đang làm việc tại Viện Khoa học Lao động và xã hội, là cơ quan nghiên cứu đầu ngành của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, nhiệm vụ chủ yếu của đơn vị là nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và nghiên cứu ứng dụng về các lĩnh vực lao động, người có công và xã hội, được làm việc trong một môi trường ổn định về chính trị cũng như ổn định về kinh tế, bản thân tôi cũng có một số nhận thức sâu sắc qua thời gian học tập, nghiên cứu tại lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh thấy rằng: Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến việc kết hợp phát triển kinh tế xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh và được thực hiện đồng bộ từ chủ trương, xây dựng chính sách, các chương trình hành động, kế hoạch triển khai và chỉ đạo điều hành; sự kết hợp này được thực hiện từ cấp trung ương đến địa phương và cơ sở. Kết quả phát triển kinh tế xã hội trong 10 năm qua có sự đóng góp tích cực bởi chủ trương và công tác điều hành cụ thể của Đảng và Nhà nước, sự kết hợp này không chỉ cho riêng từng địa phương, từng vùng, mà còn lôi kéo được sự quan tâm của toàn nhân dân trong cả nước. Ý thức xây dựng một đất nước ngày càng giàu mạnh về kinh tế, ổn định về chính trị đã thấm nhuần trong mọi tầng lớp nhân dân, các kỳ họp của Quốc Hội, các kỳ Đại hội Đảng luôn được nhân dân theo dõi và ủng hộ. Xây dựng chiến lược trong giai đoạn tới cần tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục các nhược điểm để có một chiến lược tốt hơn, toàn diện hơn. Nhận thức từ lớp bồi dưỡng kiến thức an ninh quốc phòng tôi muốn nhấn mạnh một số vấn đề: Từ quá khứ, cả nước đã đứng lên đấu tranh giành độc lập, chủ quyền đất nước và hiện tại đang giữ vững ổn định để đất nước ngày càng phát triển. Trong tương lai, giai đọan mới khi xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội thì không thể không xây dựng chiến lược bảo vệ quốc phòng, an ninh; củng cố quốc phòng an ninh sẽ tạo điều kiện cho phát triển kinh tế xã hội; ngược lại phát 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng