Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đánh giá hiện trạng môi trường khu vực công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viê...

Tài liệu Đánh giá hiện trạng môi trường khu vực công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phân đạm và hóa chất hà bắc

.PDF
74
95
79

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ------------------------ NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN Đánh giá hiện trạng môi trường khu vực công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phân đạm và hoá chất hà bắc LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP Thái Nguyên – 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ------------------------ NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN Đánh giá hiện trạng môi trường khu vực công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phân đạm và hoá chất hà bắc CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG MÃ SỐ: 60 85 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Nông Thái Nguyên – 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá đất nước Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên kéo theo đó là sự xuống cấp nghiêm trọng của môi trường gây tác hại tới sức khoẻ của con người. Các hoạt động của con người đã đưa vào môi trường các chất thải và chất độc hại. Môi trường nước, môi trường không khí, môi trường đất đang bị suy thoái trầm trọng gây ảnh hưởng sâu sắc tới sinh vật và con người. Bắc Giang là tỉnh trung du miền núi phía Bắc nằm trên trục đường xuyên Á và hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế. Hòa cùng công cuộc Công nghiệp hóa – hiện đại hóa của cả nước Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Giang đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên song song với quá trình phát triển vượt bậc về kinh tế là những tác động to lớn tới môi trường. Minh chứng rõ nhất cho điều này là chất lượng ngày một đi xuống của dòng sông Thương, đoạn chảy qua Thành phố Bắc Giang. Công ty TNHH MTV Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc, là một thành viên trực thuộc Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam. Trụ sở công ty tại phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Sản phẩm chính của Công ty là phân đạm Urê, ngoài ra Công ty còn sản suất thêm các sản phẩm phụ khác như: phân NPK, CO2 lỏng và rắn, Amoniắc lỏng, Oxi, than hoạt tính. Bên cạnh các thành tựu to lớn đó, hoạt động sản xuất và kinh doanh của công ty không những ảnh hưởng xấu tới môi trường nước mà còn gây ảnh hưởng tới môi trường đất, đặc biệt là môi trường không khí. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng này vẫn chưa được nghiên cứu và đánh giá cụ thể. Các biện pháp bảo vệ môi trường cho hoạt động của công ty chưa được xây dựng đồng bộ và chặt chẽ. Điều này gây khó khăn rất lớn cho công tác quản lý cũng như bảo vệ môi trường của Công ty TNHH MTV Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc. Xuất phát từ thực tiễn trên, được sự đồng ý của Ban Giám hiệu nhà trường, Khoa Sau đại học, Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Ngọc Nông tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 giá hiện trạng môi trường khu vực Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc”. 2. Mục đích của đề tài - Đánh giá hiện trạng môi trường khu vực Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phân đạm và hoá chất Hà Bắc. - Đề xuất các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phân đạm và hoá chất Hà Bắc. 3. Yêu cầu của đề tài - Các mẫu đất, không khí và mẫu nước phải được lấy trong khu vực chịu tác động của hoạt động sản xuất của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phân đạm và Hoá chất Hà Bắc. - Đánh giá đầy đủ, đúng đắn hiện trạng sản xuất và tác động của nó đến môi trường đất, nước và không khí của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phân đạm và Hoá chất Hà Bắc. - Tìm hiểu và đề xuất các công nghệ xử lý thích hợp, các cơ chế quản lý, kiểm soát ô nhiễm môi trường trong việc sản xuất phân bón và hóa chất cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phân đạm và Hoá chất Hà Bắc. 4. Ý nghĩa của đề tài - Củng cố các kỹ năng về quan trắc và phân tích môi trường. - Thực hiện thành thục các bước lấy mẫu, bảo quản, phân tích trong phòng thí nghiệm. - Nhận xét, phân tích, tổng hợp và xử lý các số liệu thu được để đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường nước, đất và không khí tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phân đạm và Hoá chất Hà Bắc. - Các số liệu được thu thập, phân tích, tổng hợp tương đối chính xác có thể được sử dụng làm căn cứ để đánh giá hiện trạng ô nhiễm tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phân đạm và Hoá chất Hà Bắc và đưa ra một số giải pháp để bảo vệ môi trường trong thời gian tới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 Chương 1 Tổng quan các vấn đề nghiên cứu 1.1. Cơ sở lý luận về môi trường - Khái niệm về môi trường: Theo luật bảo vệ môi trường 2005 của nước CHXHCN Việt Nam: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người ” (Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam 2005)[12]. Theo từ điển tiếng Việt: “ Môi trường là một tổ hợp các yếu tố bên ngoài của một hệ thống nào đó. Chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng và tình trạng tồn tại của nó”. Còn theo định nghĩa khái quát về môi trường phổ biến trên thế giới thì “ Môi trường của một vật thể, hoặc là một sự kiện tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới vật thể và sự kiện đó” (Trần Yêm, Trịnh Thị Thanh, 1998)[18]. - Khái niệm về ô nhiễm môi trường: Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi thành phần, tính chất của môi trường. Chất gây ô nhiễm môi trường là những nhân tố làm cho môi trường trở thành độc hại. Nguồn ô nhiễm từ hoạt động sản xuất công nghiệp là nguồn gây ô nhiễm môi trường lớn nhất trong số các nguồn ô nhiễm nhân tạo. Sự phát triển nhiều ngành công nghiệp, nhiều nhà máy có tầm cỡ khác nhau trên toàn cầu đã tạo ra một khối lượng khổng lồ chất thải rắn, lỏng, khí đổ vào môi trường làm cho chất lượng môi trường giảm sút. Đặc biệt là ở nhiều nước đang phát triển và kém phát triển, ở nhiều thành phố, khu công nghiệp của các nước này chất thải không được xử lý hoặc được xử lý kém được thải trực tiếp vào môi trường và làm cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. 1.2. Tình hình sản xuất và sử dụng phân bón hoá học trên thế giới và Việt Nam 1.2.1. Tình hình sản xuất và sử dụng phân bón hoá học trên thế giới Cây trồng cũng như con gia súc, tôm, cá... muốn sinh trưởng tốt, khoẻ mạnh tăng trọng nhanh và cho năng suất cao cần phải được nuôi dưỡng trong điều kiện đầy đủ thức ăn, có đủ các chất bổ dưỡng theo thành phần và tỷ lệ phù hợp. Trẻ con tuy lúc mới sinh có cơ thể to, nặng cân nhưng nếu sữa mẹ kém chất, nuôi nấng thiếu khoa học thì cũng có thể trở nên còi cọc. Đối với cây Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 trồng, nguồn dinh dưỡng đó chính là các chất khoáng có chứa trong đất, trong phân hoá học (còn gọi là phân khoáng) và các loại phân khác. Trong các loại phân thì phân hoá học có chứa nồng độ các chất khoáng cao hơn cả. Từ ngày có kỹ nghệ phân hoá học ra đời, năng suất cây trồng trên thế giới cũng như ở nước ta ngày càng được tăng lên rõ rệt. Ví dụ chỉ tính từ năm 1960 đến 1997, năng suất và sản lượng lúa trên thế giới đã thay đổi theo tỷ lệ thuận với số lượng phân hoá học đã được sử dụng (NPK, trung, vi lượng ) bón cho lúa. Trong những thập kỷ cuối thế kỷ 20 (từ 1960-1997), diện tích trồng lúa toàn thế giới chỉ tăng có 23,6% nhưng năng suất lúa đã tăng 108% và sản lượng lúa tăng lên 164,4%, tương ứng với mức sử dụng phân hoá học tăng lên là 242%. Nhờ vậy đã góp phần vào việc ổn định lương thực trên thế giới (Tổ chức Nông lương của Liên Hiệp Quốc, 2010)[20]. * Tình hình sản xuất phân bón Năm 2008, sản lượng urê toàn cầu tăng 1,7% so với 2007, trong khi đó sản lượng phân lân và phân kali giảm 7,5% và 2,8% tương ứng do nhu cầu nhập khẩu giảm. Bước sang năm 2009, ngành sản xuất phân bón thế giới đứng trước điều kiện thị trường trì trệ, doanh số yếu, triển vọng sản xuất và thương mại không mấy sáng sủa. Tuy nhiên, những động lực chính cho sự tăng trưởng nhu cầu phân bón vẫn còn nguyên vẹn. Cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu vẫn chưa được giải quyết. Dự trữ lương thực thực phẩm và nông sản hàng hóa giảm xuống mức thấp so với nhiều năm. Vì vậy, nhu cầu phân bón sẽ hồi phục, tuy tốc độ hồi phục phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong thời gian 2000 - 2007, ngành sản xuất phân bón thế giới đã tăng tốc độ sản xuất để đáp ứng nhu cầu. Tỷ lệ vận hành công suất đã đạt đến đỉnh cao vào năm 2007 khi các nhà sản xuất vận hành với 97% công suất danh định ở cả ba chất dinh dưỡng chính. Nhưng sự suy thoái của nhu cầu thị trường từ cuối năm 2008 đã buộc tỷ lệ vận hành công suất trong sản xuất phân bón giảm trở về mức của năm 2000. Trong những năm qua, ngành sản xuất phân bón trên thế giới đã đầu tư nhiều để phát triển các nhà máy mới. Nhưng đầu tư mở rộng công suất phân bón, cả ở những nước có nguồn cung nguyên liệu giá rẻ hoặc có khả năng tiếp cận nguồn vốn tài chính, là rất tốn kém và mạo hiểm do tính chu kỳ của ngành. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 Về ngắn hạn, ngành sản xuất phân bón toàn cầu sẽ cần phải đầu tư tổng cộng gần 90 tỉ USD để mở rộng công suất hiện nay theo kế hoạch dự kiến đến năm 2013. Tuy nhiên, tình trạng suy giảm mạnh nhu cầu tiêu thụ trong thời gian 2008/2009, liên kết với những khó khăn về tài chính, đã ảnh hưởng đến triển vọng phát triển các công suất mới. Về ngắn hạn, một số dự án đã bị trì hoãn, khiến cho các nhà máy dự kiến sẽ đi vào vận hành chậm hơn vài năm. Nhưng về trung hạn, nhiều dự án mới đã được công bố trong 12 tháng qua trên toàn thế giới do những dự báo lạc quan về triển vọng thị trường trong tương lai. * Tình hình sử dụng phân bón hóa học Từ lâu nông dân ta đã có câu "người đẹp nhờ lụa, lúa tốt nhờ phân". Phân bón đã là một trong những nhân tố chính làm tăng năng suất cây trồng để nuôi sống nhân loại trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều nước không có công nghệ sản xuất phân bón, nhưng ngoại tệ lại có hạn nên việc sử dụng phân khoáng ở các nước có sự chênh lệch khá lớn. Sự chênh lệch này không phải do tính chất đất đai khác nhau quyết định mà chủ yếu là do điều kiện tài chánh cũng như trình độ hiểu biết về khoa học dinh dưỡng cho cây trồng quyết định. Còn trong các nước phát triển mức độ sử dụng phân khoáng khác nhau là do họ sử dụng cây trồng khác nhau, điều kiện khí hậu khác nhau, cơ cấu cây trồng khác nhau và họ cũng sử dụng các chủng loại phân khác nhau để bón bổ sung. Các số liệu khảo sát cho thấy, bình quân các nước châu Á sử dụng phân khoáng nhiều hơn bình quân thế giới. Tuy nhiên, Ấn Độ (nước có khí hậu nóng) lại dùng phân khoáng ít hơn bình quân toàn châu Á. Trong lúc đó Trung Quốc và Nhật lại sử dụng phân khoáng nhiều hơn bình quân toàn châu Á. Hà Lan là nước sử dụng phân khoáng nhiều nhất. Tuy nhiên lượng phân chủ yếu bón nhiều cho đồng cỏ, rau và hoa để thu sản lượng chất xanh cao. Việt Nam được coi là nước sử dụng nhiều phân khoáng trong số các nước ở Đông Nam Á, số liệu tham khảo năm 1999 như sau: - Việt Nam: bình quân 241,82 kg NPK/ha - Malaysia: bình quân 192,60 - Thái Lan: bình quân 95,83 - Philippin: bình quân 65,62 - Indonesia: bình quân 63,0 Myanma: bình quân 14,93 - Lào: bình quân 4,50 - Campuchia: bình quân 1,49 Theo số liệu ghi nhận được ở trên cho thấy Campuchia, Lào và Myanma sử dụng phân khoáng ít nhất, đặc biệt là Campuchia. Có thể đó là thị trường xuất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 khẩu phân bón của Việt Nam khá thuận lợi, nếu Việt Nam góp phần nâng cao kiến thức sử dụng phân bón cho họ có kết quả. Dự kiến nhu cầu sử dụng phân bón trên thế giới từ năm 2008 – 2012 được thể hiện ở bảng 2.1. Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng tiêu thụ phân bón trung bình hàng năm trên thế giới từ năm 2008 - 2012 STT Khu vực N P2O5 K2O 1 Châu Phi 4,5% 3,1% 2,0% 2 Mỹ 1,3% 3,7% 2,3% 3 Bắc Mỹ 0,7% 2,6% 1,0% 4 Châu Mỹ La Tinh 2,5% 4,6% 3,5% 5 Châu Á 3,1% 2,8% 3,8% 6 Tây Á 4,5% 1,5% 2,3% 7 Nam Á 3,3% 4,9% 5,9% 8 Đông Á 2,8% 1,9% 3,2% 9 Châu Âu 0,4% -0.2% -0.1% 10 Trung Âu 2,6% 1,5% 1,8% 11 Tây Âu -0.3% -1,0% -0,7% 12 Đông Châu Âu và Trung Á 5,7% 6,1% 3,5% 13 Châu Đại Dương 2,0% 1,0% 0,6% 14 Thế giới 2,6% 2,8% 2,7% ( Nguồn : Báo cáo phân bón thế giới xu hướng và triển vọng đến năm 2012)[20] 1.2.2. Tình hình sản xuất và sử dụng phân bón hoá học tại Việt Nam * Tình hình sản xuất phân bón ở Việt Nam Ở Việt Nam, theo số liệu của Vụ Khoa học Công nghệ và chất lượng sản phẩm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), hiện nay có trên 100 doanh nghiệp đầu mối và các thành phần kinh tế tham gia vào mạng lưới phân bón (sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ) và đã đưa ra thị trường tiêu thụ ít nhất 1.420 loại phân bón bao gồm 6 loại chính. Bảng 2. Các loại phân bón được sử dụng ở Việt Nam STT Loại Số loại 1 Phân đơn 17 2 NPK 1.084 3 Hữu cơ – Khoáng 79 4 VSV 20 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 5 Trung lượng – Vi lượng 60 6 Khác 160 (Nguồn: Bộ NN&PTNT, 2009) Hầu hết các loại phân bón đơn nhập khẩu hoặc do các doanh nghiệp công nghiệp trong nước sản xuất đều đảm bảo đúng chất lượng. Trong khi đó chất lượng các loại phân bón N – P – K, hữu cơ sinh học, hữu cơ khoáng lại đang là vấn đề nổi cộm gây nhức nhối cho người tiêu dùng và trong một chừng mực nào đó ảnh hưởng rất lớn đến môi trường nông nghiệp nói chung và sản xuất kinh doanh nói riêng. Về chất lượng phân bón qua các đợt kiểm tra của các chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng cho thấy chất lượng phân bón trên thị trường rất đáng lo ngại. Bảng 3. Tình hình phân phức hợp trên thị trường Số mẫu Số mẫu Tỷ lệ Cơ sở kiểm định kiểm tra không đạt không đạt 5 Sở NN & PTNT (Hải Dương, An Giang, 218 86 40% Tiền Giang, Bến Tre, Thái Bình) 9 Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 267 124 56% Bộ NN & PTNT 26 21 80% (Nguồn: Bộ NN&PTNT, 2009) Ngoài ra ở miền Bắc Việt Nam còn tồn tại tập quán sử dụng phân Bắc, phân chuồng tươi vào canh tác. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, phân tươi còn được coi là nguồn thức ăn cho cá, gây ô nhiễm môi trường đất, nước, ảnh hưởng tới sức khỏe con người. * Tình hình sử dụng phân bón ở Việt Nam Trong khi các nước phát triển đang có xu hướng giảm việc sử dụng phân bón thì tại các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam thì xu hướng này càng tăng. Sử dụng phân bón sẽ để lại một lượng không nhỏ dư lượng do không được cây trồng hấp thụ, sẽ tác động tiêu cực đến chính hệ sinh thái nông nghiệp cũng như gây ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và làm biến đổi gen ở một số cây trồng. Việc sử dụng phân bón gây sức ép đến môi trường nông nghiệp nông thôn bởi 3 lý do: + Sử dụng không đúng kỹ thuật nên hiệu lực phân bón thấp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 + Bón phân không cân đối nặng về sử dụng phân đạm (bảng 2. 4) + Chât lượng phân bón không đảm bảo, các loại phân bón N – P – K, hữu cơ vi sinh, hữu cơ khoáng do các cơ sở nhỏ lẻ sản xuất trôi nỏi trên thị trường, chất lượng không đảm bảo đang là nỗi áp lực cho chính nông dân và môi trường đất. Bảng 4. Lượng phân bón vô cơ sử dụng ở Việt Nam qua các năm Năm N P2O5 K2 O NPK N+ P2O5+ K2O 1985 342,3 91,0 35,9 54,8 469,2 1990 425,4 105,7 29,2 62,3 560,3 1995 831,7 322,0 88,0 116,6 1223,7 200 1332,0 501,0 450,0 180 2283,0 2005 1155,1 554,1 354,4 115,9 2063,6 2007 1357,5 551,2 516,5 179,7 2425,2 (Nguồn: Cục Trồng trọt, Bộ NN & PTNT, 2008) Theo tính toán của Bộ NN & PTNT ở Việt Nam, năm 2008 hiệu suất sử dụng phân đạm mới chỉ đạt tử 30 – 45 %, phân lân từ 40 – 45 %, kali từ 40 – 50 %, tùy theo chất đất, giống cây trồng, thời vụ, phương pháp bón, loại phân bón… Như vậy còn khoảng 55 – 70% lượng đạm tương đương khoảng 1,8 triệu tấn ure, 55 – 60% lượng lân tương đương 2 triệu tấn supe lân, 50 – 60% lượng kali tương đương 340 nghìn tấn kali clorua được bón vào đất nhưng cây trồng chưa sử dụng. Tính từ năm 1985 đến nay diện tích gjeo trồng ở nước ta chỉ tăng 57,7% nhưng lượng phân bón hóa học sử dụng tăng 517%. Trong vòng 25 năm qua tổng các yếu tố dinh dưỡng đa lượng N+ P2O5+ K2O năm 2007 đạt 2,4 triệu tấn, tăng gấp hơn 5 lần lượng sử dụng năm 1985. Xét về mặt kinh tế hàng năm có khoảng 2/3 lượng phân bón cây trồng không sử dụng được, đồng nghĩa với việc 2/3 lượng tiền người nông dân bỏ ra mua phân bón bị lãng phí, với tổng thất thoát lên khoảng 30 ngìn tỷ đồng theo giá phân bón năm 2008 (Bộ NN & PTNT, 2008). Xét về mặt môi trường ngoại trừ một phần chất dinh dưỡng trong phân bón được keo đất giữ lại là nguồn dinh dưỡng dự trữ cho mùa sau, hàng năm một lượng lớn phân bón bị rửa trôi hoặc bay hơi đã làm xấu đi môi trường sản xuất nông nghiệp và môi trường sống; đó cũng là tác nhân gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 1.3. Ảnh hưởng của phân bón hoá học đến môi trường 1.3.1. Ảnh hưởng của phân bón hoá học đến môi trường đất Nitrat (NO3-) là yếu tố cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của nhiều loại cây trồng. Đồng thời NO3- cũngt được xem là mối đe dọa cho sức khỏe con người và tính trong sạch của các nguồn nước tự nhiên. Tính trung bình, khi bón phân đạm vào đất, thực vật hấp thụ khoảng 50-60%, số còn lại sẽ phân tán vào các nguồn khác. Mặc dù nitơ thực vật rất cần, nhưng gần như nó không bị đất hấp phụ và luôn tồn tại trong dung dịch đất dưới dạng ion NO3- dễ linh động, dễ bị rửa trôi đi vào nguồn nước. Kết quả nghiên cứu của Russel (1972) ở 18 con sông của nước Anh cho thấy hệ số tương quan giữa sự gia tăng hàm lượng NO 3- ở nước sông và mức độ sử dụng phân đạm có tương quan dương R = 0,7. Trong nước ao hồ, nồng độ nitơ dạng nitrat (N - NO3-) có thể thay đổi từ 0 – 4 mg/l; đôi khi có thể tới 1 mg/l (bảng 2.5). Bảng 5. Liều lượng bón phân đạm và sự tích lũy NO3trong nước ngầm và nước mặt Liều lượng N - NO3N - NO3bón phân đạm trong nước ngầm (mg/l) trong nước bề mặt (mg/l) 129 12,71 1,40 170 18,84 1,67 35 9,50 0,39 52 8,47 0,60 50 8,16 0,50 24 7,18 1,02 (Nguồn: Russel, 1972) Những kết quả nghiên cứu khác bằng nguyên tử đánh dấu đã khẳng định, N – NH4+ trong nước cũng có nguồn gốc từ chủ yếu từ nitơ bón vào đất. Như vậy, nguồn gốc NO3- trong nước là do bón phân vô cơ và hữu cơ, đặc biệt khi người nông dân không biết cách bón, bón không đều và bón thúc đúng vào thời kỳ cây không cần. Ở các nước công nghiệp phát triển, một lượng đáng kể NO3được lắng đọng từ khí quyển, còn ở các nước vùng nhiệt đới NO 3- cũng được lắng đọng do mưa going, sấm sét. * Nitrat và hội chứng trẻ xanh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 Nitrat không phải vấn đề mới, cách đây hang trăm năm, người ta đã ghi nhận nồng độ cao của nó trong các giếng nước ăn. Nhưng điều phát hiện mới nhất là NO3- có lien quan tơi sức khỏe cộng đồng và biểu hiện qua hai loại bệnh: - Methaemoglobinaemia: hội chứng trẻ xanh ở trẻ sơ sinh. - Ung thư dạ dày ở người lớn. Thực ra NO3- không độc, nhưng khi nó bị khử thành nitrit (NO2- ) trong cơ thể thì nó trở nên rất độc. Methaemoglobinaemia: hội chứng trẻ xanh thường xảy ra khi đứa trẻ dưới 10 tuổi. Các vi khuẩn trong dạ dày khử nitrat thành nitrit và xâm nhập vào máu, nó phản ứng với heamoglobin chứa Fe 2+ là phân tử có chức năng vận chuyển oxy đi khắp cơ thể. Một ion Fe 3+ có rất ít năng lực vận chuyển oxy trong máu do đó gây nên sự tắc nghẽn hóa học. Trẻ sơ sinh thường rất nhạy bén với căn bệnh này, bởi vì heamoglobin bào thai có ái lực với NO2- mạnh hơn heamoglobin thông thường xuất hiện trong khoảnh khắc trong các mạch máu. Do đó dạ dày của chúng ta không đủ độ axit để ngăn các vi khuẩn biến đổi NO3- thành NO2-. NO2- còn làm trầm trọng thêm bệnh viêm dạ dày và đường ruột. Ở Hungari, từ những năm 1976 – 1982 đã có 1.300 người chết, nguyên nhân là do các nguồn nước chứa NO3-. Ở mỹ cũng đã xuất hiện methaemoglobinaemia nước giếng, vì 98% giếng nước tư nhân đào sát gần với các nguồn gây ô nhiễm do phân động vật và phân người, làm xuất hiện không những NO3- mà còn có cả E.coli và các vi khuẩn gây hại khác. * NO3- và ung thư dạ dày Ung thư dạ dày gây suy nhược, đau đớn, chết. Bệnh này cũng liên quan tới hàm lượng NO3- trong nước. Mối liên quan này được giải thích là NO2- sinh ra từ NO3-, phản ứng với một loại amin thứ sinh xuất hiện khi phân hủy mỡ hoặc protein ở bên trong dạ dày và tạo ra hợp chất N – nitroso (là hợp chất gây ung thư). Vì tính chất nguy hiểm của NO3- đối với sức khỏe cộng đồng nên châu Âu qui định mức chuẩn cho nước uống là 11,3g N/m3 (tương đương với 50g N/m3), giá trị tối ưu là không quá 5,6g N/m3 (tương đương với 2,5g N/m3). 1.3.2. Ảnh hưởng của phân bón hoá học đến môi trường nước Ảnh hưởng rõ nét nhất của việc sử dụng phân bón hóa học tới môi trường nước đó chính là hiện tượng phú dưỡng và suy giảm chất lượng các nguồn nước. Phú dưỡng là hiện tượng gia tăng hàm lượng nitơ và phospho trong lượng nước nhập vào các thủy vực, gây sự tăng trưởng của các thực vật bậc thấp (rong, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 tảo…). Nó tạo ra những biến đổi lớn trong hệ sinh thái nước, làm giảm oxy trong nước. Do đó làm chất lượng nước bị suy giảm và ô nhiễm. Do môi trường nước có chứa các chất dinh dưỡng N và P làm cho thực vật phù du phát triển mạnh, tăng sinh khối, đặc biệt là tảo que, tảo xanh hoa và nhiều loại tảo độc khác. Hàm lượng chất diệp lục cũng tăng lên đáng kể và bị thối rữa, phân hủy dẫn đến làm giảm nghiêm trọng oxy hòa tan trong nước, một yếu tố cơ bản của quá trình tự làm sạch của môi trường nước, đặc biệt là ở những nơi có độ sâu đáng kể. Sự phân hủy của tảo là một trong những nguyên nhân chính gây ra sự thiếu oxy nghiêm trọng trong nước. Quá trình này xảy ra theo phương trình: (CH2O)106(NH3)16H3PO4 + 138O2 = 106CO2 + 122H2O + 16HNO3 + H3PO4 Từ phản ứng này cứ 1 phân tử thực vật phù du đã sử dụng 276 nguyên tử oxy để tiến hành phản ứng phân hủy và giải phóng một lượng đáng kể axit và CO2 vào nguồn nước làm giảm pH của nước, nước bị nhiễm bản và có mùi hôi thối, cá chết hàng loạt. Nguyên nhân của hiện tượng phú dưỡng là các nguồn thải có chứa N và P. Người ta chia ra: - Nguồn điểm: Các nguồn thải từ hệ thống cống rãnh trong các khu thị trấn, thành phố, các khu công nghiệp. Nguồn thải này phụ thuộc rất nhiều vào mứ sống của nhân dân và chuẩn mực vệ sinh trong khu vực. Ngoài ra phospho lại được sử dụng rất nhiều trong phân bón và trong bột giặt. - Nguồn diện hay phân tán: Khu vực này rất rộng lớn bao gồm các khu vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và các vùng chảy tràn từ khu đô thị. Cụ thể là: + Vùng canh tác: Phân bón, xói mòn. + Khu chăn thải: Phân súc vật và các sản phẩm thối rữa, xói mòn. + Các khu vực sản xuất sữa và các sản xuất sữa. + Nước thải dân dụng trong khu vực. Việc sử dụng phân đạm và phân lân trong nông nghiệp xúc tiến quá trình phú dưỡng trong các hồ chứa ở Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bắc Mỹ và rất nhiều nước ở Châu Âu. Ngày nay, rất nhiều các vùng cửa song và các vịnh đã bị nhiễm nặng các sản phẩm phân bón trong lục địa. Đó là các miền Duyên Hải Bắc và Nam Mỹ; Châu Phi, Ấn Độ; Đông Nam Á, Úc, Trung Quốc và Nhật Bản. Hiện nay, sự phú dưỡng vùng biển đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng có tầm vóc toàn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 cầu. Ở một số nước công nghiệp phát triển, người ta đã nghiên cứu các hợp phần góp vào phú dưỡng. Ví dụ: ở Thụy Điển, băm 1989, khoảng 26% tổng nitơ gây ô nhiễm các vùng biển có nguồn gốc từ nông nghiệp; 23% từ rừng và ngành lâm nghiệp; 10% lắng đọng từ khí quyển; 8% từ đất ngập nước; 19% từ nước thải đô thị và nông thôn; 4% từ công nghiệp và 10% từ các nguồn khác. (Lê Văn Khoa, Nguyễn Xuân Cự, Trần Thiện Cường, Nguyễn Đình Đáp, 2010)[11]. Phân đạm không phải là nguồn gây phú dưỡng duy nhất mà cón rất phổ biến đối với các bãi chăn nuôi. Chất thải từ các bãi thải này trở thành nguồn gây ô nhiễm nước ở nhiều nước công nghiệp hóa. Ví dụ: Ở Anh và xứ Wales, thì các bãi chăn thả đóng góp tới 20% vào hiện tượng phú dưỡng. Theo WHO, nước không thể dùng để uống khi nồng độ NO3- > 45ppm. Cộng đồng châu Âu đã đưa khuyến cáo “Khi ở một vùng nào đó có nồng độ NO 3- trong nước ngầm >50mg/l thì được coi là vùng dễ bị tổn thương” và ở các vùng đó bắt buộc phải giới hạn những hoạt động phân bón trong nông nghiệp. 1.3.3. Ảnh hưởng của phân bón hoá học đến khí quyển Ngoài những ảnh hưởng của công nghiệp, giao thông, hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp và có ảnh hưởng không nhỏ đến khí quyển. Hiệu ứng lớn nhất mà nông nghiệp, lâm nghiệp tác động vào khí quyển là các chất thải CO, NO, CH4, NH3. Riêng khí mêtan, hàng năm trên thế giới thải khoảng 250 triệu tấn, trong đó các hoạt động nông, lâm nghiệp chiếm 40 – 46%. Hệ quả của lượng khí CH4 là tạo ra hiệu ứng nhà kính. Các khí thải NO, CO là tác nhân làm suy giảm tầng ozôn vì khi bay hơi vào tầng này chúng thực hiện các quá trình: CO + O3 CO2 + O2 NO + O3 NO2 + O2 CH4 + O3 CO2 + H2O Sự suy giảm tầng ôzôn, hiệu ứng nhà kính gây tác hại to lớn đến Trái Đất vì quá trình hạn chế sự sinh trưởng và năng suất các loại cây trồng. Mặt khác ảnh hưởng đến phần hơi nước của tầng khí quyển, hệ quả của các quá trình đó làm Trái Đất nóng lên. Tác động ngược lại của hiệu ứng nhà kính là hạn hán, cháy rừng, sa mạc hóa, … Tất nhiên hậu quả trên đây không chỉ do ngành nông lâm nghiệp gây ra mà còn nhiều nguyên nhân khác. Tồn tại một cân bằng giữa Trái Đất với phần khí quyển, sự tồn tại cân bằng giữa nhiều yếu tố trong Trái Đất (bao gồm chủ yếu là địa quyển, thủy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 quyển, sinh quyển). Những sự chuyển hóa từ phân rắn (phân bón, hữu cơ, rác thải, bã thải…) với phân lỏng và phần khí là không thể tách rời và luôn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố từ khí quyển và ngược lại. Cân bằng này cần được bảo vệ và tạo điều kiện để nó tồn tại và phát triển một cách bền vững. 1.4. Hiện trạng hoạt động sản xuất của Công ty TNHH một thành viên Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc 1.4.1. Vài nét giới thiệu về vị trí địa lý của Công ty Công ty TNHH một thành viên Phân đạm và Hoá chất Hà Bắc nằm ở vùng ven phía Bắc Thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, cách trung tâm trành phố 3 km và cách Thành phố Hà Nội 50 km về phía Bắc, nằm trên khu đất có tổng diện tích 70,6 ha. - Phía Nam giáp khu dân cư đô thị của phường Thọ Xương, thành phố Bắc Giang. - Phía Đông giáp khu đất hoang, khu dân cư nông thôn nằm xen giữa tường vây phía Bắc nhà máy và đồi Bứa thuộc xã Xuân Hương – huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. - Phía Tây giáp khu dân cư phi nông nghiệp nằm xen giữa tường vây phía Tây nhà máy với đê sông Thương. - Phía Bắc giáp các đồi Giác, đồi Rừng, đồi A xit thuộc xã Xuân Hương – huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 Hình 1. Vị trí địa lý của Công ty TNHH MTV Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc - Địa hình, địa chất Theo kết quả khoan thăm dò địa chất trong khu vực công ty, địa tầng được phân chia thành các lớp đặc trưng như sau: + Lớp 1: 1a, 1b: Là lớp đất phủ, đất trồng trọt, lớp đất bùn ao có chiều dày thay đổi từ 0,20 ÷ 0,60 m, lớp này có Ro rất yếu. + Lớp 3: Lớp sét màu đỏ, đoạn dưới màu vàng, trạng thái cứng, chiều dày biến đồi từ 3,4 ÷ 5,1 m, có Ro bằng 2,9 kg/cm2. + Lớp 4a, 4b: Sét, sét pha màu nâu đen, có chỗ vàng nâu, trang thái nửa cứng, đôi chỗ cứng, dẻo cứng có chiều dày biến đổi từ 5,0 ÷ 7,2 m, có Ro bằng 1,8 ÷ 2,1 kg/cm2. + Lớp 5, 5a: Bột kết , các kết phong hóa mạnh mầu nâu đen đến phong hóa hoàn toàn thành cát màu nâu, trạng thái cứng, chiều dày biến đổi từ 4,3 ÷ 9,85 m , có Ro bằng 2,8 kg/cm2. - Khí hậu thủy văn + Khí hậu: Công ty Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc năm trong vùng Đông bắc Việt Nam nên mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa đông nhiệt độ rất thấp, cuối mùa rất ẩm ướt. Mùa Hạ rất nóng và nhiều mưa. Nhiệt độ hai mùa chênh lêch rõ rệt từ 12 – 25o C. Thời tiết nồm và mưa phùn là hiện tượng khác độc đáo của vung khí hậu đồng bằng Bắc Bộ. Mưa phùn tập trung vào tháng hai và tháng ba, độ ẩm trung bình không dưới 80%. Nói chung, không khí dịu hòa, thích hợp với nhiều loại cây trồng và gia súc. Tuy nhiên, lũ lụt và bão hàng năm là mối đe dọa cho con người. + Thủy văn: Sông Thương là một sông tự nhiên lớn, chảy qua khu vực của nhà máy và đây là nguồn nước mặt đóng vai trò quan trọng trong cấp nước cho hoạt động sản xuất của Công ty TNHH một thành viên phân đạm và hóa chất Hà Bắc. Tuy nhiên bên cạnh đó sông Thương cũng là nơi tiếp nhận nước thải từ các hoạt động sản xuất của công ty. Sông Thương có đặc điểm thuỷ văn như sau: Mực nước trung bình các tháng trong năm và mực nước trung bình của từng năm của sông Thương tại trạm Phủ Lạng Thương từ năm 1998 đến năm 2008 là: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 Mực nước trung bình của tháng có trị số lớn nhất là 538cm (tháng 7/2011), trị số nhỏ nhất là 48cm (tháng 12/2008) Mực nước trung bình của năm có trị số lớn nhất là 212cm (năm 2001) trị số trung bình lớn nhất là 131cm (năm 2007). Mùa mưa ở lưu vực sông Thương thường bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 9 ở thượng lưu hay tháng mười ở trung lưu và hạ lưu. Lượng mưa trong các tháng mùa mưa chiếm khoảng 65 -85 % tổng lượng mưa năm. 1.4.2. Cơ cấu tổ chức, hiện trạng sản xuất của Công ty TNHH một thành viên Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc 1.4.2.1. Cơ cấu tổ chức của Công ty Trong quá trình phát triển của Công ty, cơ cấu quản lý tổ chức luôn được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu theo từng giai đoạn phát triển chung của đất nước. Hiện nay cơ cấu tổ chức quản lý của công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyến, chức năng với cấp quản lý cao nhất là Giám đốc, giúp việc cho Giám đốc là các phó Giám đốc có nhiệm vụ giúp Giám đốc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực do Giám đốc yêu cầu. Tóm lại: Các đơn vị cấp dưới chỉ nhận một mệnh lệnh duy nhất là Giám đốc. 1.4.2.2. Các lĩnh vực kinh doanh của công ty Hiện nay, các sản phẩm chính của Công ty từ năm 2000 đến năm 2009 bao gồm 5 loại như sau: Urê; Amoniac lỏng; CO2 lỏng, rắn; Điện năng; Bảng 6. Sản lượng các sản phẩm chính từ năm 2004 đến hết tháng 11 năm 2010 TT 1 2 3 Sản Đơn phẩm vị 2004 2005 2006 2007 2008 2009 11/201 0 Urê tấn 162.268 161.795 173.553 183.677 181.432 180.535 182.264 NH3 lỏng CO2 tấn 100.521 96.112 102.577 110.444 111.608 114.416 112.682 tấn 5.111 7.061 9.918 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14.386 29.008 27.041 http://www.lrc-tnu.edu.vn 28.064 16 lỏng Điện MWh 242.541 236.007 266.136 276.892 273.608 255.797 268.568 4 (Nguồn: Sở Công thương Bắc Giang, 2011) 1.5. Một số kết quả phân tích chất lượng môi trường khu vực công ty * Chất lượng nước thải sản xuất của Công ty TNHH MTV Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc tháng 10 năm 2007 Nhà máy phân đạm và hóa chất Hà Bắc là đơn vị sản xuất phân đạm ure phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Lượng nước thải phát sinh chủ yếu từ 04 xưởng (xưởng nhiệt, tạo khí, tổng hợp amoniac và xưởng tổng hợp ure), phần lớn các loại nước thải này được thải xuống đường thải chung của công ty rồi chảy ra kênh 420 sau đó bơm ra sông Thương hoặc cấp cho kênh Nông Giang. Đặc thù nước thải của công ty có amoniac tồn tại ở dạng NH4-OH hoặc hợp chất có chứa gốc nito, và chất độc hại đối với môi trường nước, nhất là các động vật thủy sinh. Để đánh giá chất lượng nước thải tiến hành lấy và phân tích mẫu tại 4 công đoạn sản xuất và nước tại kênh 420 ra sông Thương. Chất lượng nước thải được thể hiện tại bảng 4.7. Bảng 7. Chất lượng nước thải tại Công ty TNHH một thành viên Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc tháng 10 năm 2007 Kết quả phân tích TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 Chỉ tiêu Nhiệt độ pH Độ dẫn điện Chất rắn lơ lửng Chất rắn hòa tan BOD5 COD SO42NO3- - N Ammoniac PO43Florua Chì Đơn vị o C mS/cm mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l M1 M2 M3 M4 M5 25,1 9,12 0,58 198 245 19 42 91 2,98 0,77 0,63 0,02 0,02 29,9 8,86 0,74 193 232 22 49 106 2,69 0,64 0,49 0,02 0,02 28,5 8,25 0,56 112 254 23 49 88 2,46 2,81 0,66 0,01 0,02 31,9 8,86 0,74 193 232 26 49 108 2,78 0,35 0,65 0,02 0,01 29,1 8,11 0,58 198 245 36 41 99 3,01 0,71 0,68 0,02 0,01 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn TCVN 59452005 (cột A) 40 6-9 50 20 50 1 5 0,1 17 14 15 16 17 18 Asen Cadimi Thủy ngân Xianua Sắt mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l <0,001 <0,001 <0,001 <0,001 <0,001 0,01 Vết 0,01 Vết 0,02 Vết Vết Vết Vết Vết 0,11 0,12 0,16 0,14 0,13 0,52 0,56 0,48 0,62 0,73 0,05 0,005 0,005 0,07 1 ( Nguồn: Trung tâm Kỹ thuật Môi trường và Công nghiệp Hóa chất)[7] Ghi chú: TCVN 5945-2005: Nước thải công nghiệp – Giá trị giới hạn các thông số và nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải công nghiệp. M1: Mẫu nước công nghệ làm lạnh 1 lần M2: Mẫu nước tại phân xưởng tạo khí M3: Mẫu nước thải phân xưởng Urê M4: Mẫu nước thải phân xưởng nhiệt điện M5: Mẫu nước tại kênh 420 ra sông Thương Nhận xét: Qua kết quả phân tích có thể nhận thấy mẫu nước tại 4 phân xưởng và kênh 420 thì các chỉ tiêu về pH, Chất rắn lơ lửng, BOD5, Xianua đều vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP). Cụ thể: - Chỉ tiêu về độ pH: chỉ có nước thải của công nghệ làm lạnh lần 1 vượt TCCP 1,013 lần, các mẫu nước thải khác mặc dù chưa vượt nhưng đã sấp sỉ với ngưỡng cho phép. - Chỉ tiêu về chất rắn lơ lửng: mẫu nước công nghệ làm lạnh vượt 3,96 lần, tại phân xưởng tạo khí vượt 3,86 lần, tại phân xưởng Urê vượt 2,24 lần, nước thải phân xưởng nhiệt điện vượt 3,86 lần và nước tại kênh 420 vượt 3,96 lần so với TCCP. - Chỉ tiêu về BOD5: Đối với chỉ tiêu này thì nước thải tại phân xưởng tạo khí vượt 1,1 lần, tại phân xưởng Urê vượt 1,15 lần, nước thải phân xưởng nhiệt điện vượt 1,3 lần và nước tại kênh 420 vượt 1,8 lần so với TCCP, riêng đối với nước thải làm lạnh lần 1 dù chưa vượt TCCP nhưng đã sát gần với ngưỡng cho phép. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18 - Chỉ tiêu xianua: nước thải tại nước làm lạnh lần 1, tại phân xưởng tạo khí, phân xưởng urê, phân xưởng nhiệt điện, nước kênh 420 lần lượt vượt TCCP là 1,57 lần, 1,71 lần, 0,23 lần, 0,2 lần và 0,186 lần Các chỉ tiêu khác đều nằm trong TCCP, tuy nhiên chỉ tiêu về COD trong các mẫu nước thải đã gần với giới hạn cho phép. Như vậy nước thải của Công ty vẫn có các chất gây ô nhiễm làm ảnh hưởng tới môi trường xung quanh cũng như người dân xung quanh. Sở dĩ nước thải của Công ty vẫn có các chỉ tiêu vượt TCCP là do tại các xưởng sản xuất hệ thống thu gom và xử lý chưa được đầu tư đúng mức và đúng kỹ thuật. Điều này cũng là nguyên nhân chính để công ty bị đưa vào danh sách kèm theo quyết định 64/2003/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ “kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng” Bảng 8. Chất lượng môi trường không khí tại khu vực sản xuất của Công ty TNHH một thành viên Phân đạm và hóa chất Hà Bắc năm 2007 STT Kết quả phân tích (mg/m3) NO2 SO2 CO NH3 Bụi Tiếng ồn (dBA) Vị trí lấy mẫu 1 Khu vực tạo khí 0,21 0,19 0,59 0,29 0,22 83,9 2 Khu vực bãi than nguyên liệu 0,17 0,24 0,51 0,28 0,58 74,8 3 Khu vực nhiệt điện 0,16 0,21 0,55 0,28 0,45 82,7 4 Khu vực đóng bao urê 0,25 0,20 0,48 0,63 0,63 76,8 5 Khu vực tháp tạo hạt urê 0,25 0,19 0,49 0,57 0,54 83,4 6 Phân xưởng nén khí 0,23 0,16 0,52 0,22 0,18 86,4 7 Khu vực tinh chế khí 0,18 0,18 0,45 0,19 0,19 80,3 8 Khu văn phòng nhà máy 0,09 0,23 0,41 0,20 0,11 58,6 9 Khu vực trạm xử lý nước 0,03 0,25 0,22 0,16 0,11 60,3 TCVN 5937 - 2005 0,2 0,35 30 - 0,3 - TC 12 kèm theo QĐ 3773QĐ-BYT - - - - - 75 ( Nguồn: Công ty CP thiết kế công nghiệp hóa chất – Trung tâm kỹ thuật môi trường, 2007)[7] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất